News Filters

ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN

15 Tháng Mười Một 2021

ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN

DẪN NHẬP

“Tình yêu Đức Ki-tô quy tụ chúng ta nên một”

  1. Tình yêu Đức Ki-tô đã quy tụ một số lớn các môn đệ nên một, để như Người và nhờ Người, trong Chúa Thánh Thần,  theo dòng thời gian, họ có thể đáp  lại tình yêu của Chúa Cha, bằng cách  yêu mến Người ”hết lòng, hết dạ, hết sức” (x. Đnl 6,5) và yêu  anh em ”như chính mình” (x. Mt 22,39).

Trong số các môn đệ này, những  người đã cùng nhau quy tụ thành  các cộng đoàn tu trì, những người  nam và người nữ ”thuộc mọi dân,  mọi chi tộc, mọi nước và mọi  ngôn ngữ” (Kh 7,9) đã và vẫn còn  là biểu hiện hùng hồn của tình yêu  cao siêu và vô biên này.

Được sinh ra ”không do ý muốn của  xác thịt”, không bởi sự hấp  dẫn cá nhân, cũng không bởi động  lực con người, nhưng bởi ”Thiên  Chúa” (Ga 1,13), do lời mời gọi và  sự lôi cuốn siêu nhiên, các cộng  đoàn tu trì là dấu chỉ sống động  về sự tối thượng của tình  yêu Thiên Chúa, Đấng làm nên những  điều kỳ diệu, và về tình yêu  đối với Thiên Chúa và với  anh chị em mình như đã được  Đức Giê-su Ki-tô biểu lộ và  thực hiện.

Vì tầm quan trọng của các cộng đoàn  tu trì đối với đời sống và  sự thánh thiện của Giáo Hội, nên  cần phải tìm hiểu kinh nghiệm sống của  các cộng đoàn tu trì hôm nay, dù  là đan tu và chiêm niệm, hay dấn thân  hoạt động tông đồ, mỗi cộng  đoàn theo sắc thái riêng. Tất cả  các vấn đề được đề cập  ở đây, liên quan đến cộng đoàn dòng tu cũng được áp dụng cho  các cộng đoàn trong các tu đoàn tông  đồ, tuy vẫn tôn trọng đặc tính  và pháp chế riêng của họ.

  1. Chủ đề của văn kiện liên quan đến sự kiện này : đặc điểm mà đời sống huynh đệ cộng  đoàn thể hiện nơi một số quốc  gia hôm nay có nhiều biến chuyển sánh  với cách thức xưa kia. Những biến  chuyển này, cũng như những hy vọng  và thất vọng kèm theo, và vẫn đang  tiếp tục, cần được suy tư dưới  ánh sáng Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Những  biến chuyển đó đã dẫn đến  những hệ quả tích cực và cả  những hệ quả cần xem xét lại. Chúng  làm sáng tỏ nhiều giá trị Tin Mừng,  do đó đem lại cho cộng đoàn tu trì  một sinh lực mới, nhưng cũng làm  nảy sinh những vấn nạn khi làm lu mờ  một số yếu tố cơ bản của chính  đời sống huynh đệ trong cộng đoàn.  Ở một vài nơi, dưới cái nhìn  của nam nữ tu sĩ, cộng đoàn tu trì  dường như đã đánh mất tầm  quan trọng của mình và có lẽ không  còn là lý tưởng phải theo đuổi  nữa.

Với đặc tính thanh thản và cần  mẫn của những người tìm kiếm  thánh ý Thiên Chúa, nhiều cộng đoàn  đã tìm cách lượng định sự  thay đổi này để có thể đáp  trả tốt hơn ơn gọi riêng của mình  giữa Dân Thiên Chúa.

  1. Có nhiều yếu tố quyết định những thay đổi mà chúng ta đã chứng kiến :

-- ”Không ngừng trở về nguồn mạch  của toàn thể đời sống Ki-tô  hữu và hứng khởi nguyên thuỷ  của hội dòng” (1). Cuộc gặp gỡ  sâu xa và đầy đủ hơn với  Tin Mừng và với bước đột  phá của đoàn sủng sáng lập, đã  là sức thúc đẩy mãnh liệt để  tìm kiếm một tinh thần đích thực  làm sinh động tình huynh đệ, những  cơ cấu và tập quán phải thể hiện  tình huynh đệ ấy cách thích đáng.  Ở đâu việc gặp gỡ những  nguồn mạch và hứng khởi nguyên  thuỷ này có phần phiến diện hoặc  yếu kém, thì ở đó đời  sống huynh đệ gặp nguy hiểm và sa sút.

-- Tuy nhiên, tiến trình này đã xảy  ra trong bối cảnh những phát triển khác  tổng quát hơn, vốn là một bối cảnh  của cuộc sống, và đời tu không  thể tránh khỏi những hậu quả của  nó (2).

Đời tu là một thành phần sống  động của Giáo Hội và các tu sĩ  sống giữa trần thế. Các giá trị  và phản giá trị làm xáo trộn một  thời đại hay một hệ thống văn  hoá, và những cơ cấu xã hội  diễn tả chúng, đều tác động  đến mọi người, kể cả Giáo  Hội và các cộng đoàn tu trì. Các  cộng đoàn tu trì hoặc làm nên men  Tin Mừng trong lòng xã hội, loan báo  Tin Vui giữa thế gian, công bố thành  Giê-ru-sa-lem trên trời ở đây  và lúc này, hoặc ngã quỵ do suy thoái  nhanh hay chậm, chỉ vì đã chạy theo trần  thế. Vì vậy, suy tư và những đề  xuất mới về ”đời sống huynh đệ  cộng đoàn” phải lưu ý đến bối  cảnh của cuộc sống này.

-- Những tiến bộ trong Giáo Hội cũng  ghi dấu sâu đậm nơi các cộng đoàn  tu trì. Công Đồng Va-ti-ca-nô II, một  biến cố của ân sủng, một biểu hiện  vĩ đại nhất nhằm hướng dẫn  mục vụ Giáo Hội trong thế kỷ này,  đã có những ảnh hưởng quyết  định về đời tu, không những  chỉ qua sắc lệnh Đức Ái trọn  hảo bàn về đời tu, mà còn  qua Giáo Hội học của Công Đồng và  từng văn kiện của Công Đồng.

Vì những lý do trên, trước khi  trực tiếp đề cập đến chủ  đề, văn kiện này bắt đầu cái  nhìn từ bối cảnh bao quát trên những  thay đổi trong các môi trường có  ảnh hưởng trực tiếp hơn đến  phẩm chất đời sống huynh đệ,  và những lối sống trong các cộng  đoàn tu trì khác nhau.

 

Sự tiến triển thần học

  1. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã đóng góp rất nhiều trong việc đánh giá lại ”Đời sống huynh đệ cộng đoàn”  và trong việc canh tân quan điểm về cộng  đoàn tu trì.

Chính sự phát triển Giáo Hội  học đã ảnh hưởng đến sự  tiến triển trong hiểu biết của chúng  ta về cộng đoàn tu trì hơn bất cứ  một yếu tố nào khác. Va-ti-ca-nô II  xác quyết rằng không thể nào chối  cãi được là đời tu thuộc  về sự sống và sự thánh thiện  của Giáo Hội, đồng thời Công  Đồng đặt đời tu vào vị trí  trung tâm của mầu nhiệm hiệp thông và  thánh thiện của Giáo Hội (3).

Như thế, cộng đoàn tu trì tham dự  vào hình ảnh về Giáo Hội được  đổi mới và đào sâu. Từ  đó dẫn đến một số kết quả  :

  1. Từ Giáo Hội - Mầu nhiệm đến chiều kích mầu nhiệm của cộng đoàn tu trì

Cộng đoàn tu trì không đơn thuần  là một tập hợp các Ki-tô hữu  để tìm kiếm sự hoàn thiện cá  nhân. Sâu xa hơn nhiều, đó là sự  thông phần và là chứng tá đặc  biệt của Giáo Hội mầu nhiệm, bởi  vì nó là biểu hiện sống động  và là sự hoàn thành ưu việt  của ”sự hiệp thông” đặc biệt,  koinonia, của Ba Ngôi cao cả ; Chúa Cha  muốn những người nam và người  nữ được dự phần vào sự  sống thông hiệp đó, trong Chúa Con và  Chúa Thánh Thần.

  1. Từ Giáo Hội-hiệp thông đến chiều kích hiệp thông huynh đệ của cộng đoàn tu trì

Cộng đoàn tu trì, trong cơ cấu, trong những  động lực, trong những giá trị  riêng biệt của mình, làm cho hồng ân  tình huynh đệ mà Đức Ki-tô đã  ban tặng cho toàn thể Hội Thánh trở  nên hữu hình cách công khai và không  ngừng được mọi người nhận  biết. Chính vì lý do này, cộng đoàn  tu trì có bổn phận và sứ vụ  hiệp thông huynh đệ sâu sắc, dấu  chỉ và sự khích lệ cho tất cả  các Ki-tô hữu (4).

  1. Từ Giáo Hội được linh hoạt bởi các đoàn sủng đến chiều kích đoàn sủng của cộng đoàn  tu trì

Cộng đoàn tu trì là một cơ thể  sống động của tình hiệp thông huynh  đệ, được mời gọi sống  trong sự hoạt động của đoàn sủng  nguyên thuỷ. Cộng đoàn tu trì là  một phần trong mối hiệp thông hữu  cơ của toàn thể Giáo Hội, không  ngừng được Chúa Thánh Thần  làm cho phong phú với nhiều tác vụ  và đoàn sủng.

Những người gia nhập các cộng  đoàn như thế phải có ơn gọi đặc  biệt. Trong thực tế, các phần tử  của một cộng đoàn tu trì được  liên kết với nhau do một ơn gọi  chung của Thiên Chúa phù hợp với  đoàn sủng nguyên thuỷ, do việc  cùng được Giáo Hội thánh hiến  cách đặc biệt, do việc chung nhau đáp  lại ơn gọi nhờ tham dự vào ”kinh  nghiệm của Thánh Thần” mà đấng sáng  lập đã sống và trao lại, cũng như  trong sứ vụ của đấng sáng lập  trong lòng Giáo Hội (5).

Giáo Hội cũng mong muốn tiếp nhận với  lòng biết ơn những đoàn sủng  ”tầm thường nhất và được  phú ban rộng rãi” (6) mà Thiên Chúa  đã phân phát nơi các phần tử  của Giáo Hội vì lợi ích của toàn  Thân Thể. Cộng đoàn tu trì hiện hữu  vì Giáo Hội, biểu lộ Giáo Hội và  làm phong phú Giáo Hội (7), giúp cho  Giáo Hội thực hiện tốt hơn sứ  mệnh của mình.

  1. Từ Giáo Hội xét như là bí tích hiệp nhất đến chiều kích tông đồ của cộng đoàn tu trì

Mục đích việc tông đồ là đưa  nhân loại trở lại hiệp nhất với  Thiên Chúa và hiệp nhất với nhau  qua đức ái thần linh. Đời sống  huynh đệ cộng đoàn, một biểu lộ  của sự hiệp nhất hình thành bởi  tình yêu Thiên Chúa, ngoài việc là  một chứng từ cốt yếu của việc  loan báo Phúc Âm, còn có ý nghĩa  lớn lao đối với hoạt động  tông đồ cũng như đối với  mục đích tối hậu của nó. Chính  từ điểm này mà sự hiệp thông  huynh đệ của cộng đoàn tu trì rút  ra được sức mạnh như là dấu  chỉ và phương tiện. Thực vậy,  sự hiệp thông huynh đệ vừa là  khởi điểm vừa là đích điểm  của sứ vụ tông đồ.

Từ thời Công Đồng, huấn quyền  đã đào sâu và làm phong phú  thêm quan điểm mới về cộng đoàn  tu trì với những cái nhìn trẻ  trung (8).

Sự tiến triển trong Giáo luật

  1. Bộ giáo luật (1983) phân loại và định nghĩa những xác quyết của Công Đồng về đời sống chung.

Khi Giáo luật nói tới ”đời sống  chung”, ta cần phải phân biệt rõ ràng  hai khía cạnh.

Trong khi Bộ giáo luật 1917 (9) dường  như cho ta cảm tưởng là tập trung  vào những yếu tố bên ngoài và  một lối sống đồng nhất, thì Va-ti-ca-nô  II (10) và Bộ giáo luật mới (11)  rõ rệt nhấn mạnh đến chiều kích  thiêng liêng và đến mối dây huynh  đệ, là yếu tố hiệp nhất mọi  phần tử trong đức ái. Bộ giáo  luật mới đã tổng hợp cả  hai yếu tố này khi nói “sống chung đời  huynh đệ” (12).

Như vậy, trong đời sống cộng đoàn,  có thể phân biệt hai yếu tố liên  kết và hiệp nhất các phần tử  :

yếu tố thứ nhất, có tính cách  thiêng liêng hơn : ”Tình huynh đệ” hay  ”sự hiệp thông huynh đệ”, phát xuất  từ tâm hồn, do đức ái thúc  đẩy. Tình huynh đệ này nhấn mạnh  đến ”sống hiệp thông” và những  mối tương quan cá vị (13) ;

yếu tố thứ hai, có tính cách hữu  hình hơn : ”Sống chung” hay ”đời sống  cộng đoàn”, hệ tại ”sống trong một  nhà dòng đã được thiết lập  theo luật pháp” và ”đưa đến một  đời sống chung” nhờ trung thành với  chính các nguyên tắc, tham dự vào  các hoạt động chung, và cộng tác  vào các việc phục vụ chung (14).

Tất cả những điều này được  thực hiện ”theo lối sống riêng của  họ” (15) tại các cộng đoàn khác  nhau, theo đoàn sủng và luật riêng của  hội dòng (16). Từ đó phát  sinh tầm quan trọng của luật riêng ; luật  riêng phải áp dụng vào đời sống  cộng đoàn những gì thuộc về gia  sản của mỗi hội dòng và như phương  tiện để thực hiện điều đó  (17).

“Đời sống huynh đệ” hiển nhiên  không phải tự động có được  bằng việc tuân giữ các nguyên tắc  chi phối đời sống chung, nhưng rõ  ràng đời sống chung cổ võ cho đời  sống huynh đệ rất nhiều.

Sự tiến triển trong xã hội

  1. Xã hội tiến hoá không ngừng, và các tu sĩ nam nữ tuy không thuộc về trần thế, nhưng sống trong trần thế  và chịu ảnh hưởng của trần thế.

Ở đây chúng ta sẽ đề cập  đến một vài khía cạnh đã tác  động trực tiếp đến đời  sống tu trì nói chung và cộng đoàn  tu trì nói riêng.

  1. Những phong trào giải phóng chính trị và xã hội trong thế giới thứ ba và tiến trình đẩy mạnh  kỹ nghệ hoá đã đưa đến những  thay đổi lớn về phương diện xã  hội, nhấn mạnh đặc biệt đến  ”sự phát triển các dân tộc” và,  trong những thập niên gần đây, nhấn  mạnh đến những tình trạng nghèo  khó và khốn cùng. Các Giáo Hội  địa phương đã phản ứng mạnh  mẽ khi đối đầu với những  phong trào phát triển này.

Trên hết, tại châu Mỹ La-tinh, qua các  hội nghị của Hội Đồng Giám Mục  châu Mỹ La-tinh ở Medellin, Puebla, và Santo  Domingo, ”sự chọn lựa theo Tin Mừng  và ưu tiên đứng về phía người  nghèo” (18) được đưa lên  hàng đầu, và được nhấn mạnh  trong những dấn thân xã hội.

Các cộng đoàn tu trì chịu ảnh hưởng  sâu xa bởi điều đó ; nhiều cộng  đoàn đi đến chỗ suy nghĩ lại về  sự hiện diện của mình trong xã hội,  với ý muốn trực tiếp phục vụ  người nghèo, thậm chí đôi khi  hoà nhập với người nghèo.

Cảnh khốn khổ gia tăng tràn lan ở  ngoại ô các thành phố lớn cùng  với sự bần cùng hoá các vùng  nông thôn đã thôi thúc ”việc xác  định lại vị trí” của một số  lớn các cộng đoàn tu trì hướng  đến những vùng nghèo khổ hơn  này.

Khắp nơi đều gặp phải thách đố  về hội nhập văn hoá. Các nền văn  hoá, các truyền thống và não trạng,  tất cả cùng tác động đến lối  sống huynh đệ trong cộng đoàn tu trì.

Hơn nữa, trong những năm gần đây,  phong trào di dân với quy mô lớn  đã làm phát sinh vấn đề nhiều  nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại,  và vấn đề phản ứng chống lại  sự phân biệt chủng tộc. Tất cả  những sự kiện trên cũng ảnh  hưởng đến những cộng đoàn  tu trì đa văn hoá và đa chủng tộc  ngày càng trở nên phổ biến.

  1. Những đòi hỏi về tự do cá nhân và nhân quyền là cốt lõi của cao trào dân chủ hoá, có  lợi cho sự phát triển kinh tế cũng  như cho sự phát triển xã hội dân  sự.

Vào giai đoạn tiếp liền sau Công Đồng,  tiến trình này tăng nhanh, đặc biệt  ở Tây phương, và được  đánh dấu bằng những cuộc hội  họp thảo luận về mọi vấn đề  và bằng thái độ bãi bỏ quyền  bính.

Giáo Hội và đời tu không thể  tránh khỏi phải đặt lại vấn đề  quyền bính, với những hậu quả  đáng kể đối với chính đời  sống cộng đoàn.

Sự nhấn mạnh một chiều và thái  quá đến tự do đã góp phần  làm lan tràn khắp Tây phương một  nền văn hoá cá nhân chủ nghĩa, do  đó làm suy yếu lý tưởng đời  sống chung và sự dấn thân trong các  dự phóng của cộng đoàn.

Chúng ta cũng nhận thấy những phản  ứng khác, cũng có tính cách một  chiều, như lẩn trốn vào những hình  thức chuyên quyền gợi lên sự  an toàn, dựa trên lòng tin mù quáng  nơi người lãnh đạo biết cách  trấn an.

  1. Sự thăng tiến nữ giới, mà theo Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII, là một trong những dấu chỉ của thời  đại chúng ta, đã tác động nhiều  đến đời sống các cộng đoàn  Ki-tô hữu ở nhiều quốc gia khác  nhau (19). Cho dù ở một vài nơi,  đời tu bị ảnh hưởng sâu xa  bởi phong trào nữ quyền cực đoan,  nhưng hầu hết các cộng đoàn tu trì  nữ giới đều tích cực tìm  kiếm những hình thức sống chung xét  thấy hợp lý hơn đối với nhận  thức về căn tính, phẩm giá, và  vai trò của người nữ trong xã  hội, trong Giáo Hội và trong đời  tu.
  2. Sự bùng nổ thông tin, bắt đầu từ những năm 1960, đã ảnh hưởng đáng kể và đôi  khi bi thảm, đến mức độ tổng  quát về thông tin, đến nhận thức  về trách nhiệm xã hội và tông đồ,  đến tính di động tông đồ và  phẩm chất của những mối tương  quan nội tại, đó là chưa kể đến  phong cách sống đặc biệt và bầu  khí trầm lặng phải là đặc trưng  của cộng đoàn tu trì.

đ. Chủ nghĩa hưởng thụ và  chủ nghĩa khoái lạc, cùng với  sự suy yếu quan điểm đức tin,  là đặc điểm của chủ nghĩa tục  hoá, đã ảnh hưởng đến các  cộng đoàn tu trì ở nhiều nơi.  Những nhân tố này đã thử  thách ác liệt khả năng ”chống lại  sự dữ” của các cộng đoàn  tu trì, nhưng đồng thời cũng phát  sinh những phong cách sống mới nơi  đời sống cá nhân và cộng đoàn,  phong cách đó là một chứng tá  Tin Mừng rõ rệt cho thế giới chúng  ta.

Tất cả những điều này đã  là một thách đố, là lời mời  gọi sống các lời khuyên Phúc Âm  mãnh liệt hơn, đồng thời nâng  đỡ chứng tá của cộng đồng  Ki-tô hữu.

Những biến chuyển trong đời tu

  1. Trong những năm gần đây, nhiều biến chuyển đã ảnh hưởng sâu đậm đến các cộng đoàn tu trì.
  2. Một bối cảnh mới trong cộng đoàn tu trì. Tại nhiều nước, các chương trình quốc gia được  triển khai ở một số lãnh vực  vốn là lãnh vực hoạt động của  các tu sĩ - như công tác xã hội,  giáo dục, y tế - cùng với sự  giảm sút ơn gọi, đã đưa đến  tình trạng giảm sút sự hiện diện  của các tu sĩ trong các công việc đã  từng là điển hình của các hội  dòng hoạt động tông đồ.

Như vậy, các cộng đoàn lớn đang  thu gọn phạm vi hoạt động cụ thể  vốn là nét đặc trưng của các  hội dòng từ nhiều năm nay.

Thêm vào đó, ở một vài nơi,  các cộng đoàn nhỏ được ưa  chuộng hơn, nơi đó tập hợp các  tu sĩ làm những công việc không thuộc  về hội dòng, mặc dù các hoạt động  này thường phù hợp với đoàn  sủng của hội dòng. Điều này đã  tác động một cách có ý nghĩa  đến lối sống chung và đòi hỏi  thay đổi những nề nếp trong cộng  đoàn.

Đôi khi, khát vọng chân thành muốn  phục vụ Hội Thánh và gắn bó với  các công việc của hội dòng, cộng  thêm với những nhu cầu cấp bách  của Giáo Hội địa phương, có thể  làm cho các tu sĩ đảm nhận quá nhiều công việc, do đó họ chỉ dành một  ít thời gian cho đời sống chung.

  1. Sự gia tăng những đòi hỏi giúp đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết hơn (như người  nghèo, người nghiện ngập, người  tị nạn, người bên lề xã hội,  người tàn tật và bệnh nhân các  loại) đã khơi dậy trong đời tu  sự đáp trả và hiến thân một  cách đáng khâm phục và đáng  ca tụng.

Tuy nhiên, điều này hiển nhiên đưa  đến sự cần thiết phải thay đổi  một số hình thức truyền thống của  cộng đoàn tu trì, mà một số người  cho là không thích hợp để đối  phó với hoàn cảnh mới.

  1. Cách suy nghĩ và lối sống của các tu sĩ làm việc trong môi trường bị tục hoá, đặc biệt khi tác vụ  được hiểu đơn thuần là một  nghề, một công tác hơn là đang thi  hành sứ vụ truyền bá Phúc Âm,  đôi khi đã làm lu mờ thực  tại thánh hiến và chiều kích siêu  nhiên của đời tu, đến nỗi đời  sống huynh đệ cộng đoàn đối với  một số người đã trở thành  chướng ngại vật cho hoạt động  tông đồ, hoặc chỉ là một công  cụ có tính cách chức năng.
  2. Một quan niệm mới về con người thành hình trong giai đoạn tiếp liền sau Công Đồng, nhấn mạnh đến giá  trị của ngôi vị và các sáng kiến  cá nhân. Điều này trực tiếp  dẫn đến một cảm nhận sâu sắc  về cộng đoàn hiểu như đời  sống huynh đệ được xây dựng  trên phẩm chất của những mối tương  quan cá nhân hơn là trên những khía  cạnh hình thức của việc tuân giữ  kỷ luật.

Đó đây, những điểm nhấn mạnh  này trở thành triệt để (phát  sinh khuynh hướng đối lập giữa  cá nhân chủ nghĩa với cộng đồng  chủ nghĩa) đôi khi không đưa đến  sự quân bình thoả đáng.

đ. Các cơ cấu lãnh đạo mới  xuất hiện dựa vào những hiến  pháp đã được tu chính, đòi  hỏi sự tham gia nhiều hơn của các  nam nữ tu sĩ. Từ đó xuất hiện  những cách thế khác nhau khi tiếp cận  các vấn đề, qua sự đối thoại  cộng đoàn, đồng trách nhiệm và  hỗ trợ lẫn nhau. Tất cả các thành  viên đều quan tâm đến các vấn  đề của cộng đoàn. Điều này  ảnh hưởng lớn đến những  mối tương giao cá nhân, và ngược  lại, cũng ảnh hưởng đến cách  quan niệm về quyền bính. Không ít trường  hợp, quyền bính gặp phải những  khó khăn thực tế khi tìm cho mình  vị trí đúng đắn trong bối cảnh  mới.

Những đổi thay và xu hướng nói  trên kết hợp với nhau đã ảnh  hưởng sâu xa đến đặc tính  của các cộng đoàn tu trì không chỉ  trong một hình thức sâu sắc, mà còn  ở nhiều hình thức khác biệt.

Sự khác nhau đó, đôi khi khá  rõ, như ta có thể hiểu dễ dàng,  phụ thuộc vào sự khác biệt của  các nền văn hoá và địa dư, vào  các cộng đoàn nam hay nữ, vào các  dạng đời tu và hội dòng, vào  các hoạt động khác nhau và mức  độ dấn thân để duyệt lại và  hiện tại hoá đoàn sủng của đấng  sáng lập, vào những đường  hướng khác nhau để tồn tại trước  xã hội và Giáo Hội, vào cách thức  đón nhận các giá trị mà Công  Đồng đưa ra, vào những truyền  thống và hình thức khác nhau của  đời sống chung, vào các dạng thể  hiện quyền bính và cổ võ sự  canh tân việc thường huấn. Những  hoàn cảnh khó khăn trên đây chỉ  có một phần chung cho tất cả ; đúng  hơn, chúng có xu hướng khác biệt  tuỳ theo cộng đoàn.

Các chủ đích của văn kiện

  1. Dưới ánh sáng của những tình huống mới, mục đích trước hết của văn kiện này nhằm ủng hộ  những nỗ lực mà nhiều cộng đoàn  tu sĩ nam nữ đã đạt được,  hầu cải thiện phẩm chất đời  sống huynh đệ. Điều này được  thực hiện nhờ trình bày một số  tiêu chuẩn nhận thức, dựa trên  quan điểm canh tân theo Tin Mừng đích  thực.

Văn kiện này cũng muốn đưa ra những  lý do để những người đã  tự tách mình ra khỏi lý tưởng  cộng đoàn suy nghĩ, giúp họ nghiêm  chỉnh xem xét lại nhu cầu sống chung huynh  đệ đối với những người  đã tận hiến cho Thiên Chúa trong một  hội dòng hay một tu đoàn tông đồ.

  1. Trong những viễn tượng trên, văn kiện có dàn bài như sau :
  2. Cộng đoàn tu trì như là một hồng ân : trước khi là một dự phóng của con người, đời sống huynh đệ là một phần trong kế hoạch  của Thiên Chúa và Người muốn  chia sẻ đời sống hiệp thông của  Người.
  3. Cộng đoàn tu trì là nơi chúng ta trở nên anh chị em với nhau : những con đường thích hợp  nhất để cộng đoàn tu trì xây  nên tình huynh đệ Ki-tô giáo.
  4. Cộng đoàn tu trì như nơi và chủ thể của sứ vụ : những chọn lựa đặc biệt mà một cộng  đoàn được mời gọi thực  hiện trong các môi trường khác nhau,  và những tiêu chuẩn để phân  định.

Để đi vào mầu nhiệm hiệp thông  và huynh đệ, và trước khi thực  hiện sự phân định khó khăn nhưng  cần thiết cho công cuộc canh tân chứng  tá Tin Mừng của cộng đoàn, chúng  ta phải khiêm tốn cầu khẩn Chúa Thánh  Thần để Người hoàn tất điều  mà chỉ một mình Người có thể  làm : ”Ta sẽ ban tặng các ngươi một  quả tim mới, sẽ đặt Thần Khí  mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ  bỏ đi quả tim bằng đá ra khỏi thân  mình các ngươi và sẽ ban tặng các  ngươi một quả tim bằng thịt. Các  ngươi sẽ là dân của Ta. Ta sẽ là  Thiên Chúa các ngươi” (Ed 36,26-28).

 

 CHƯƠNG I : HỒNG ÂN HIỆP THÔNG VÀ HỒNG ÂN CỘNG ĐOÀN

  1. Trước khi là một kiến trúc của con người, cộng đoàn tu trì đã là một hồng ân của Chúa  Thánh Thần. Chính là do tình yêu Thiên  Chúa, được đổ tràn đầy  tâm hồn chúng ta nhờ Thần Khí, cộng  đoàn tu trì khởi đầu và được  xây dựng thành một gia đình thực  sự, trong đó mọi người quy tụ  lại với nhau nhân danh Chúa (20).

Vì thế, không thể nào hiểu được  cộng đoàn tu trì nếu chúng ta không  bắt đầu từ bản chất của cộng  đoàn như là một ân huệ trên  cao ban xuống, như một mầu nhiệm, bắt  nguồn từ chính trọng tâm mầu nhiệm  Chúa Ba Ngôi chí thánh và là Đấng  thánh hoá, Đấng hằng mong muốn cộng  đoàn tu trì trở nên thành phần  của mầu nhiệm Giáo Hội nhằm phục  vụ đời sống con người.

Giáo Hội xét như là sự hiệp  thông

  1. Khi tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và giống như Người, Thiên Chúa đã sáng  tạo họ để họ sống hiệp thông.  Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã  mạc khải chính Người là Tình Yêu,  là Ba Ngôi, là Sự Hiệp Thông, đã  mời gọi họ tham dự vào mối tương  quan thâm sâu với chính Người  và vào mối hiệp thông liên vị trong  tình huynh đệ đại đồng giữa  người với người (21).

Đây là ơn gọi cao nhất của chúng  ta : hiệp thông với Thiên Chúa và  với anh chị em.

 

 Tội lỗi đã làm tổn thương chương  trình của Thiên Chúa, đã chia cắt  mọi thứ tương quan ; giữa loài  người với Thiên Chúa, giữa  người nam với người nữ,  giữa anh em với chị em, giữa các  dân tộc, giữa loài người với các thụ tạo khác.

Vì tình yêu cao cả, Chúa Cha đã sai  Con của Người là A-đam mới đến  để khôi phục lại toàn bộ công  trình sáng tạo và đưa chương trình  đó đến chỗ thống nhất hoàn toàn.  Khi đến giữa chúng ta, Người bắt  đầu thiết lập một dân mới của  Thiên Chúa, kêu gọi các Tông Đồ  và các môn đệ, những người  nam và người nữ đến với  Người - đó là một hình ảnh  sống động cho thấy một nhân loại  được quy tụ lại với nhau trong  sự hiệp nhất. Người loan báo  cho họ biết tình huynh đệ đại đồng  trong Chúa Cha, Đấng đã làm cho chúng  ta trở thành người nghĩa thiết,  thành con cái của Người và thành  anh chị em với nhau. Như thế, Người  đã dạy chúng ta sống bình đẳng  trong tình huynh đệ và hoà giải trong  tha thứ. Người đảo lộn những  mối tương quan của quyền lực và  thống trị bằng cách chính Người  nêu gương phục vụ và chọn chỗ  rốt hết. Trong bữa Tiệc Ly, Người  đã trao cho họ một giới răn mới  là yêu thương nhau : ”Thầy ban cho anh em một  điều răn mới là anh em hãy yêu  thương nhau. Như Thầy đã yêu mến  anh em, anh em cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13,14  ; x. 15,12). Người đã thiết lập bí  tích Thánh Thể, để khi cho ta được  chia sẻ cùng một bánh và một chén,  bí tích này nuôi dưỡng tình yêu  của chúng ta đối với nhau. Rồi Người  hướng về Chúa Cha mà cầu xin - như  là tổng hợp mọi ước nguyện  - cho tất cả họ được hiệp nhất  theo khuôn mẫu sự hiệp nhất của  Ba Ngôi : ”Để hết thảy họ nên một  cũng như, lạy Cha, Cha ở trong con và  con ở trong Cha, ngõ hầu họ ở trong  chúng ta và thế gian tin là Cha đã sai  con” (x. Ga 17,21).

Rồi khi vâng theo thánh ý Chúa Cha, Người  đã hoàn tất sự hiệp nhất đó  trong mầu nhiệm Vượt Qua, sự hiệp  nhất mà Người đã dạy các  môn đệ phải sống và là sự  hiệp nhất mà Người đã cầu  xin Chúa Cha. Nhờ cái chết trên thập  giá, Người đã phá đổ bức  tường ngăn cách các dân tộc,  hoà giải tất cả chúng ta nên một  (x. Ep 2,14-16). Nhờ đó, Người dạy  chúng ta biết rằng hiệp thông và hiệp  nhất là hoa trái do việc chia sẻ mầu  nhiệm sự chết của Người.

Việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, hồng  ân đầu tiên ban cho các tín hữu,  đã đem lại sự hiệp nhất mà  Đức Ki-tô mong muốn. Sau khi đã xuống  tràn đầy các môn đệ đang tụ  họp cùng với Đức Ma-ri-a trong nhà  Tiệc Ly, Thánh Thần đã ban cho Giáo Hội  một dấu hữu hình, mà ngay từ  lúc đầu đã được coi là  đặc điểm của tình huynh đệ và  hiệp thông trong sự hiệp nhất một  trái tim và một linh hồn (x. Cv 4,32).

Sự hiệp thông này là mối dây  yêu thương liên kết mọi thành phần  trong cùng một Thân Thể Đức Ki-tô  với nhau, và nối kết Thân Thể  với Đầu. Cũng sự hiện diện  ban sự sống của Chúa Thánh Thần  (22) làm nên sự liên kết hữu  cơ trong Đức Ki-tô. Người hiệp  nhất Giáo Hội trong sự hiệp thông  và tác vụ, phối hợp và hướng  dẫn Giáo Hội nhờ các ơn huệ  phẩm trật và đoàn sủng bổ túc  lẫn nhau và làm cho Giáo Hội nên xinh  đẹp nhờ sinh nhiều hoa trái (23).

Trong cuộc lữ hành trần thế này,  Giáo Hội duy nhất và thánh thiện không  ngừng nhận thức những căng thẳng  đôi khi đau thương để hướng  tới sự hiệp nhất hữu hiệu.  Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội càng  ngày càng ý thức rằng mình là  Dân và là Gia Đình của Thiên Chúa,  là Thân Thể Đức Ki-tô, Đền  Thờ Chúa Thánh Thần, là Bí tích  của sự hiệp nhất sâu xa nơi nhân  loại, là sự hiệp thông, hình ảnh  của Chúa Ba Ngôi. Có lẽ hơn bao giờ  hết, Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã  làm nổi bật chiều kích mầu nhiệm  và ”hiệp thông” này của Giáo Hội.

Cộng đoàn tu trì diễn tả sự hiệp  thông trong Giáo Hội

  1. Ngay từ ban đầu, đời sống thánh hiến đã nuôi dưỡng bản chất thâm sâu này của Ki-tô giáo.  Thực vậy, cộng đoàn tu trì cảm  thấy chính mình đang tiếp nối nhóm  người đã theo Đức Giê-su.  Người đã gọi đích danh từng  người một để họ sống hiệp  thông với chính Người và với  các môn đệ khác, để chia sẻ  cuộc sống và thân phận của người  (x. Mc 3,13-15), và qua đó, cộng đoàn  tu trì trở thành dấu chỉ sự sống,  sự hiệp thông mà Người đã  khởi đầu. Các cộng đoàn đan  tu đầu tiên đã coi cộng đoàn  các môn đệ theo Đức Ki-tô và  cộng đoàn Giê-ru-sa-lem là lý tưởng  sống của họ. Như Giáo Hội thời  sơ khai chỉ có một trái tim và một  tâm hồn, cũng vậy, các đan sĩ sống  với nhau dưới sự hướng  dẫn tinh thần của đan viện phụ, quyết  tâm sống hiệp thông triệt để cả  về tinh thần lẫn vật chất, và sống  sự hiệp nhất mà chính Đức  Ki-tô đã thiết lập. Sự hiệp  nhất này có khuôn mẫu đầu tiên  và động lực là đời sống  hiệp nhất của các ngôi vị trong Ba Ngôi  chí thánh.

Vào những thế kỷ tiếp theo, nhiều  hình thức cộng đoàn đã nảy  sinh do tác động đoàn sủng của Chúa  Thánh Thần. Người là Đấng dò  thấu chiều sâu lòng dạ con người,  đã tác động để làm thoả  mãn các nhu cầu của con người. Người  đã làm xuất hiện những người  nam nữ, để nhờ ánh sáng Tin Mừng  soi dẫn và bén nhạy với những  dấu chỉ của thời đại, họ khai  sinh ra những gia đình dòng tu mới,  và từ đó, khai sinh ra nhiều phương  thế mới để sống sự hiệp  thông duy nhất trong tính đa dạng của  các tác vụ và cộng đoàn (24).

Chúng ta không thể nói về cộng đoàn  tu trì một cách như nhau. Lịch sử  đời sống thánh hiến làm chứng  rằng có nhiều cách khác nhau để  sống sự hiệp thông tuỳ theo bản  chất của mỗi hội dòng. Nhờ đó,  ngày nay chúng ta có thể ngưỡng mộ  ”sự khác biệt kỳ diệu” của các  gia đình dòng tu đã làm phong phú  cho Giáo Hội, và trang bị Giáo Hội hầu  thi hành mọi việc thiện (25) ; và  từ đó chúng ta cũng nhận thấy  sự khác biệt trong các hình thức  sống cộng đoàn.

Tuy nhiên, trong những hình thức khác  nhau, đời sống huynh đệ cộng đoàn  luôn luôn là cách diễn tả triệt  để tinh thần huynh đệ phổ quát, là  tinh thần hiệp nhất tất cả các Ki-tô  hữu. Cộng đoàn tu trì là một  biểu hiệu hữu hình của sự hiệp  thông, vốn là nền móng của Giáo  Hội và đồng thời là lời  tiên báo sự hợp nhất mà Giáo  Hội nhắm tới như cùng đích của  mình. Vì vậy, như những nhà chuyên  môn về sự hiệp thông, được  kêu gọi trở nên một cộng đoàn  Giáo Hội ở trong Giáo Hội và trong  thế giới, các tu sĩ là những  chứng tá và những người kiến  tạo chương trình hiệp nhất, đỉnh  vinh quang của lịch sử loài người  trong kế hoạch của Thiên Chúa. Trên  hết, nhờ khấn giữ các lời  khuyên Phúc Âm, là lời khấn giúp  cho con người thoát khỏi những trở  ngại để đạt tới đức ái  nhiệt thành, người tu sĩ cùng nhau

 

là dấu chỉ mang tính ngôn sứ của  sự hiệp nhất thâm sâu với Thiên  Chúa, Đấng mà ta phải yêu mến trên  hết mọi sự. Hơn nữa, qua kinh nghiệm  hàng ngày của sự hiệp thông trong  đời sống, trong cầu nguyện và hoạt  động tông đồ - những yếu tố  chủ yếu và đặc biệt của đời  sống thánh hiến - họ là dấu chỉ  của tình huynh đệ. Thực vậy, trong  một thế giới thường bị chia cắt  sâu xa, và trước mắt anh em của mình  trong đức tin, họ đưa ra chứng  tá là họ có khả năng để chung  của cải, yêu thương huynh đệ, có  một chương trình sống và hoạt động  riêng, vì họ đã chấp nhận lời  kêu gọi đi theo sát Chúa Ki-tô cách  tự do hơn, Đấng đã được  Chúa Cha sai đến, để với tư cách  là trưởng tử giữa nhiều anh  chị em, Người thiết lập một tình  huynh đệ trong ân huệ của Thánh Thần  (26).

Tất cả những điều này sẽ trở  nên rõ ràng hơn đến độ họ  không chỉ suy tưởng với và trong  Giáo Hội, mà còn cảm thấy chính  mình là Giáo Hội, bằng cách đồng  hoá chính mình với Giáo Hội trong  hiệp thông trọn vẹn với giáo thuyết,  với sự sống, với các mục  tử, với niềm tin và với sứ  vụ của Giáo Hội trong thế giới (27).

Chứng tá do các tu sĩ chiêm niệm  đem lại có ý nghĩa đặc biệt.  Đối với họ, đời sống huynh  đệ có những chiều kích sâu rộng  hơn, bắt nguồn từ những đòi  hỏi cơ bản của ơn gọi đặc biệt  này, là tìm kiếm một mình Thiên Chúa  trong thinh lặng và cầu nguyện

Việc họ thường xuyên gắn bó  với Thiên Chúa làm cho họ gắn bó  với những phần tử khác trong  cộng đoàn cách tế nhị và tôn  trọng hơn, và sự chiêm niệm đem  lại một sức mạnh giải phóng họ  khỏi mọi hình thức ích kỷ.

Đời sống huynh đệ cộng đoàn  trong một đan viện được coi là  dấu chỉ sống động của mầu nhiệm  Giáo Hội : mầu nhiệm ân sủng càng  lớn thì hoa quả ơn cứu độ  càng dồi dào.

Bằng cách này, Thần Khí của Chúa,  Đấng đã quy tụ các tín hữu  đầu tiên, và là Đấng tiếp tục  kêu gọi Giáo Hội trở thành một  gia đình duy nhất, cũng kêu gọi và  nuôi dưỡng các gia đình tu trì,  nhờ những cộng đoàn của mình  rải rác trên khắp thế giới, có  sứ vụ trở nên những dấu  chỉ rõ rệt của sự hiệp thông  nội tại, sự hiệp thông sâu đậm  làm sinh động và kiến tạo Giáo Hội,  đồng thời hỗ trợ cho việc hoàn  thành chương trình của Thiên Chúa.

CHƯƠNG II : CỘNG ĐOÀN TU TRÌ LÀ NƠI MỌI NGƯỜI TRỞ THÀNH  ANH CHỊ EM

  1. Từ hồng ân hiệp thông phát sinh bổn phận xây dựng tình huynh đệ, nói cách khác, bổn phận trở thành  anh chị em với nhau trong một cộng đoàn,  nơi mà tất cả mọi người được  kêu gọi sống chung với nhau. Do việc  chấp nhận với lòng thán phục và  biết ơn các thực tại hiệp thông  Thiên Chúa được chia sẻ cho riêng  con người, cũng phát sinh xác tín  về sự cần thiết phải làm cho sự  hiệp thông đó trở nên rõ ràng  hơn bằng việc xây dựng những  cộng đoàn ”tràn đầy niềm vui và  Thánh Thần” (Cv 13,52).

Trong thời đại chúng ta và vì thời  đại chúng ta, cần phải tái đảm  nhận công việc ”nhân thần” này trong  việc xây dựng cộng đoàn anh chị  em, đang khi vẫn luôn nhớ đến những  hoàn cảnh đặc trưng của thời  đại ngày nay, trong đó sự phát  triển thần học, giáo luật, xã hội  và cơ chế đã ảnh hưởng sâu  xa đến dự phóng và đời sống  cộng đoàn tu trì.

Khởi từ một số những hoàn  cảnh cụ thể, văn kiện này muốn  trình bày những chỉ dẫn nhằm củng  cố sự dấn thân để không ngừng  canh tân các cộng đoàn theo tinh thần  Phúc Âm.

Linh đạo và việc cầu nguyện chung

  1. Trong nguồn cội huyền nhiệm, mỗi cộng đoàn Ki-tô giáo đích thực ”chính là một thực tại đối thần,  một đối tượng của sự chiêm  niệm” (28). Do đó, trên hết, cộng  đoàn tu trì là một mầu nhiệm phải  được chiêm niệm và đón nhận  với lòng ngưỡng mộ và tri ân,  trong chiều kích trong sáng của niềm tin.

Hễ khi nào chúng ta không thấy được  chiều kích huyền nhiệm và đối thần  này, chiều kích nối kết cộng đoàn  tu trì với mầu nhiệm Thiên Chúa hiệp  thông, hiện diện và truyền thông cho  cộng đoàn, tất nhiên chúng ta sẽ  đi đến chỗ quên những lý do sâu  xa ảnh hưởng đến việc “kiến tạo  cộng đoàn”, đến việc kiên trì  xây dựng đời sống huynh đệ.  Cuộc sống này đôi khi có vẻ như  vượt quá sức con người và  là một sự lãng phí sinh lực vô  ích, đặc biệt đối với những  người hăng say dấn thân hoạt động  và bị chi phối bởi một nền văn  hoá duy hoạt động và cá nhân chủ  nghĩa.

Cũng một Đức Ki-tô, Đấng đã  kêu gọi họ, hàng ngày vẫn kêu gọi  các anh chị em lại với nhau để nói  với họ, để hiệp nhất họ với  chính Người và với nhau trong bí  tích Thánh Thể, đồng hoá với  Thân Thể sống động và hữu hình  của Người, nơi Chúa Thánh Thần  đang hoạt động, trong hành trình hướng  về Chúa Cha.

Việc cầu nguyện chung, vốn luôn được  xem là nền tảng của tất cả đời  sống cộng đoàn, bắt đầu từ  việc chiêm niệm mầu nhiệm vĩ đại  và siêu phàm của Thiên Chúa, từ  việc thán phục sự hiện diện của  Người, đang diễn ra trong những giây  phút ý nghĩa nhất của đời sống  các gia đình dòng tu cũng như trong những  thực tại khiêm tốn và thường  nhật của các cộng đoàn tu trì chúng  ta.

  1. Để đáp lại lời Chúa khuyên : ”hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (x. Lc 21,36), một cộng đoàn tu trì cần  phải tỉnh thức và có thời gian  cần thiết để quan tâm đến phẩm  chất của đời sống cộng đoàn.  Đôi khi anh chị em tu sĩ ”không có thời  giờ” và ngày sống của họ có  nguy cơ trở nên quá bận rộn và  lo lắng, và cuối cùng, họ có thể  cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức.  Thực vậy, cộng đoàn tu trì được  điều chỉnh nhờ một thời khoá  biểu đều đặn ấn định thời  giờ cho việc cầu nguyện, và nhất  là nhờ đó chúng ta biết dành  thời giờ cho Thiên Chúa (vacare Deo).

Việc cầu nguyện phải được xem  như là thời gian kết hợp với  Thiên Chúa nhờ đó Người có  thể hoạt động trong chúng ta, và giữa  những lo lắng, mệt nhọc của chúng  ta, Người có thể đi vào đời  sống chúng ta, an ủi và dìu dắt, để  cuối cùng trọn cuộc sống chúng ta có  thể thuộc về Người.

  1. Một trong những thành quả giá trị nhất trong những thập niên gần đây được mọi người nhìn  nhận và ca tụng, là việc các gia đình  tu trì tái khám phá kinh nguyện phụng  vụ.

Việc cử hành chung Các Giờ Kinh Phụng  Vụ, hay ít là một phần, đã tiếp  sinh khí cho kinh nguyện trong nhiều cộng đoàn,  một kinh nguyện được liên kết  sống động hơn với Lời Thiên  Chúa và với kinh nguyện của Giáo  Hội (29).

Vì thế, tất cả mọi người đều  phải xác tín mạnh mẽ rằng một cộng  đoàn được xây dựng khởi  từ phụng vụ, đặc biệt từ  việc cử hành bí tích Thánh Thể  (30) và những bí tích khác. Trong  số những bí tích này, nên chú  tâm lại tới bí tích Hoà Giải,  vì qua đó Thiên Chúa khôi phục sự  hiệp nhất với chính Người và  với anh chị em.

Noi gương cộng đoàn tiên khởi  ở Giê-ru-sa-lem (x. Cv 2,42), Lời Chúa,  Thánh Thể, cầu nguyện chung, tận tuỵ  và trung thành với lời giảng dạy  của các Tông Đồ và những người  kế vị các ngài : những yếu tố  ấy giúp ta tiếp xúc với những  kỳ công của Thiên Chúa ; nhờ các  cử hành cộng đoàn, những kỳ  công này trở nên rực rỡ  và làm nên lời ngợi khen, cảm  tạ, vui mừng, hiệp nhất các tâm  hồn, giúp nhau chia sẻ những khó khăn  trong đời sống hằng ngày, và khuyến  khích nhau trong niềm tin.

Không may, sự giảm sút con số các  linh mục ở nơi này hay nơi khác khiến  cho việc tham dự Thánh Lễ hàng ngày  không thực hiện được. Trong những  hoàn cảnh đó, chúng ta phải quan tâm  đào tạo việc thưởng nếm những  ân huệ tuyệt vời của bí tích  Thánh Thể, và phải đặt mầu nhiệm  Mình và Máu Thánh Chúa vào chính  cuộc sống của chúng ta, mầu nhiệm đang  sống và hiện diện trong cộng đoàn,  để nâng đỡ và thôi thúc  cộng đoàn trong hành trình đến với  Chúa Cha. Từ đó phát sinh sự  cần thiết là mỗi cộng đoàn tu trì  phải có nhà nguyện riêng như là  trung tâm của cộng đoàn (31), nơi  các phần tử có thể nuôi dưỡng  lòng sùng mộ Thánh Thể bằng việc  cầu nguyện và tôn thờ.

Chính xoay quanh bí tích Thánh Thể, được  cử hành hoặc tôn thờ, ”nguồn  mạch và đỉnh cao” của mọi hoạt động  trong Giáo Hội, ta kiến tạo được  sự hiệp thông các tâm hồn, sự  hiệp thông này là khởi điểm  cho tất cả sự tăng trưởng trong  tình huynh đệ. ”Tất cả mọi nền giáo  dục về tinh thần cộng đoàn đều  phải bắt đầu từ đây” (32).

  1. Việc cầu nguyện chung đạt được hiệu quả trọn vẹn khi liên kết mật thiết với việc cầu nguyện riêng.  Việc cầu nguyện chung và cầu nguyện  riêng gắn bó chặt chẽ với nhau và  bổ sung lẫn nhau. Khắp nơi, nhưng đặc  biệt trong một số miền và một số  nền văn hoá, phải nhấn mạnh hơn  đến khía cạnh nội tâm, đến mối  tương quan phụ tử với Chúa Cha,  đến mối tương quan thân mật và  phu thê với Đức Ki-tô, đến  việc đào sâu những gì được  cử hành và được sống trong  kinh nguyện cộng đoàn, đến sự  thinh lặng bên trong và bên ngoài hầu  dành một khoảng không gian cho Ngôi Lời  và Thánh Thần, nhằm tái sinh những  chiều sâu kín ẩn nhất. Người  tận hiến sống trong cộng đoàn sẽ  nuôi dưỡng sự thánh hiến của  mình vừa qua việc liên tục đối  thoại cá nhân với Thiên Chúa, vừa  qua lời ngợi khen và chuyển cầu của  cộng đoàn.
  2. Trong những năm gần đây, kinh nguyện cộng đoàn đã trở nên phong phú nhờ những hình thức  diễn tả và chia sẻ khác nhau.

Đối với nhiều cộng đoàn, sự  chia sẻ trong việc đọc và suy gẫm  Lời Chúa (lectio divina), cũng như việc  chia sẻ những kinh nghiệm thiêng liêng  của cá nhân và những thao thức  tông đồ, đã nảy sinh hoa trái đặc  biệt. Sự khác biệt do tuổi tác,  do việc đào tạo và do tính tình, làm  cho cộng đoàn cần phải thận trọng  khi đòi hỏi sự chia sẻ trong toàn  thể cộng đoàn. Thiết tưởng nên  nhắc nhở rằng không thể hối thúc  thời điểm tốt được.

Ở đâu được thực hành  với tính tự phát và với sự  đồng ý chung, sự chia sẻ như thế  sẽ nuôi dưỡng đức tin, đức  cậy cũng như lòng tôn trọng và tin  tưởng lẫn nhau, giúp thực hiện  sự hoà giải và nuôi dưỡng  tình liên đới huynh đệ trong lời  cầu nguyện.

  1. Lời Chúa truyền ”phải cầu nguyện luôn và đừng nản lòng” (Lc 18,1 ; x. Tx 5,17) có giá trị đối với việc  cầu nguyện riêng cũng như cầu nguyện  chung. Mỗi cộng đoàn tu trì đang không  ngừng sống dưới cái nhìn của  Chúa và phải luôn luôn ý thức  sự hiện diện của Người. Tuy nhiên,  kinh nguyện chung có nhịp điệu riêng  mà chu kỳ (hằng ngày, hàng tuần, hàng  tháng, hàng năm) phải được quy  định trong luật riêng của mỗi hội  dòng.

Cầu nguyện chung đòi hỏi việc trung thành  với thời khoá biểu và, trên  hết, đòi phải có sự kiên trì  ”nhờ những lời Kinh Thánh làm  cho chúng ta nên kiên nhẫn, và khích  lệ chúng ta, để nhờ đó, chúng  ta hy vọng có thể hiệp ý đồng thanh  mà tôn vinh Thiên Chúa là Thân Phụ  của Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng  ta” (Rm 15,4-6).

Lòng trung thành và sự kiên trì cũng  sẽ giúp ta khắc phục được một  số khó khăn nơi một vài cộng đoàn,  một cách sáng tạo và khôn ngoan, như  những dấn thân đa dạng, và những  khó khăn do thời khoá biểu, công  việc quá tải thu hút con người, và  nhiều thứ mệt nhọc khác nữa.

  1. Việc cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, được thúc đẩy bởi lòng yêu mến người, lòng  yêu mến dẫn chúng ta tới chỗ noi  gương người, đưa đến hiệu  quả là gương mẫu và sự hiện  diện đầy tình mẫu tử của Mẹ  trở thành sức hỗ trợ lớn  lao giúp ta trung thành trong kinh nguyện hàng  ngày (x. Cv 1,14), đồng thời cũng là  mối dây hiệp thông của cộng đoàn  tu trì (33).

Mẹ Thiên Chúa sẽ giúp các cộng  đoàn trở nên giống gia đình của  Mẹ, gia đình Na-da-rét, nơi mà các  cộng đoàn tu trì phải thường xuyên  thăm viếng cách thiêng liêng, vì nơi  đó Tin Mừng hiệp thông và huynh đệ  đã được sống một cách tuyệt  vời.

  1. Việc cầu nguyện chung cũng nâng đỡ và nuôi dưỡng nhiệt tình tông đồ. Một mặt, cầu nguyện là  một năng lực biến đổi kỳ diệu  bao trùm tất cả mọi thực tại để  cứu chuộc và xếp đặt trật tự  cho thế giới. Đàng khác, nó là  sự khích lệ trong tác vụ tông đồ,  trong những niềm vui và khó khăn hàng  ngày. Như thế, tất cả những điều  này trở nên cơ hội để tìm  kiếm và khám phá ra sự hiện diện  và hoạt động của Thiên Chúa.
  2. Các cộng đoàn tu trì đang hăng say sống tinh thần tông đồ và loan báo Phúc Âm - dù là chiêm niệm hay hoạt  động - là những cộng đoàn có  kinh nghiệm phong phú về việc cầu nguyện.  Trong thời đại của chúng ta, một  thời đại có sự thức tỉnh  trong việc tìm kiếm Đấng Siêu Việt,  thì các cộng đoàn tu trì có thể  trở thành những nơi ưu tiên, ở  đó người ta cảm nghiệm được  những nẻo đường dẫn đến  Thiên Chúa.

“Như một gia đình hiệp nhất nhân danh  Thiên Chúa, cộng đoàn tu trì tự  bản chất là nơi mà kinh nghiệm về  Thiên Chúa phải đi tới chỗ trọn  vẹn và chuyển thông cho những người  khác một cách đặc biệt” (34),  trước hết là cho các anh chị em của  mình trong cộng đoàn.

Những người nam nữ đã tận  hiến cho Thiên Chúa sẽ không gặp được  thách đố lịch sử này, nếu họ  không đáp trả việc ”tìm kiếm Thiên  Chúa” nơi những người đồng  thời với chúng ta, những người  này rồi có lẽ sẽ quay sang những  nẻo đường lầm lạc khác trong  cố gắng tìm thoả mãn cơn khát Đấng  Tuyệt Đối của họ.

Tự do cá nhân và việc xây dựng  tình huynh đệ

  1. ”Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, và như vậy là chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,21). Trong toàn bộ sức sống  của đời sống cộng đoàn, Đức  Ki-tô, trong mầu nhiệm Vượt Qua của  Người, trở thành mẫu mực  để xây dựng sự hiệp nhất.  Quả thực, Người là nguồn mạch,

 

là mẫu mực và thước đo của  giới luật yêu thương : chúng ta phải  thương yêu nhau như chính Người  đã yêu thương chúng ta. Và Người  đã yêu chúng ta đến độ hiến  mình cho chúng ta. Đời sống chúng  ta là sự chia sẻ đức ái của  Chúa Ki-tô, tình yêu của người  đối với Chúa Cha và với anh em,  chị em của Người, một tình yêu  quên mình.

Tuy nhiên, tất cả điều này không  nằm trong bản chất ”con người cũ”,  con người muốn sự hiệp thông  và hiệp nhất nhưng lại không muốn,  hoặc không dám trả cái giá của  sự cam kết dấn thân. Lộ trình từ  ”con người cũ” chỉ muốn đóng kín  nơi chính mình, tới ”con người mới”  trao ban chính mình cho người khác, là  một lộ trình dài và khó khăn. Các  thánh sáng lập dòng đã nhấn mạnh  một cách thực tế đến những  khó khăn và nguy hiểm của lộ trình,  bởi các ngài biết rằng cộng đoàn  không thể tự nhiên mà thành được.  Đó không phải là chuyện tự phát,  cũng không thể hoàn thành được  trong thời gian ngắn.

Để sống với nhau như là anh em và  chị em, cần phải có một cuộc hành  trình giải phóng nội tâm đích thực.  Khi được giải thoát khỏi Ai-cập,  Ít-ra-en đã trở thành Dân Thiên  Chúa sau một cuộc hành trình dài qua  sa mạc dưới sự lãnh đạo của  ông Mô-sê. Cũng vậy, một cộng đoàn  tháp nhập vào Giáo Hội như là Dân  Thiên Chúa, phải được xây dựng  bằng những con người mà Chúa  Ki-tô đã giải thoát và làm cho có  khả năng yêu thương như Người  đã yêu thương, bằng hồng ân tình  yêu giải phóng của Người và  chân thành chấp nhận những người  Chúa ban để hướng dẫn chúng ta.

Tình yêu Chúa Ki-tô đổ đầy tràn  lòng chúng ta, thôi thúc chúng ta yêu  thương anh em và chị em mình đến độ  nhận lấy những yếu đuối, những  vấn đề và những khó khăn của  họ. Tắt một lời : yêu đến mức  trao ban chính mình.

  1. Đức Ki-tô ban cho con người hai điều chắc chắn căn bản : chắc chắn được yêu vô biên và  chắc chắn có khả năng yêu không  giới hạn. Ngoài Thập Giá của Đức  Ki-tô, không gì có thể ban phát đầy  đủ và dứt khoát hai điều chắc  chắn này cùng với sự tự  do bởi hai điều đó mà ra. Qua đó,  những người tận hiến dần dần  thoát khỏi nhu cầu muốn là trung tâm  vũ trụ và chiếm hữu người  khác, cũng như thoát khỏi sự sợ  hãi trao ban chính mình cho anh chị em. Đúng  hơn, họ học biết yêu như Đức  Ki-tô đã yêu họ, với tình yêu  nay được đổ tràn đầy lòng  họ, làm cho họ có khả năng quên  mình và hiến mình như Chúa đã  làm.

Nhờ sức mạnh tình yêu này, cộng  đoàn xuất hiện như là một tập  hợp những con người tự do  đã được Thập Giá Đức  Ki-tô giải thoát.

  1. Tuy nhiên, lộ trình giải thoát này, lộ trình dẫn tới sự hiệp thông trọn vẹn và sự tự do của con  cái Thiên Chúa, đòi phải can đảm  từ bỏ chính mình trong việc chấp nhận  và đón nhận tha nhân với những  giới hạn của họ, khởi đầu  từ việc chấp nhận quyền bính.

Nhiều người cho rằng điều này  tạo nên một trong những điểm yếu  của thời kỳ canh tân trong những  năm gần đây. Sự hiểu biết về  đời sống cộng đoàn đã gia  tăng, và người ta đã nghiên cứu  những khía cạnh khác nhau của đời  sống cộng đoàn. Tuy nhiên, người  ta đã ít quan tâm đến nỗ lực  khổ chế, là điều cần thiết và  không thể thay thế cho bất cứ sự  giải phóng nào nhằm biến đổi một  nhóm người trở thành một cộng  đoàn huynh đệ Ki-tô giáo.

Hiệp thông là một hồng ân cũng  đòi hỏi lời đáp trả, đòi  hỏi kiên trì học hỏi và kinh nghiệm  chiến đấu, hầu thắng vượt những  thái quá trong bản năng và tính thất  thường trong các ước muốn. Lý  tưởng cao nhất của cộng đoàn  tất nhiên kèm theo sự hoán cải từ  mỗi một thái độ trái ngược  với sự hiệp thông.

Cộng đoàn mà không có tính cách  huyền nhiệm thì không có hồn ; nhưng  cộng đoàn không có khổ chế thì  không có xác. Cần phải có ”sự  phối hợp” giữa hồng ân của Thiên  Chúa và dấn thân cá nhân để  xây dựng sự hiệp thông nhập  thể, nói cách khác, để trao ban một  bộ mặt cụ thể cho ân sủng và hồng  ân hiệp thông huynh đệ.

  1. Phải nhìn nhận rằng kiểu lập luận trên gây ra khó khăn đối với cả người trẻ lẫn người trưởng  thành hôm nay. Thường thường người  trẻ đến từ nền văn hoá đánh  giá cao tính chủ quan và tìm kiếm sự  tự mãn, trong khi những người  trưởng thành hoặc bị ràng buộc  bởi những cơ cấu quá khứ,  hoặc bởi kinh nghiệm chán ngấy những  cuộc hội họp kéo dài vô tận, nguồn  gốc của tật dài lời và không  xác thực vẫn thịnh hành cách đây  ít năm.

Nếu quả thực là không thể có  sự hiệp thông mà không có sự  tự trao hiến của mỗi phần tử,  thì ngay từ đầu, cần phải dẹp  bỏ ảo tưởng cho rằng mọi sự  phải đến từ những người  khác, và cần phải giúp mỗi người  khám phá ra, với lòng biết ơn, tất  cả những gì mình đã nhận lãnh  và thực sự đang nhận lãnh từ  tha nhân. Ngay từ đầu, nhất thiết  phải chuẩn bị để mình không phải  chỉ là ”khách hàng” của cộng đoàn,  nhưng trên hết, phải là những người  xây dựng cộng đoàn ; những người  có trách nhiệm đối với sự  thăng tiến của anh chị em ; những người  cởi mở và có khả năng lãnh  nhận hồng ân của người khác  ; những người có thể giúp đỡ  và được giúp đỡ ; những  người có thể thay thế và có  thể được thay thế.

Đời sống cộng đoàn huynh đệ  và chia sẻ tự nhiên có sức cuốn  hút người trẻ, nhưng về sau, sự  kiên trì trong những điều kiện thực  tế của đời sống có thể trở  thành gánh nặng. Do đó, việc huấn  luyện khởi đầu cần giúp người  trẻ ý thức những hy sinh phải có  để sống cộng đoàn, để chấp  nhận những hy sinh đó trong mối tương  quan huynh đệ vui tươi và chân thành,  và với tất cả những thái độ  khác là đặc trưng của người  tự do nội tâm (35). Khi chúng ta chịu  bỏ mình vì anh chị em, thì chúng ta tìm  lại được chính mình.

  1. Phải luôn luôn nhớ rằng sự thành toàn người tu sĩ nam hay nữ đạt được đều qua cộng đoàn  của mình. Ai thử cố sống một cuộc  đời tự lập, tách biệt khỏi  cộng đoàn, chắc chắn không gặp được  con đường an toàn dẫn tới sự  trọn lành của bậc mình.

Trong khi xã hội Tây phương cổ võ  con người tự lập, con người  có thể một mình đạt được  sự thành công cá nhân, con người  theo chủ nghĩa cá nhân tự tín, thì

 

Tin Mừng đòi hỏi những con người,  giống như hạt lúa mì, phải biết  chết đi cho chính mình để làm nảy  sinh đời sống huynh đệ (36).

Như thế, cộng đoàn trở thành  ”Schola Amoris”, trường dạy yêu mến,  cho người trẻ cũng như cho người  trưởng thành - trong trường học  này, mọi người học biết yêu  mến Thiên Chúa, yêu mến người  anh em, chị em chung sống với mình, và  yêu mến đồng loại, những người  đang rất cần đến lòng thương xót  của Thiên Chúa và tình liên đới  huynh đệ.

  1. Lý tưởng cộng đoàn không được làm chúng ta mù quáng trước sự kiện này là mọi thực tại  Ki-tô giáo được xây dựng  trên sự mỏng manh yếu đuối của  con người. Chưa có ”một cộng đoàn  lý tưởng” : sự hiệp thông hoàn  hảo của các thánh là mục tiêu của  chúng ta ở Giê-ru-sa-lem trên trời.

Thời của chúng ta bây giờ là  thời khởi công và kiên trì xây  dựng. Chúng ta luôn luôn có thể  cải thiện và cùng nhau đi tới một  cộng đoàn khả dĩ sống trong tha thứ  và yêu thương. Các cộng đoàn  không thể tránh được hết mọi  xung đột va chạm. Sự hiệp nhất mà  chúng ta phải xây dựng là sự  hiệp nhất được thiết lập bằng  cái giá của sự hoà giải (37).  Sự bất toàn trong cộng đoàn không  được làm chúng ta nản chí.

Mỗi ngày, cộng đoàn lại lên đường,  được giáo huấn của các Tông  Đồ nâng đỡ : ”Hãy thương mến  nhau với tình huynh đệ ; coi người  khác trọng hơn mình” (Rm 12,10) ; ”Hãy đồng  tâm nhất trí với nhau” (Rm 12,16) ; ”Hãy  đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã  đón nhận anh em” (Rm 15,7) ; ”Tôi tin chắc  rằng ... anh em ... có khả năng khuyên bảo  nhau” (Rm 15,14) ; ”Anh em hãy chờ nhau” (1 Cr 11,33)  ; ”Hãy đem lòng yêu thương mà làm  tôi lẫn nhau” (Gl 5,13) ; “Hãy an ủi nhau” (1  Tx 5,11) ; ”Hãy lấy tình bác ái mà chịu  đựng lẫn nhau” (Ep 4,2) ; ”Phải có lòng  thương xót và biết tha thứ cho nhau”  (Ep 4,32) ; ”Vì lòng kính sợ Đức  Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (Ep  5,21) ; ”Hãy cầu nguyện cho nhau” (Gc 5,16) ; ”Anh  em hãy lấy đức khiêm nhường  mà đối xử với nhau” (1 Pr 5,5) ; ”Chúng  ta được hiệp thông với nhau” (1  Ga 1,7) ; ”Khi làm điều thiện, chúng ta đừng  nản chí ... nhất là cho những anh em cùng  trong đại gia đình đức tin” (Gl 6,9-10).

  1. Có lẽ hữu ích khi nhắc lại rằng : để nuôi dưỡng sự hiệp thông tâm trí giữa những người  được gọi chung sống trong một cộng  đoàn, nhất thiết phải trau dồi những  đức tính cần có trong tất cả  các mối quan hệ nhân bản : sự kính  trọng, lòng tốt, sự chân thành,  tự kiềm chế, lịch thiệp, biết khôi  hài và tinh thần chia sẻ.

Những tài liệu mới đây của  Huấn quyền có nhiều gợi ý và  chỉ dẫn phong phú cho đời sống cộng  đoàn như : đơn sơ vui vẻ (38),  thẳng thắn và tín nhiệm lẫn nhau (39),  có khả năng đối thoại (40), và  thành tâm chấp nhận kỷ luật tốt  lành của cộng đoàn (41).

  1. Cuối cùng, chúng ta không được quên rằng, sự bình an và hoan lạc trong đời sống chung là những dấu  chỉ của Nước Thiên Chúa. Niềm  vui sống cả giữa những khó khăn  gặp phải trên hành trình thiêng liêng  và nhân bản, và cả giữa những  phiền muộn hàng ngày cũng đã là  một phần của Nước Trời. Niềm  vui này là hoa trái của Chúa Thánh Thần,  và bao gồm một đời sống đơn  giản và kết cấu đơn điệu thường  nhật. Tình huynh đệ không có niềm  vui là tình huynh đệ đang chết ; sớm  muộn, các thành viên sẽ bị cám  dỗ đi tìm ở nơi khác điều  mà họ không thể tìm thấy trong cộng  đoàn của mình. Một tình huynh đệ  đầy niềm vui là ân huệ từ trên  ban cho anh em, chị em là những người  biết cầu xin và biết chấp nhận nhau,  phó thác cho đời sống huynh đệ,  tin tưởng vào hành động của Chúa  Thánh Thần. Do đó, lời Thánh vịnh  đã được ứng nghiệm : ”Ngọt  ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được  sống vui vầy bên nhau ... Nơi đây ân  huệ Chúa ban, chính là sự sống chứa chan muôn đời” (Tv 132,1-3) ; ”Bởi vì,  khi chung sống với nhau như anh em, họ được  liên kết trong sự hiệp nhất của  Giáo Hội ; họ chỉ có một tâm hồn  trong đức ái, một ý muốn” (42).

Chứng từ niềm vui là sự lôi  cuốn mãnh liệt vào đời sống  tu trì, là nguồn phát sinh những ơn  gọi mới, và khích lệ bền đỗ.  Điều rất quan trọng là phải nuôi  dưỡng niềm vui như thế trong cộng  đoàn tu trì : làm việc quá sức  có thể huỷ diệt niềm vui, nhiệt tình  quá độ vì những nguyên do nào  đó có thể đưa một số người  tới chỗ quên lãng niềm vui, việc  không ngừng tự phân tích căn  tính và tương lai của mình cũng có  thể che khuất niềm vui.

Có thể vui sống với nhau ; dành thời  gian cho việc giải trí cá nhân và tập  thể ; thỉnh thoảng tạm dừng công  việc một chút ; chia sẻ niềm vui nỗi  buồn của anh em, chị em mình ; tin tưởng  dấn thân làm việc tông đồ ; trắc  ẩn trước mọi tình huống ; nhìn  về ngày mai với niềm hy vọng gặp  gỡ Thiên Chúa mọi lúc và mọi  nơi : đó chính là những nhân tố  nuôi dưỡng sự thanh thản, bình  an và niềm vui : những nhân tố này  trở thành sức mạnh trong hoạt động  tông đồ.

Niềm vui là chứng từ rực rỡ  cho phẩm chất Tin Mừng của cộng đoàn  tu trì ; nó là đích điểm của một  cuộc hành trình đầy gian lao, nhưng vẫn  có thể hoàn tất vì được nâng  đỡ nhờ lời cầu nguyện : ”Hãy  vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ  kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên  cần cầu nguyện” (Rm 12,12).

Truyền thông để cùng nhau thăng tiến

  1. Trong công cuộc canh tân vào những năm gần đây, vấn đề truyền thông được coi là một trong những yếu  tố nhân bản càng ngày càng có tầm  quan trọng đối với đời sống  cộng đoàn tu trì. Nhu cầu nâng cao đời  sống huynh đệ trong cộng đoàn được  cảm nhận sâu xa, kèm theo một nhu cầu  tương ứng với sự truyền thông  vừa rộng lớn, vừa mạnh mẽ  hơn.

Để trở nên anh em, chị em với  nhau, cần phải hiểu biết nhau. Để hiểu  biết nhau thì điều rất quan trọng là  phải truyền thông nhiều hơn và sâu  sắc hơn. Ngày nay, người ta đã  chú ý hơn tới những khía cạnh  khác của sự truyền thông, mặc dù  hình thức và cấp độ có thể  thay đổi giữa hội dòng này với  hội dòng khác, giữa miền này với  miền kia.

  1. Truyền thông ở trong nội bộ các hội dòng đã phát triển đáng kể. Những cuộc hội họp thường  lệ giữa những thành phần thuộc  các cấp bậc khác nhau, cấp trung ương,  cấp miền, cấp tỉnh dòng đã gia tăng  : các bề trên thường gửi những  thư từ và nhắc nhở, và những  cuộc thăm viếng các cộng đoàn thường  xuyên hơn. Việc xuất bản các thông  tin và nội san định kỳ cũng phổ  biến hơn.

Loại truyền thông rộng rãi này ở  những cấp độ khác nhau tương ứng  với đặc tính riêng của từng  hội dòng, thường tạo nên những  mối liên hệ gần gũi hơn, nuôi dưỡng  tinh thần gia đình và sự chia sẻ mối  quan tâm của toàn thể hội dòng, giúp  nhạy cảm hơn đối với các vấn  đề chung, và đem các tu sĩ lại gần  nhau hơn quanh sứ vụ chung của họ.

  1. Những cuộc hội họp thường lệ ở cấp độ cộng đoàn, thường theo nhịp độ hàng tuần, cũng tỏ  ra rất hữu ích ; những buổi gặp  gỡ này giúp các thành viên chia  sẻ các vấn đề liên quan đến  cộng đoàn, đến hội dòng, đến  Giáo Hội, và các tài liệu quan trọng  của Giáo Hội. Chúng tạo cơ hội để  lắng nghe nhau, chia sẻ những ý nghĩ riêng  của mỗi người, nhìn lại và đánh  giá những kinh nghiệm quá khứ, và  cùng nhau suy nghĩ và thảo kế hoạch.

Những cuộc họp mặt như thế đặc  biệt cần thiết cho sự thăng tiến  và phát triển đời sống huynh đệ,  nhất là trong những cộng đoàn rộng  lớn. Phải dành riêng thời giờ  cho mục đích này và tránh tất cả  những công việc khác. Thêm vào việc  quan tâm tới đời sống cộng đoàn,  những cuộc hội họp này cũng quan trọng để thực thi tinh thần đồng  trách nhiệm và sắp đặt công việc  không những trong bối cảnh của đời  sống cộng đoàn, mà còn trong cơ cấu  rộng lớn hơn của đời sống  tu trì, đời sống Giáo Hội và  đời sống thế giới mà chúng  ta được sai đến thi hành sứ  vụ. Đây là con đường mà mỗi  cộng đoàn phải theo đuổi, thích nghi  nhịp điệu và đường hướng  với chiều kích của cộng đoàn  và những dấn thân của các phần  tử, đồng thời tôn trọng lối  sống riêng của các cộng đoàn chiêm  niệm.

  1. Nhưng còn hơn thế nữa. Ở nhiều nơi người ta cảm thấy có nhu cầu truyền thông mật thiết hơn giữa  các tu sĩ chung sống trong cùng một cộng  đoàn. Sự thiếu sót hay giảm sút  truyền thông thường dẫn tới sự  suy giảm tình huynh đệ ; nếu chúng ta  biết ít hay không biết gì về đời  sống của anh em hay chị em mình, thì họ  sẽ là những người xa lạ với  chúng ta, mối liên hệ sẽ trở nên  vô danh, đồng thời tạo nên những  vấn đề thực tế của cảnh cô  lập và cô đơn. Một số cộng đoàn  phàn nàn về phẩm chất nghèo nàn  trong việc chia sẻ cơ bản những tài  sản tinh thần : truyền thông chỉ diễn  ra chung quanh những vấn đề và những  khó khăn thứ yếu mà hiếm khi chia  sẻ về những gì sống động và  cốt lõi của hành trình thánh hiến.

Những hậu quả này có thể tệ  hại, vì lúc đó kinh nghiệm thiêng  liêng một cách vô tình sẽ mang màu  sắc cá nhân. Tâm trạng tự mãn  trở nên quan trọng hơn ; thái độ  thiếu nhạy cảm với những phát  triển của người khác ; và rồi  dần dần người ta đi tìm kiếm những  mối quan hệ có ý nghĩa ở bên  ngoài cộng đoàn.

Vấn đề này cần được đề  cập tới một cách rõ ràng. Một  mặt, nó đòi hỏi một đường  lối khéo léo và thận trọng mà không  phải dùng đến áp lực ; nhưng  mặt khác, cũng đòi hỏi lòng can đảm và óc sáng tạo, tìm kiếm  những cách thức và phương pháp  khả dĩ giúp mọi người học chia  sẻ những hồng ân của Thần Khí  cách đơn sơ và đầy tình huynh đệ,  để những hồng ân này có thể  thực sự thuộc về tất cả và  là phúc lợi cho tất cả (x. 1 Cr 12,7).

Sự truyền thông nảy sinh nhất là  trong việc chia sẻ các hồng ân của Thần  Khí, chia sẻ đức tin và trong đức  tin, ở đâu chúng ta càng chia sẻ  những điều cốt lõi và sống động,  ở đó mối dây huynh đệ càng  lớn mạnh. Loại truyền thông này  có thể hữu ích để học cách  chia sẻ, cho phép các phần tử, trong  tác vụ tông đồ riêng của họ,  ”tuyên xưng đức tin” qua những ngôn  từ đơn giản và sáng sủa mà  mọi người đều có thể hiểu  biết và yêu chuộng.

Có nhiều cách thức chia sẻ và truyền  thông các ân huệ thiêng liêng. Ngoài  những cách đã nêu lên (chia sẻ  Lời Thiên Chúa và cảm nghiệm  về Thiên Chúa, chia sẻ nhận định  chung, những dự phóng chung) (43),  chúng ta nên nhắc đến việc sửa  lỗi huynh đệ, kiểm điểm đời  sống và những hình thái đặc thù  theo truyền thống. Đây là những cách  thế cụ thể nhằm phục vụ người  khác và đổ tràn vào cộng đoàn  những hồng ân mà Thánh Thần ban  tặng dồi dào nhằm phát triển cộng  đoàn và sứ vụ của cộng đoàn  trong thế giới.

Ngày nay, tất cả những điều này  có tầm quan trọng hơn một khi các cộng  đoàn thường bao gồm các tu sĩ  khác nhau về tuổi tác và chủng tộc,  các phần tử được đào  tạo với nền giáo dục về văn  hoá và thần học khác nhau, những  tu sĩ đã có những kinh nghiệm khá  dị biệt trong những năm biến động  và đa nguyên này.

Không có đối thoại và lắng nghe,  các phần tử trong cộng đoàn có  nguy cơ sống một cuộc đời kề  cận hoặc song hành, một khoảng cách  xa với lý tưởng huynh đệ.

  1. Mỗi hình thức truyền thông đều bao hàm những đường lối và những khó khăn tâm lý đặc biệt,  cũng có thể được sự hỗ  trợ tích cực của các khoa học  nhân văn. Chẳng hạn, một số cộng  đoàn đã lợi dụng sự giúp  đỡ của các chuyên gia về truyền  thông, và các chuyên viên trong lãnh  vực tâm lý hay xã hội.

Đây là những biện pháp ngoại  lệ cần được đánh giá một  cách thận trọng, và chúng có thể  được sử dụng hạn chế để  phá đổ những bức tường  ngăn cách đôi khi được dựng  lên ngay trong cộng đoàn. Các kỹ thuật  nhân loại này hữu ích nhưng không  đủ. Tất cả chúng ta phải quan tâm  tới phúc lợi của anh em, chị em mình,  phát triển khả năng phúc âm để  đón nhận được từ tha nhân  tất cả những gì họ muốn hiến  tặng và chuyển trao, và tất cả những  gì họ thực sự chuyển trao bằng  chính đời sống của họ.

Anh em hãy ”có cùng một cảm nghĩ, cùng  một lòng mến, cùng một tâm hồn,  cùng một ý hướng như nhau ... Hãy  lấy lòng khiêm nhường mà coi người  khác hơn mình. Mỗi người đừng  tìm lợi ích riêng cho mình, nhưng hãy  tìm lợi ích cho người khác.” Những  quan hệ hỗ tương của anh em phải đặt  nền tảng trên sự thật này là  anh em đã được hiệp nhất với  Đức Ki-tô (x. Pl 2,2-5).

Trong bầu khí như vậy, những kỹ thuật  và những đường hướng khác  nhau nhằm sự truyền thông thích hợp  với đời sống tu trì có thể  giúp thăng tiến tình huynh đệ.

  1. Ảnh hưởng đáng kể của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với đời sống và  não trạng hiện đại cũng có hiệu  quả trên các cộng đoàn tu trì, và  thường xuyên tác động tới  sự truyền thông nội bộ.

Ý thức được ảnh hưởng  của các phương tiện truyền thông  đại chúng, cộng đoàn nên học  sử dụng để cá nhân và cộng  đoàn được thăng tiến, với  sự trong sáng của Phúc Âm và tự  do nội tâm của những con người  đã được biết Đức Ki-tô  (x. Gl 4,17-23). Những phương tiện truyền  thông đề xuất, và thường áp  đặt, một não trạng hay một lối sống  phản lại Tin Mừng. Về vấn đề này, ở nhiều nơi, người ta mong  muốn được đào tạo kỹ lưỡng  hơn để tiếp nhận và sử dụng  các phương tiện truyền thông một  cách vừa có phê phán vừa hữu  ích. Tại sao không làm cho các phương  tiện truyền thông trở thành đối  tượng để lượng giá, để  phân định và để thảo kế hoạch  trong các cuộc hội họp định kỳ của  cộng đoàn ?

Đặc biệt, khi truyền hình trở thành  hình thức giải trí duy nhất thì những  mối quan hệ giữa các thành viên  trong cộng đoàn bị cản trở, thậm  chí bị chặn đứng, sự truyền  thông huynh đệ bị giới hạn, và  chính đời sống thánh hiến cũng  có thể bị tổn thương.

Cần phải có sự quân bình đúng  mức : việc sử dụng điều độ  và thận trọng các phương tiện truyền  thông đại chúng (44) cùng với  sự cân nhắc của cộng đoàn, có  thể giúp cộng đoàn hiểu biết sự  phức tạp của thế giới văn hoá  hơn, tiếp nhận các phương tiện truyền  thông với ý thức và cái nhìn  sáng suốt, và cuối cùng, đánh giá  ảnh hưởng của các phương tiện  ấy trong tương quan với các tác vụ  khác nhau khi phục vụ Tin Mừng.

Để phù hợp với việc lựa  chọn bậc sống đặc biệt biểu thị  bằng sự cách biệt thế gian, các  cộng đoàn chiêm niệm nên tự  buộc mình nhiều hơn vào việc duy trì  một bầu khí hồi tâm, được  hướng dẫn bởi những quy tắc  xác định trong hiến pháp riêng về  việc sử dụng các phương tiện  truyền thông xã hội.

Cộng đoàn tu trì và sự thăng  tiến cá nhân

  1. Vì cộng đoàn tu trì là ”Trường dạy yêu mến” (Schola Amoris) giúp con người lớn lên trong tình yêu đối với  Thiên Chúa và đối với anh chị  em, nên cũng là nơi cho con người  được triển nở. Con đường  triển nở là một con đường  cam go, vì đòi hỏi sự từ bỏ  những điều nào đó có giá  trị cao (45), nhưng không phải là không  thể thực hiện được. Đông  đảo các thánh nam nữ và những  khuôn mặt diệu kỳ của các tu sĩ  nam nữ minh chứng rằng sự thánh  hiến cho Đức Ki-tô ”không tạo nên  một chướng ngại nào cho sự phát  triển con người thực sự, nhưng  tự bản chất là một phúc lợi  tột bực cho sự phát triển đó”  (46).

Con đường tiến đến sự trưởng  thành nhân bản, điều tiên quyết  cho đời sống Phúc Âm sáng ngời,  là một tiến trình không có giới  hạn, vì nó bao hàm sự gia tăng liên  tục không những các giá trị tinh  thần, mà cả những giá trị thuộc  lãnh vực xã hội, văn hoá và  tâm lý (47).

Thực tế, trong những năm gần đây,  những thay đổi lớn trong văn hoá  và phong tục hướng đến những  thực tại vật chất nhiều hơn là  những giá trị tinh thần. Điều đó  làm cho chúng ta thấy cần phải quan tâm  đến một số lãnh vực mà ngày  nay con người hình như dễ bị tổn  thương một cách đặc biệt.

  1. Căn tính

Tiến trình trưởng thành diễn ra trong  sự đồng hoá mình với lời  mời gọi của Thiên Chúa. Sự kém  ý thức về căn tính có thể dẫn  tới ý tưởng sai lầm về sự  hoàn thiện bản thân, đặc biệt là  vào những thời điểm khó khăn,  với đòi hỏi thái quá là phải  có những thành quả tích cực và  được người khác chấp nhận,  sợ hãi quá đáng về sự bất  toàn, và chán nản do thất bại gây  ra.

Căn tính của người thánh hiến  tuỳ thuộc vào sự trưởng thành  tâm linh ; đây là công việc của  Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy  chúng ta nên đồng hình đồng dạng  với Đức Ki-tô, bằng cách thức  đặc biệt được ban tặng qua ”đoàn  sủng sáng lập, đoàn sủng này là hình thức sống Tin Mừng của các  phần tử trong hội dòng” (48). Vì  lý do đó, rất cần sự giúp đỡ  của người hướng dẫn tâm linh,  người hiểu biết sâu xa và tôn  trọng linh đạo và sứ vụ của  hội dòng. Một người như thế sẽ  ”phân định được hành động  của Thiên Chúa, đồng hành với  tu sĩ trong đường lối của Thiên  Chúa, nuôi dưỡng đời sống  bằng giáo thuyết vững vàng và bằng  thực hành cầu nguyện” (49). Sự  đồng hành này đặc biệt cần thiết  trong giai đoạn đào tạo sơ khởi,  nhưng vẫn ích lợi trong suốt cuộc  đời, để nuôi dưỡng ”sự  thăng tiến hướng đến sự sung  mãn của Đức Ki-tô”.

Sự trưởng thành về văn hoá  cũng giúp con người đương đầu  với những thách đố của sứ  vụ nhờ tiếp nhận những phương  thế cần thiết để phân định những  trào lưu tiến hoá và thực hiện  những đáp trả tương xứng,  trong đó Tin Mừng luôn được  đưa ra như một đề xướng để  lựa chọn trước những gọi  mời của trần thế, Tin Mừng hội  nhập những sức mạnh tích cực  của trần thế và thanh tẩy chúng khỏi  men ác thần.

Nhờ động lực này, con người  thánh hiến và cộng đoàn tu trì là  một cách bày tỏ Tin Mừng, một biểu  lộ sự hiện diện của Đức  Ki-tô trong thế giới (50).

  1. Tình cảm

Đời sống huynh đệ cộng đoàn  đòi hỏi mọi phần tử phải có  sự quân bình về tâm lý, là điều  kiện để đạt được sự  trưởng thành về tình cảm. Như  đã nói ở trên, một yếu tố  nòng cốt của sự trưởng thành  là sự tự do về mặt tình cảm,  giúp những người thánh hiến có  thể yêu mến ơn gọi của mình và  yêu mến sao cho phù hợp với ơn  gọi. Chính sự tự do và sự  trưởng thành này giúp chúng ta sống  đời sống tình cảm một cách đúng  đắn cả ở bên trong lẫn bên ngoài  cộng đoàn.

Yêu mến ơn gọi của mình, nhận thức  ơn gọi đem lại ý nghĩa thật cho cuộc  sống, và yêu mến sự thánh hiến  như là một thực tại đích thực,  đẹp đẽ và tốt lành, đem lại  chân thiện mỹ cho cuộc sống của mình,  tất cả những điều đó làm  cho con người trở nên mạnh mẽ,  tự lập và an toàn trong căn tính  của mình, không cần đến những  hình thức nâng đỡ và bù trừ  khác, đặc biệt trong lãnh vực tình  cảm. Tất cả những điều này củng  cố mối dây liên kết con người  tận hiến với những người  cùng chia sẻ ơn gọi mình, nam hoặc nữ.  Trước hết và trên hết, chính  là với họ, mà người tận  hiến cảm thấy được kêu gọi  để sống liên đới trong tình huynh  đệ và tình bằng hữu.

Yêu mến ơn gọi của mình là yêu  mến Giáo Hội, là yêu mến hội dòng  của mình, và cảm nghiệm cộng đoàn  như là gia đình riêng của mình.

Yêu mến phù hợp với ơn gọi  của mình là yêu mến theo cách thức  của một người, mà trong mỗi một  mối tương quan nhân bản, ước mong  trở nên dấu chỉ rõ ràng của  tình yêu Thiên Chúa, không xâm lấn  cũng không chiếm hữu, nhưng yêu thương  và ước mong điều tốt lành cho  kẻ khác với lòng nhân từ của  Thiên Chúa.

Vì vậy, cần có sự huấn luyện  đặc biệt trong lãnh vực tình cảm  để giúp hoà hợp khía cạnh nhân  loại với khía cạnh thiêng liêng cách  đặc biệt hơn. Về phương diện này,  những nguyên tắc chỉ đạo trong  văn kiện ”Những chỉ dẫn về việc  huấn luyện trong các hội dòng” (51)  liên quan đến việc phân định ”sự  quân bình tình cảm, đặc biệt là  sự quân bình về tính dục” và  ”khả năng sống trong cộng đoàn” là  những điểm đặc biệt thích hợp.

Tuy nhiên, những khó khăn trong lãnh  vực này thường là âm hưởng  từ những vấn đề nảy sinh trong  những lãnh vực khác : tình cảm  và tính dục mang tính cách tự ái  và ấu trĩ hoặc bị dồn nén khắt  khe, đôi khi có thể là hậu quả của  những kinh nghiệm tiêu cực trước  khi gia nhập cộng đoàn, nhưng cũng có  thể là hậu quả của những khó  khăn trong cộng đoàn hay trong tác vụ  tông đồ. Như thế, một đời  sống đậm đà và ấm áp tình  huynh đệ, một cuộc sống ”mang đỡ  gánh nặng” của anh chị em bị tổn thương  đang cần sự trợ giúp là điều  đặc biệt quan trọng.

Trong khi cần có một sự trưởng  thành nào đó để có thể sống  cộng đoàn, thì một đời sống  huynh đệ thân ái cũng cần thiết  để tu sĩ đạt được sự  trưởng thành. Ở đâu các phần  tử trong cộng đoàn nhận thấy nơi  anh em hay chị em mình sự trưởng thành  tình cảm đã suy giảm, thì cộng đoàn  phải đáp ứng bằng một tình yêu  phong phú và nhân bản, giống như tình  yêu của Chúa Giê-su và của nhiều  tu sĩ thánh thiện, một tình yêu chia sẻ  những lo âu lẫn vui mừng, khó khăn  lẫn hy vọng, với tình yêu nồng ấm  đó, một con tim mới biết cách chấp  nhận toàn thể con người. Tình yêu  như thế - một tình yêu biết quan tâm  và tôn trọng, vô vị lợi hơn  là chiếm hữu - sẽ làm cho tình yêu  Thiên Chúa nên rất gần gũi : đó  là tình yêu đã khiến Con Thiên Chúa  công bố qua thập giá rằng, chúng ta  không được nghi ngờ là chúng  ta đã được yêu thương bởi  Đấng là Tình Yêu.

  1. Những khó khăn

Một cơ hội đặc biệt cho sự thăng  tiến con người và sự trưởng  thành Ki-tô hữu là việc sống với  những con người đau khổ, những  người cảm thấy không thoải mái  trong cộng đoàn, và vì vậy, họ là  duyên cớ gây đau khổ cho người  khác và gây xáo trộn trong đời  sống cộng đoàn.

Trước tiên, chúng ta phải tìm nguồn  gốc của sự đau khổ đó. Đau  khổ có thể xảy ra do khiếm khuyết về  tính tình, những ràng buộc hình như  quá nặng nề, những thiếu sót nghiêm  trọng trong việc đào tạo, những biến  chuyển quá nhanh trong những năm gần  đây, những hình thức cai trị quá  độc đoán, hoặc những khó khăn  về tâm linh.

Có thể có một vài tình huống mà  người có thẩm quyền phải nhắc  nhở các phần tử của mình rằng  : đời sống chung đôi khi đòi hỏi  sự hy sinh và có thể trở thành  một hình thức sám hối rất quan trọng,  maxima poenitentia.

Trong vài trường hợp, cần nhờ  đến các khoa học xã hội, đặc  biệt những hoàn cảnh mà cá nhân  rõ ràng không có khả năng để  sống đời sống cộng đoàn do thiếu  trưởng thành và yếu kém về tâm  lý, hoặc do những nhân tố có tính  cách bệnh lý nhiều hơn.

Sự can thiệp như vậy, không những  tỏ ra hữu ích trong giai đoạn điều  trị - trong những trường hợp ít  nhiều rõ ràng là tâm bệnh - mà  còn là một biện pháp ngăn ngừa,  giúp ứng sinh chọn lựa cho đích  đáng, và cũng để giúp đỡ  đội ngũ đào tạo trong vài trường  hợp liên quan đến những vấn đề  sư phạm và huấn luyện đặc biệt  (52).

Trong tất cả mọi trường hợp,  khi chọn lựa các chuyên gia, phải ưu  tiên dành cho những người có  đức tin và những người có  kinh nghiệm dồi dào về đời sống  tu trì và những năng động lực  của đời tu. Vì thế, nếu các chuyên  gia này lại chính là các tu sĩ nam nữ  sống đời thánh hiến thì tốt hơn.

Sau cùng, việc sử dụng những phương  pháp như thế sẽ chỉ có hiệu quả  thật sự nếu được áp dụng  một cách giới hạn chứ không  phải phổ biến, bởi vì các biện  pháp sư phạm tâm lý không giải quyết  được mọi vấn đề và vì  vậy ”không thể thay thế cho việc linh hướng  thực sự được” (53).

Từ ”tôi” đến ”chúng ta”

  1. Sự tôn trọng con người, như Công Đồng và nhiều văn kiện khác sau đó khuyến cáo (54), đã  có ảnh hưởng tích cực đến  lối sống của các cộng đoàn. Tuy  nhiên chủ nghĩa cá nhân đồng thời  đang bành trướng với cường  độ mạnh hay yếu tuỳ từng miền  trên thế giới, dưới nhiều hình  thức khác nhau : nhu cầu muốn đặt  mình làm trung tâm ; nhấn mạnh quá mức  đến sự thoải mái cá nhân dù  là thể lý, tâm lý hay nghề nghiệp  ; dành ưu tiên cho công việc cá nhân  hay cho một công việc có uy tín và ”nổi  bật” ; ưu tiên tuyệt đối cho những  khát vọng và đường lối riêng  của cá nhân mà không quan tâm đến  những người khác và cũng không  đếm xỉa gì tới cộng đoàn.

Mặt khác, cần phải tìm kiếm một  sự quân bình chính đáng - một  điều không phải luôn luôn dễ dàng  đạt được - giữa công ích  và sự tôn trọng con người, giữa  những đòi hỏi và nhu cầu của  cá nhân với của cộng đoàn, giữa  đoàn sủng cá nhân và sứ vụ  tông đồ cộng đoàn. Sự quân  bình đó phải tránh sức mạnh phân  rẽ của chủ nghĩa cá nhân lẫn khía  cạnh cào bằng của chủ nghĩa cộng  đồng. Cộng đoàn tu sĩ là nơi diễn  ra cuộc vượt qua hằng ngày và kiên  trì từ cái ”tôi” đến ”chúng ta”,  từ công tác của tôi đến công  tác được uỷ thác cho cộng đoàn  ; từ việc tìm kiếm ”những điều  thuộc về tôi” đến việc tìm kiếm  ”những điều thuộc về Đức  Ki-tô”.

Trong chiều hướng này, cộng đoàn  tu trì trở thành nơi hằng ngày chúng  ta học nhận lãnh một tinh thần mới,  giúp chúng ta sống trong hiệp thông huynh  đệ nhờ sự phong phú của những  hồng ân khác nhau, và đồng thời  cổ võ việc quy tụ những hồng ân  này hướng đến tình huynh đệ  và hướng đến tinh thần đồng  trách nhiệm trong dự phóng tông đồ.

  1. Để thực hiện một ”hoà điệu” cộng đoàn và tông đồ như vậy, cần phải :
  2. cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân ơn gọi và sứ vụ chung, một hồng ân trổi vượt mọi sự  khác biệt cá nhân và văn hoá ;  cổ võ thái độ chiêm niệm sự  khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng đã  gửi đến cộng đoàn những anh  chị em đặc biệt mà mỗi người  đều là món quà cho người khác  ; ngợi khen Thiên Chúa về những gì  mà mỗi anh chị em chia sẻ bằng sự  hiện diện và lời của Đức  Ki-tô ;
  3. cổ võ sự tôn trọng lẫn nhau nhờ đó chúng ta chấp nhận cuộc hành trình chậm chạp của những phần  tử yếu đuối hơn, đồng thời  không bóp nghẹt sự phát triển những  cá nhân phong phú hơn ; một sự tôn trọng nuôi dưỡng óc sáng tạo  nhưng cũng đòi hỏi trách nhiệm với  người khác và với sự liên  đới ;
  4. nhắm vào sứ vụ chung : mỗi hội dòng có một sứ vụ mà tất cả mọi người phải cộng tác vào  tuỳ theo tài năng riêng của mình. Con  đường của những người  nam và nữ tận hiến hệ tại chính  sự hiến dâng dần dần cho Thiên Chúa  tất cả những gì họ có, và tất  cả con người họ, cho sứ vụ của  gia đình tu trì ;
  5. nên nhớ rằng sứ vụ tông đồ trước hết được tín thác cho cộng đoàn, và điều này  thường đòi hỏi thi hành những  công việc phù hợp với hội dòng.  Sự cống hiến cho tác vụ tông đồ  loại này giúp người tận hiến  trưởng thành và lớn lên trong  đường lối thánh thiện đặc  thù của mỗi người ;

đ. nên biết rằng người tu sĩ,  khi vì vâng lời mà nhận lãnh các  sứ vụ cá nhân, thì phải nghĩ  là mình được cộng đoàn sai  đi. Về phần mình, cộng đoàn sẽ  phải thường xuyên giúp họ cập  nhật hoá và hoà nhập họ vào những  cuộc duyệt xét những dấn thân tông  đồ và cộng đoàn.

Trong thời gian đào tạo, dù có thiện  chí thế nào chăng nữa, một người  tận hiến có thể tỏ ra thiếu khả  năng hội nhập những hồng ân cá  nhân vào tình huynh đệ và sứ  vụ chung. Trong những trường hợp  như thế, có lẽ cần phải đặt  câu hỏi : ”Các hồng ân của Thiên  Chúa trong người này có xây dựng  sự hiệp nhất và đào sâu sự  hiệp thông không ? Nếu có thì có  thể đón nhận họ. Nếu không thì  dù các hồng ân nơi chính họ có  vẻ tốt đẹp thế nào chăng nữa,  hoặc cho dù có vẻ là đáng ao ước  đối với một vài phần tử,  thì họ vẫn không thích hợp cho hội  dòng này. Thực là không khôn ngoan  khi phải chấp nhận những đường  hướng quá khác nhau mà không đặt  nền tảng vững chắc trên sự hiệp  nhất của chính hội dòng” (55).

  1. Những năm gần đây đã gia tăng một số những cộng đoàn nhỏ, đặc biệt vì lý do làm việc  tông đồ. Những cộng đoàn này  có thể cũng khai triển những mối  liên hệ mật thiết hơn giữa các  tu sĩ, kinh nguyện được chia sẻ một  cách sâu đậm hơn, và đảm nhận  trách nhiệm một cách hỗ tương và  huynh đệ hơn (56).

Nhưng có vài động lực cần phải  được xét lại, như giống nhau về  sở thích hoặc giống nhau về não trạng.  Trong hoàn cảnh này, cộng đoàn dễ  trở nên khép kín lại chính mình,  và đi tới chỗ chọn lựa những  phần tử riêng cho cộng đoàn, bằng  cách chấp nhận hoặc loại bỏ những  anh em hay chị em do bề trên gửi tới.  Điều này trái ngược với chính  bản chất và chức năng của cộng  đoàn tu trì như một dấu chỉ. Ngoài  việc làm suy yếu tính linh hoạt trong việc  tông đồ, sự thuần nhất do chọn  lựa sẽ làm suy yếu sức mạnh  Thần Khí của cộng đoàn, và làm  mất đi thực tại tinh thần, thực  tại này điều khiển cộng đoàn  bằng sức mạnh của mình như một  chứng tá.

Cố gắng chấp nhận lẫn nhau và cam kết  vượt qua những khó khăn, những  đặc điểm của các cộng đoàn  không thuần nhất, cho thấy tính siêu  việt trong lý do làm cho cộng đoàn hiện  hữu, đó là sức mạnh của  Thiên Chúa, một sức mạnh ”tỏ hiện  trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9-10).

Chúng ta sống với nhau trong cộng đoàn  không phải vì chúng ta đã chọn lựa  người khác, nhưng vì chúng ta được  Thiên Chúa chọn lựa.

  1. Trong khi nền văn hoá mang nhãn hiệu Tây phương có thể dẫn đến chủ nghĩa cá nhân gây khó khăn cho đời  sống chung huynh đệ, thì những nền  văn hoá khác có thể đưa đến  chủ nghĩa cộng đồng khó lòng chấp  nhận những dị biệt cá nhân. Tất  cả mọi hình thức văn hoá đều  cần được phúc âm hoá.

Sự hiện diện của các cộng đoàn  tu trì - qua tiến trình hoán cải, bước  vào đời sống huynh đệ là nơi  những cá nhân sẵn sàng phục vụ  anh chị em mình, và là nơi mà ”tập  thể” nâng cao cá nhân - là dấu chỉ  sức mạnh biến đổi của Tin Mừng  và của Nước Thiên Chúa đang đến.

Các hội dòng quốc tế trong đó có  nhiều phần tử thuộc những nền  văn hoá khác biệt sống chung với  nhau, có thể góp phần vào việc trao  đổi những ân điển, qua đó  họ làm phong phú và sửa đổi  lẫn nhau trong ước nguyện chung để  càng ngày càng sống Tin Mừng tự  do cá nhân và hiệp thông huynh đệ  một cách sâu đậm hơn.

Trở thành cộng đoàn nhờ việc  huấn luyện liên tục

  1. Việc canh tân cộng đoàn đã đem lại lợi ích lớn lao nhờ việc huấn luyện liên tục. Được  khuyến cáo và trình bày đại cương  trong văn kiện ”Những chỉ dẫn về  việc đào tạo trong các hội dòng  (57), tất cả những người có  trách nhiệm trong các hội dòng đều  coi việc huấn luyện liên tục là vấn  đề có tầm quan trọng sinh tử đối  với tương lai.

Mặc dầu có vài điều không chắc  chắn (như khó khăn trong việc tổng hợp  những khía cạnh khác biệt, khó khăn  trong việc gây ý thức nơi mọi phần  tử của cộng đoàn, mải mê với  những đòi hỏi của công tác tông  đồ, và một sự quân bình đúng  mức giữa hoạt động và việc  đào tạo), đa số các hội dòng,  ở cấp trung ương lẫn địa phương,  đều đã có các sáng kiến.

Một trong các mục tiêu của những  sáng kiến như vậy là thành lập các  cộng đoàn trưởng thành, có tinh  thần phúc âm, có tình huynh đệ, và  có khả năng tiếp tục việc huấn  luyện liên tục trong đời sống thường  nhật. Cộng đoàn tu trì là nơi những  chỉ dẫn tổng quát được thi hành  một cách cụ thể, qua những cố gắng  hằng ngày kiên nhẫn và bền bỉ. Đối  với mỗi người, cộng đoàn  tu trì là nơi và là khung cảnh tự  nhiên cho quá trình phát triển, trong đó  tất cả mọi người trở nên  đồng trách nhiệm đối với sự  phát triển của người khác. Cộng  đoàn tu trì cũng là nơi mà ngày  qua ngày, các phần tử giúp đỡ  nhau như những con người đã được  thánh hiến, có một đoàn sủng chung,  nhằm đáp ứng nhu cầu của những  người hèn kém nhất và những  thách đố của xã hội mới.

Đứng trước những khó khăn,  việc đáp ứng thường khác  nhau, và gây những hậu quả hiển  nhiên cho đời sống cộng đoàn.  Từ đó phát sinh nhận thức rằng  một trong những thách đố mạnh mẽ  ngày nay là việc hoà nhập các phần  tử, được đào tạo khác  nhau và có quan điểm tông đồ khác  nhau, vào trong một cộng đoàn, để  những khác biệt này không trở  thành những trường hợp xung khắc  cho bằng là những cơ hội làm phong  phú lẫn nhau. Trong một khung cảnh đa dạng  và có thể thay đổi như thế, thì  vai trò quy tụ của những người  có trách nhiệm với cộng đoàn  trở nên quan trọng hơn bao giờ hết  ; cần phải hỗ trợ họ một cách  đặc biệt bằng lãnh vực huấn  luyện liên tục, theo những đòi hỏi  trong phận sự của họ là thúc đẩy  đời sống huynh đệ và đời  sống tông đồ của cộng đoàn.

Dựa trên kinh nghiệm của những năm  gần đây, có hai khía cạnh cần để  ý đặc biệt : chiều kích cộng đoàn  trong các lời khuyên Phúc Âm và  đoàn sủng.

  1. Chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm

Lời tuyên khấn của các tu sĩ diễn  tả hồng ân dâng hiến bản thân cho  Thiên Chúa và cho Giáo Hội - tuy nhiên  đó là hồng ân được sống  trong cộng đoàn của một gia đình tu  trì. Người tu sĩ không chỉ ”được  kêu gọi” đến một ơn gọi riêng  cá nhân. Ơn gọi của họ cũng là  ”cùng được kêu gọi” - con-vocation  -, họ được kêu gọi với những  người khác, với những người  mà họ chia sẻ đời sống hằng  ngày.

Ở đây có sự tập trung những  lời thưa ”xin vâng” đối với Thiên  Chúa, lời thưa đã hợp nhất  số đông tu sĩ vào sống trong một  cộng đoàn duy nhất. Cùng được  thánh hiến với nhau - nghĩa là được  hiệp nhất trong cùng một lời thưa  “xin vâng”, được hiệp nhất trong Chúa  Thánh Thần - người tu sĩ hằng ngày  khám phá ra rằng việc họ theo Chúa Ki-tô,  ”vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh”,  được sống trong tình huynh đệ,  cũng tương tự như các Tông Đồ  ngày xưa đã theo Đức Giê-su trong  tác vụ của Người. Các Tông Đồ  đã hợp nhất với Đức Ki-tô,  và vì vậy họ được mời  gọi để sống hợp nhất với  nhau. Họ được hợp nhất trong sứ  mạng loan báo một cách ngôn sứ việc  chống lại ngẫu tượng quyền lực,  chiếm đoạt và khoái lạc (58).

Như vậy, đức vâng phục ràng  buộc những ý muốn khác nhau lại và hợp nhất những ý muốn đó  trong một cộng đoàn huynh đệ duy nhất,  được trao cho một sứ vụ đặc  biệt để chu toàn trong Giáo Hội.

Vâng phục có nghĩa là ”xin vâng” đối  với kế hoạch của Thiên Chúa, nhờ  đó Người đã ký thác công  việc đặc biệt cho một nhóm người.  Lời thưa ”xin vâng” ấy gắn liền với  sứ vụ, nhưng cũng gắn liền với  cộng đoàn, một cộng đoàn phải  thực hiện việc phục vụ ở đây,  lúc này và với nhau. Lời thưa  ”xin vâng” cũng đòi hỏi một cái  nhìn đức tin sáng suốt đối với  các bề trên, những người ”thực  thi nhiệm vụ lãnh đạo và phục vụ”  (59) và là những người phải  nhận ra sự hài hoà giữa công  tác tông đồ và sứ vụ. Chính  trong việc họ hiệp thông với nhau mà  ý muốn của Thiên Chúa - ý muốn  duy nhất có thể cứu chúng ta - được  hoàn tất.

Khó nghèo, sự chia sẻ của cải,  kể cả những của cải thiêng liêng,  ngay từ đầu đã là nền tảng  cho sự hiệp thông huynh đệ. Sự  khó nghèo của cá nhân các phần  tử, gắn liền với một lối sống  giản dị và khắc khổ, không những  giải thoát người tu sĩ khỏi những  bận tâm liên hệ đến quyền sở  hữu riêng tư, mà còn làm phong phú  cộng đoàn, giúp cộng đoàn phục  vụ Thiên Chúa và người nghèo  cách hữu hiệu hơn.

Sự khó nghèo bao hàm một chiều kích  kinh tế : khả năng quyết định về  tiền bạc như là của riêng mình, hoặc  cho chính mình hoặc cho các phần tử  trong gia đình mình, một lối sống quá  khác biệt với các phần tử khác  trong cộng đoàn và với mức sống  của xã hội mình đang sống - tất cả  những điều này đều làm tổn  thương và làm suy yếu đời sống  huynh đệ.

“Khó nghèo trong tinh thần”, khiêm tốn, đơn  giản, nhìn nhận những hồng ân của  kẻ khác, đánh giá các thực tại  Tin Mừng như là ”đời sống ẩn  giấu với Đức Ki-tô trong Thiên  Chúa”, kính trọng hy sinh âm thầm, nhìn  nhận những người hèn kém nhất,  tận tuỵ với những cố gắng cả  khi không được biết đến hay không  được trả công. Đó là tất  cả những khía cạnh kết hợp của  đời sống huynh đệ và phát sinh  từ lời khấn khó nghèo.

Một cộng đoàn những ”người  nghèo” sẽ dễ dàng bày tỏ sự  liên đới với người nghèo  hơn, và cho thấy trọng tâm của việc  Phúc Âm hoá, bởi vì trình bày  một cách cụ thể khả năng biến đổi  của các mối phúc.

Trong chiều kích cộng đoàn, khiết  tịnh được thánh hiến bao gồm  cả sự trong sạch tâm hồn, trái tim  và thân thể, biểu lộ sự tự  do lớn lao để yêu mến Thiên Chúa  và yêu mến tất cả những gì thuộc  về Người, bằng một tình yêu không  chia sẻ, và như vậy, có thể dốc  toàn lực để yêu mến và phục  vụ tha nhân, làm cho tình yêu của Đức  Ki-tô hiện diện. Không ích kỷ cũng  không độc quyền, không chiếm hữu  cũng không nô lệ đam mê, nhưng phổ  quát và vô vị lợi, tự do và  giải thoát - điều cần thiết cho sứ  vụ - tình yêu này được vun trồng  và lớn lên qua đời sống huynh  đệ. Như thế, những ai sống đời  độc thân thánh hiến ”nhắc mọi người  nhớ sự kết hiệp lạ lùng mà  Thiên Chúa đã thực hiện, và  sẽ tỏ lộ đầy đủ ở đời  sau, và trong sự kết hiệp ấy, Hội  Thánh nhận Đức Ki-tô là Đấng  Lang Quân độc nhất của mình” (60).

Chiều kích cộng đoàn của các lời  khấn dòng cần phải được tiếp  tục nuôi dưỡng và đào sâu,  vì đó là một tiến trình mang tính  chất huấn luyện liên tục.

  1. Đoàn sủng

Đây là khía cạnh thứ hai của  việc huấn luyện liên tục mà chúng  ta phải đặc biệt lưu tâm để cổ  võ sự phát triển đời sống  huynh đệ.

“Sự thánh hiến tu trì thiết lập mối  hiệp thông đặc thù giữa người  tu sĩ với Thiên Chúa và, trong Người,  giữa các phần tử của cùng một  hội dòng ... Tuy nhiên, nền tảng của  sự hiệp nhất là sự hiệp thông  trong Đức Ki-tô được củng  cố bởi đoàn sủng duy nhất của  đấng sáng lập” (61). Vì thế, việc  quy chiếu về vị sáng lập dòng, và  về đoàn sủng mà vị ấy đã  sống và thông truyền, gìn giữ và  phát triển qua suốt cuộc sống của hội  dòng (62), được coi là yếu  tố thiết yếu cho sự hiệp nhất của  cộng đoàn.

Sống trong cộng đoàn là cùng nhau sống  thánh ý Thiên Chúa phù hợp với  đường hướng của đoàn sủng  mà vị sáng lập đã nhận được  từ Thiên Chúa và truyền lại cho  các đồ đệ và những người  tiếp bước các ngài.

Trong những năm gần đây, khi nhấn  mạnh tầm quan trọng của đoàn sủng  nguyên thuỷ nhờ suy tư thần học phong  phú (63), cuộc canh tân đã cổ  võ sự hiệp nhất cộng đoàn, sự  hiệp nhất được coi như nơi tiếp  nhận cùng một hồng ân của Chúa  Thánh Thần, một hồng ân phải được  chia sẻ cho các anh chị em, và nhờ đó  có thể làm phong phú Giáo Hội ”cho trần  gian được sống”. Vì lý do đó,  chương trình đào tạo sẽ đặc  biệt hữu ích khi bao gồm những khoá  học đều đặn và suy tư trong cầu  nguyện về vị sáng lập, về đặc  sủng và hiến pháp của hội dòng.

Sự hiểu biết sâu xa về đoàn  sủng đưa đến cái nhìn rõ rệt  hơn về căn tính riêng của hội dòng  ; xoay quanh căn tính đó, việc xây dựng  sự hiệp nhất và hiệp thông sẽ  dễ dàng hơn. Việc nắm bắt sáng suốt  căn tính đoàn sủng của hội dòng  làm nảy sinh những điều chỉnh có  tính sáng tạo đối với những  hoàn cảnh mới, và điều này đưa  tới những triển vọng tích cực  cho tương lai của hội dòng.

Thiếu sáng suốt trong lãnh vực này  có thể dễ gây ra sự bất ổn  cho các mục tiêu và tổn thương cho  những hoàn cảnh chung quanh đời  tu, những luồng văn hoá và những  nhu cầu tông đồ khác ; thậm chí  còn có thể làm cho công cuộc thích  nghi và canh tân không thực hiện được.

  1. Do đó cần phải phát triển căn tính đoàn sủng riêng của hội dòng, nhất là để tránh một thứ ”đại  loại” (genericism), vốn là mối đe  doạ thực sự cho sức sống của  cộng đoàn tu trì.

Trong những năm gần đây, có một  vài nhân tố đã, và trong một vài  trường hợp, vẫn còn tiếp tục  gây ra đau khổ cho cộng đoàn tu trì,  chẳng hạn :

một đường hướng ”đại loại”  (chung chung) - hay nói cách khác, một đường  hướng thiếu trung gian đặc loại của  đoàn sủng mình - khi chỉ để ý  đến một số chỉ dẫn nào đó  của Giáo Hội địa phương hay một  số gợi ý nào đó rút ra từ  các linh đạo khác nhau ;

một thứ dấn thân trong các phong trào  của Giáo Hội, đặt cá nhân người  tu sĩ vào hiện tượng mơ hồ là  ”thành viên lưỡng diện” ;

trong mối liên hệ thiết yếu và đôi  khi đầy hiệu quả với giáo dân,  đặc biệt với các cộng tác viên  giáo dân, có một sự thích nghi nào  đó đối với não trạng giáo  dân. Thay vì trao ban chứng tá tu trì của  mình như một hồng ân huynh đệ để  cổ võ cho chân tính Ki-tô giáo, họ  lại chỉ bắt chước giáo dân, theo  lối nhìn và hoạt động của giáo  dân, vì vậy làm suy yếu phần đóng  góp của sự tận hiến ;

một sự thích nghi quá mức theo những  đòi hỏi của gia đình, theo những  lý tưởng của quốc gia, chủng tộc  hay thị tộc, hoặc một vài nhóm xã  hội, có nguy cơ bóp méo đoàn sủng  cho hợp với địa vị hay lợi  lộc riêng.

Chủ nghĩa đại loại, một chủ nghĩa  giản lược đời tu vào một  mẫu số chung thấp nhất và không còn  sắc thái, dẫn tới việc tiêu diệt  vẻ đẹp và hiệu quả của những  đoàn sủng vừa nhiều vừa khác  biệt đã được Chúa Thánh Thần  khơi dậy.

Quyền bính để phục vụ tình huynh đệ

  1. Nói chung, người ta đồng ý rằng sự phát triển trong những năm gần đây đã đóng góp vào  sự trưởng thành đời sống  huynh đệ trong các cộng đoàn. Trong nhiều  cộng đoàn, bầu khí đời sống  chung đã được cải thiện : có  nhiều chỗ cho mọi người tích cực  tham gia ; đã có sự chuyển biến từ  một đời sống chung dựa quá nhiều  vào việc giữ luật đến một đời  sống lưu tâm nhiều hơn đến những  nhu cầu cá nhân, nghĩa là chú trọng  hơn tới con người. Nỗ lực  xây dựng những cộng đoàn bớt  vụ hình thức, bớt độc đoán,  thêm tình huynh đệ và thêm sự  tham gia, là điều nhìn chung được  coi là một trong những kết quả dễ  nhận thấy hơn trong những năm gần  đây.
  2. Ở vài nơi, những phát triển tích cực này có nguy cơ bị tổn thương do thiếu tin tưởng vào quyền  bính.

Ước vọng có sự hiệp thông  sâu xa hơn giữa các phần tử và  một phản ứng tất nhiên chống lại  những cơ cấu được coi là quá  cứng nhắc và độc đoán đã  góp phần làm thiếu hiểu biết phạm  vi đầy đủ của vai trò quyền bính  ; thực vậy, một số người coi  quyền bính là hoàn toàn không cần  thiết cho đời sống cộng đoàn,  một số khác lại giản lược vào  vai trò thuần tuý phối hợp những  sáng kiến của các phần tử. Kết  quả, một số cộng đoàn đi đến  chỗ sống không có người phụ  trách, trong khi ở các cộng đoàn  khác, mọi quyết định đều có  tính cách tập thể. Tất cả những  điều đó đều đưa đến nguy  cơ - không phải chỉ là giả thuyết  - đổ vỡ đời sống cộng đoàn  hoàn toàn, chủ ý nhắm ưu tiên cho  những đường lối cá nhân,  và đồng thời làm lu mờ chức  năng của quyền bính, một chức năng  vừa cần thiết cho sự thăng tiến  đời sống huynh đệ trong cộng đoàn,  vừa cần thiết cho hành trình thiêng  liêng của người tận hiến.

Tuy nhiên, kết quả của những thử  nghiệm này dần dần đưa tới việc  tái khám phá nhu cầu và vai trò quyền  bính cá nhân, nối tiếp toàn bộ truyền  thống đời tu.

Nếu bầu khí dân chủ lan rộng đã  khuyến khích sự phát triển tinh thần  đồng trách nhiệm và sự tham gia của  mọi người trong tiến trình quyết định,  ngay cả trong đời tu, thì chúng ta đừng  quên rằng tình huynh đệ không phải  chỉ là kết quả của cố gắng nhân  loại, nhưng cũng là, và trên hết,  là một hồng ân của Thiên Chúa.  Đó là một hồng ân do tuân phục  Lời Thiên Chúa, và trong đời  tu, cũng là tuân phục quyền bính, nó  nhắc nhở chúng ta về Lời đó  và hướng về Lời trong những  hoàn cảnh đặc biệt, phù hợp  với tinh thần của hội dòng.

“Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý  trọng những ai đang vất vả vì anh  em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa  và khuyên bảo anh em. Hãy lấy tình bác  ái mà hết lòng tôn kính những  người ấy, vì công việc họ làm”  (1 Tx 5,12-13). Cộng đoàn Ki-tô hữu không  phải là một tập thể vô danh, nhưng  ngay từ lúc đầu, họ đã có  các vị lãnh đạo là những người  mà thánh Tông Đồ muốn mọi người  phải lưu tâm, kính trọng và yêu mến.

Trong các cộng đoàn tu trì, các vị  hữu trách, những người được  quan tâm và kính trọng cũng do lời  khấn vâng phục, được đặt  lên để phục vụ tình huynh đệ,  để phát triển, để hoàn thành  những mục tiêu thiêng liêng và tông  đồ.

  1. Cuộc canh tân mới đây đã giúp tái phác hoạ quyền bính với ý định liên kết quyền bính một  lần nữa mật thiết hơn với các  nguồn gốc Tin Mừng và, do đó, liên  kết với việc phục vụ sự tiến  bộ thiêng liêng của mỗi người  và phát triển tình huynh đệ trong cộng  đoàn.

Mỗi cộng đoàn có một sứ vụ  riêng phải chu toàn. Vì thế, các vị  hữu trách phục vụ cộng đoàn  là những người phải chu toàn  một sứ vụ riêng biệt, được  hội dòng và đoàn sủng của hội  dòng tiếp nhận và xác định. Ở  đâu có sự đa dạng về sứ  vụ, ở đó cũng phải có những  loại cộng đoàn khác nhau, và vì vậy,  có những cách thực thi quyền bính  khác nhau. Do đó, đời tu có những  quan điểm và đường lối thi hành  quyền bính khác nhau, được quy định  trong luật riêng.

Theo tinh thần Tin Mừng, quyền bính luôn  luôn là để phục vụ.

  1. Cuộc canh tân trong những năm gần đây đã nêu bật một vài khía cạnh của quyền bính :
  2. Quyền bính về tâm linh

Nếu những người tận hiến đã  dâng hiến bản thân để hoàn toàn  phụng sự Thiên Chúa, thì quyền bính  cổ võ và nâng đỡ sự tận  hiến của họ. Theo một nghĩa nào đó,  quyền bính có thể được coi là  ”tôi tớ của các tôi tớ Thiên  Chúa”. Nhiệm vụ chính của quyền bính  là xây dựng, trong sự hiệp nhất  anh chị em, một ”cộng đoàn huynh đệ  trong đó mọi người tìm kiếm và  yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi  sự” (64). Do đó, trước hết,  bề trên phải là một người tâm  linh, xác tín tính ưu việt của khía  cạnh tâm linh, vừa liên quan tới  đời sống cá nhân lẫn sự  phát triển đời sống huynh đệ  ; nói cách khác, vị ấy phải biết  rằng tình yêu Thiên Chúa càng tăng  lên trong tâm hồn mỗi cá nhân, thì  càng có sự hiệp nhất giữa các  tâm hồn hơn.

Như thế, nhiệm vụ chính của bề trên  là vị linh hoạt đời sống tâm  linh, cộng đoàn và tông đồ của  cộng đoàn mình.

  1. Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất

Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất  là một quyền bính quan tâm lo sáng tạo  bầu khí thích hợp cho sự chia sẻ  và tinh thần đồng trách nhiệm : khuyến  khích mọi người đóng góp vào  công việc chung, cổ võ các phần tử  đảm nhận và tôn trọng trách nhiệm  ; qua sự lưu tâm đến con người,  cổ võ đức tuân phục tự nguyện  (65), sẵn lòng lắng nghe các phần  tử, xúc tiến sự cộng tác hài  hoà vì lợi ích của hội dòng và  của Giáo Hội (66) ; tham gia đối thoại  và tạo những cơ hội gặp gỡ  thuận tiện ; đem lại sự can đảm  và hy vọng trong những lúc khó khăn  ; dự đoán và vạch ra những chân  trời mới cho sứ vụ. Hơn nữa,  quyền bính còn phải tìm cách duy trì  sự quân bình giữa những khía  cạnh khác nhau của đời sống cộng  đoàn - giữa cầu nguyện và làm  việc, tác vụ tông đồ và việc  huấn luyện, làm việc và nghỉ ngơi.

Quyền bính của một bề trên phải  tác động thế nào để cho nhà  dòng không chỉ là một nơi trú ngụ,  tập hợp một số người sống  riêng rẽ, nhưng là một ”cộng đoàn  huynh đệ trong Đức Ki-tô” (67).

  1. Quyền bính có khả năng quyết định cuối cùng và bảo đảm việc chấp hành

Sự phân định của cộng đoàn  là một tiến trình khá hữu ích  mặc dù không dễ dàng hay đương  nhiên, vì nó liên quan đến khả năng  của con người, sự khôn ngoan thiêng  liêng, và sự khách quan. Nơi nào  được thực hiện với đức  tin và sự nghiêm túc, thì nơi đó  sự phân định của cộng đoàn  có thể cung cấp cho các bề trên những  điều kiện thuận lợi để đi  tới những quyết định cần thiết  cho lợi ích tối hảo của đời  sống huynh đệ và sứ vụ.

Khi một quyết định đã được  đưa ra thực hiện theo đúng thủ  tục do luật riêng ấn định, các bề  trên cần nhiều kiên nhẫn và can đảm  để bảo đảm rằng những gì  đã được quyết định không  chỉ là những chữ viết ghi trên  giấy tờ.

  1. Luật riêng của mỗi hội dòng cũng phải xác định càng rõ càng tốt thẩm quyền liên hệ của cộng  đoàn, của những hội đồng khác  nhau, của những vị điều phối các  ban ngành và của bề trên. Một cái  nhìn thiếu sáng suốt trong lãnh vực  này sẽ là đầu mối gây ra lộn  xộn và xung đột.

“Những dự phóng cộng đoàn” có  thể giúp gia tăng việc tham gia vào đời  sống cộng đoàn và vào sứ vụ trong những bối cảnh khác nhau, cũng  phải lưu ý xác định rõ vai trò  và thẩm quyền của các vị hữu  trách, phù hợp với hiến pháp.

  1. Các cộng đoàn huynh đệ và hiệp nhất ngày càng được mời gọi trở thành yếu tố quan trọng  và đầy sức thuyết phục đối  với nền văn hoá phản Tin Mừng,  các cộng đoàn này là muối của  trần gian và ánh sáng cho đời.

Do đó, chẳng hạn, nếu trong xã hội  Tây phương, nơi chủ nghĩa cá nhân  lan tràn, thì cộng đoàn tu trì được  mời gọi trở thành dấu chỉ ngôn  sứ cho khả năng kiến tạo tình huynh  đệ và liên đới trong Đức  Ki-tô ; trong những nền văn hoá mà  chủ nghĩa độc tài hay chủ nghĩa cộng  đồng lan tràn thì cộng đoàn được  mời gọi để trở thành dấu  chỉ tôn trọng và cổ võ quyền con  người, và cũng là lời mời  gọi thi hành quyền bính phù hợp với  ý Thiên Chúa.

Trong khi các cộng đoàn tu trì phải tham  dự vào nền văn hoá nơi họ sống,  họ cũng được mời gọi để  thanh tẩy và nâng cao nền văn hoá đó,  nhờ muối và ánh sáng của Tin Mừng,  qua các cộng đoàn, đem lại một tổng  hợp cụ thể về cái không chỉ  là Phúc Âm hoá nền văn hoá (evangelization  of culture), mà còn là Phúc Âm hoá việc  hội nhập văn hoá (evangelizing inculturation)  và việc Phúc Âm hoá được  hội nhập văn hoá (inculturated evangelization).

  1. Sau cùng, chúng ta không bao giờ được quên một vấn đề thường gây đau khổ, phức tạp và tế  nhị, đó là đức tin đóng vai  trò quyết định giúp chúng ta hiểu  được mầu nhiệm cứu độ  của đức tuân phục (68). Cũng  như vì sự bất tuân của một người  đưa đến sự tan rã của gia đình  nhân loại, và sự tuân phục của  Con Người Mới đã khởi đầu  công cuộc tái tạo (x. Rm 5,19), thì thái  độ tuân phục sẽ luôn luôn là  một sức mạnh thiết yếu cho mọi cuộc  sống gia đình.

Đời sống tu trì luôn sống nhờ  xác tín này của đức tin, và được  mời gọi để cũng sống theo xác  tín đó hôm nay, với lòng can đảm  để không chạy theo việc tìm kiếm  những tương quan huynh đệ một cách  vô ích, và để trở nên một  thực tại Phúc Âm thích hợp trong  Giáo Hội và trong xã hội.

  1. Tình huynh đệ như là dấu chỉ

Mối tương quan giữa đời sống  huynh đệ và hoạt động tông đồ,  đặc biệt trong những hội dòng dấn  thân vào công tác tông đồ, không  luôn luôn rõ rệt, và rất thường  dẫn đến sự căng thẳng cho cá  nhân lẫn cộng đoàn. Đối với  một số người, việc ”xây dựng  cộng đoàn” bị coi là trở ngại  cho sứ vụ, gần như hoang phí thời  giờ trong những vấn đề thứ  yếu. Mọi người phải nhớ rằng  sự hiệp thông huynh đệ như thế  đã là một tác vụ tông đồ  rồi. Nói cách khác, nó đóng góp  trực tiếp cho công cuộc Phúc Âm  hoá. Dấu chỉ tuyệt hảo mà Chúa  đã để lại cho chúng ta là dấu  chỉ của tình huynh đệ sống động  : ”Do điều này mà mọi người sẽ  biết anh em là môn đệ Thầy, là anh  em yêu thương nhau” (x. Ga 13,35).

Cùng với việc sai các môn đệ  đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật  (Mt 28,19-20), Chúa đã sai các ông sống  với nhau ”để thế gian tin” rằng Đức  Giê-su là Đấng được Chúa  Cha sai đến và để chúng ta hoàn toàn  tin tưởng vào Người (Ga 17,21). Dấu  chỉ của tình huynh đệ là điều  rất hệ trọng, vì là dấu chỉ cho thấy  nguồn gốc siêu nhiên của sứ điệp  Ki-tô giáo, và có năng lực mở  lòng đón nhận đức tin. Vì thế,  ”hiệu quả của đời tu tuỳ thuộc  vào phẩm chất của đời sống huynh  đệ cộng đoàn” (69).

  1. Một cộng đoàn tu trì, tuỳ mức độ cổ võ đời sống huynh đệ trong các phần tử của mình, là sự  thể hiện một cách liên tục và rõ  ràng ”dấu chỉ” này, dấu chỉ mà Giáo  Hội cần nhất trong nhiệm vụ tái Phúc Âm hoá của mình.

Cũng vì lý do đó, Giáo Hội tin tưởng  vào đời sống huynh đệ của các  cộng đoàn tu trì : tình huynh đệ càng  thắm thiết thì sự tin tưởng vào  sứ điệp mà Giáo Hội công bố  càng gia tăng, và trung tâm của mầu  nhiệm Giáo Hội, bí tích hiệp nhất  nhân loại với Thiên Chúa và hiệp  nhất các phần tử với nhau, càng  hiện rõ hơn (70). Đời sống  huynh đệ không phải là ”bổ túc”  cho sứ vụ của cộng đoàn tu trì,  nhưng là một yếu tố nòng cốt. Đời  sống huynh đệ cũng quan trọng như đời  sống tông đồ.

Vì thế, không thể viện lẽ những  nhu cầu của việc phục vụ tông đồ  để chấp nhận hay biện minh cho sự  khiếm khuyết đời sống cộng đoàn.  Hoạt động của tu sĩ phải là hoạt  động của người sống trong cộng  đoàn, và chu toàn hoạt động đó  với tinh thần của cộng đoàn bằng  lời nói, hành động và gương  sáng.

Trong những trường hợp đặc  biệt, chúng ta sẽ xem xét sau, có thể  cần có những điều chỉnh, nhưng  không được cho phép một tu sĩ  sống ngoài sự hiệp thông và tinh  thần của cộng đoàn mình.

  1. Khi ý thức trách nhiệm của mình đối với tình huynh đệ rộng lớn trong Giáo Hội, các cộng đoàn  tu sĩ cũng trở nên dấu chỉ về  khả năng sống tình huynh đệ Ki-tô  giáo và về cái giá phải trả để  xây dựng bất cứ hình thức  đời sống huynh đệ nào.

Hơn nữa, trong bối cảnh những xã  hội khác nhau trên hành tinh chúng ta - bị  xâu xé bởi những thế lực  phân rẽ do đam mê và xung đột quyền  lợi, khao khát hiệp nhất nhưng không  biết đường nào chắc chắn để  theo - sự hiện diện của các cộng  đoàn có những con người khác  nhau về tuổi tác, ngôn ngữ và văn  hoá, gặp gỡ nhau như anh chị em, mà  vẫn hiệp nhất mặc dù có những  xung khắc không thể tránh được,  cũng như những khó khăn cố hữu  trong đời sống chung, tự nó là  một dấu chỉ làm chứng cho một thực  tại cao hơn và cho thấy những khát  vọng cao hơn :

“Nhờ đời sống loan báo niềm vui  và các giá trị siêu nhiên cũng  như tự nhiên của tình huynh đệ  Ki-tô giáo, các cộng đoàn tu trì  công bố cho xã hội chúng ta thấy  sức mạnh biến đổi của Tin Mừng”  (71).

“Trên hết mọi đức tính, anh em phải  có lòng bác ái, đó là mối dây tuyệt hảo liên kết anh em” (Cl 3,12), đó  là tình bác ái Đức Giê-su đã  dạy, đã sống và đã truyền đạt  cho chúng ta nhờ Thánh Thần. Tình yêu  hiệp nhất này cũng là tình yêu khiến  chúng ta trải rộng tới người  khác kinh nghiệm hiệp thông với Thiên  Chúa và với nhau. Nói cách khác,  tình yêu này tạo nên những vị  tông đồ bằng cách thúc đẩy các  cộng đoàn trên nẻo đường  sứ vụ, dù đó là việc chiêm  niệm, loan truyền Lời Chúa hay làm việc  từ thiện. Thiên Chúa muốn làm cho  trần gian tràn ngập tình yêu của Người  ; bởi thế, các cộng đoàn huynh đệ  trở nên những người thừa  sai của tình yêu này, và trở thành  những dấu chỉ ngôn sứ cho sức  mạnh hiệp nhất của tình yêu ấy.

  1. Phẩm chất đời sống huynh đệ có ảnh hưởng quan trọng đối với sự bền chí của cá nhân tu sĩ.  Phẩm chất nghèo nàn của đời  sống huynh đệ vẫn thường được  coi là lý do để bỏ đời tu thế  nào, thì sống sung mãn tình huynh đệ  thường và vẫn là một sự  nâng đỡ quý giá cho sự kiên  trì của nhiều người như thế.

Trong một cộng đoàn huynh đệ chân  chính, mỗi phần tử đều phải có  tinh thần đồng trách nhiệm đối với  sự trung thành của những người  khác. Mỗi người đóng góp cho  bầu khí thanh bình của đời sống  chia sẻ, của sự hiểu biết và sự  trợ giúp hỗ tương, mỗi người  lưu tâm đến những lúc chán nản,  đau khổ, cô đơn hay những lúc  thiếu sự động viên nơi những  người khác ; mỗi người sẵn  sàng nâng đỡ những ai bị buồn  sầu vì những khó khăn và thử  thách.

Như vậy, các cộng đoàn tu trì, khi  nâng đỡ sự bền chí của các  phần tử, cũng có giá trị là  dấu chỉ của lòng thành tín vĩnh tồn  nơi Thiên Chúa, và như vậy, trở  nên cột trụ chống đỡ đức  tin và sự trung tín của các Ki-tô  hữu đang bị nhận chìm giữa bao  biến cố cuộc đời, nơi các nẻo  đường thành tín xem ra càng ngày  càng bị lãng quên.

CHƯƠNG III : CỘNG ĐOÀN TU TRÌ, ĐỊA ĐIỂM VÀ CHỦ THỂ THI HÀNH  SỨ VỤ

  1. Như Thánh Thần xức dầu cho Giáo Hội trong phòng Tiệc Ly để sai Giáo Hội đi rao giảng Tin Mừng khắp thế  giới, thì mỗi cộng đoàn tu trì,  như là một cộng đoàn thần khí  đích thực của Đấng Phục Sinh,  cũng là cộng đoàn tông đồ theo  đúng bản chất của mình.

Thực vậy, ”hiệp thông phát sinh hiệp  thông : tự bản chất sự hiệp  thông được liên kết với sứ  vụ nhân danh sự hiệp thông ... Hiệp  thông và sứ vụ liên kết chặt  chẽ với nhau, cả hai thấm nhập và  bao hàm lẫn nhau, đến nỗi sự hiệp  thông tượng trưng cho cả nguồn mạch  và kết quả của sứ vụ : hiệp  thông làm phát sinh sứ vụ và sứ  vụ được hoàn thành nhờ hiệp thông” (72).

Không có một cộng đoàn tu trì nào,  ngay cả những cộng đoàn chuyên chiêm  niệm, được co cụm lại chính mình.

Đúng hơn, cộng đoàn là loan báo,  phục vụ (diakonia), và là chứng  tá ngôn sứ. Đấng Phục Sinh, đang  sống trong cộng đoàn, đang thông ban Thần  Khí của Người cho cộng đoàn, đã  làm cho cộng đoàn trở thành chứng  nhân của sự phục sinh.

Cộng đoàn tu trì và sứ vụ

Trước khi suy tư về một vài hoàn  cảnh đặc biệt mà, để trung thành  với sứ vụ chuyên biệt của mình,  một cộng đoàn tu trì ngày nay phải  đương đầu trong những hoàn cảnh  khác nhau trên khắp thế giới, thật  là hữu ích cho chúng ta khi tìm hiểu  ở đây mối tương quan đặc biệt  giữa những loại cộng đoàn tu  trì khác nhau và sứ vụ họ được  kêu gọi để thi hành.

  1. a. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã tuyên bố : ”Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người  của họ, thực sự biểu dương  Đức Ki-tô ngày một hoàn hảo  hơn cho các tín hữu cũng như cho lương  dân, biểu dương Chúa Ki-tô đang cầu  nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước  Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa  lành những kẻ đau yếu tật nguyền,  hay hoán cải các tội nhân trở lại  đời sống phong phú, hoặc đang chúc  phúc cho các trẻ em, ban ơn lành cho mọi  người và luôn luôn vâng phục  thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người  đến” (73).

Do tham dự vào những khía cạnh khác  nhau của sứ vụ Đức Ki-tô, Thánh  Thần làm phát sinh những dòng tu khác  nhau, xác định đặc tính của họ  bằng những sứ vụ khác nhau, và  do đó, bằng những loại cộng đoàn  khác nhau.

  1. Kiểu mẫu cộng đoàn chiệm niệm (biểu dương Đức Ki-tô trên núi) thì tập trung vào sự hiệp thông hai  chiều với Thiên Chúa và với  các phần tử trong cộng đoàn. Kiểu  mẫu này có ảnh hưởng tông đồ  hữu hiệu nhất, mặc dù vẫn còn  khoảng cách giấu ẩn lớn trong mầu  nhiệm. Cộng đoàn tu trì ”tông đồ”  (biểu dương Đức Ki-tô ở giữa  dân chúng) được thánh hiến để  phục vụ tha nhân một cách sống động,  một công việc phục vụ chuyên biệt  phát xuất từ đoàn sủng riêng  biệt.

Trong số ”những cộng đoàn tông đồ”,  một số cộng đoàn nhấn mạnh nhiều  vào đời sống chung đến nỗi sứ  vụ tông đồ của họ tuỳ thuộc  vào khả năng hình thành cộng đoàn.  Những cộng đoàn khác thì quyết  định hướng về sứ vụ, và  đối với họ, kiểu mẫu cộng đoàn  tuỳ thuộc vào loại hình sứ vụ.  Các hội dòng rõ ràng được  tổ chức theo những hình thức đặc  biệt của công việc tông đồ thì  nhấn mạnh đến sự ưu tiên của  toàn thể gia đình tu trì, xét như là  một thân thể mang tính tông đồ, và  một cộng đoàn rộng lớn được  Thánh Thần trao ban sứ vụ phải thi hành  trong Giáo Hội. Sự hiệp thông làm  sống động và quy tụ đại gia đình  lại được sống một cách cụ  thể trong những cộng đoàn nhỏ ở  địa phương, là những cộng đoàn  được giao phó thi hành sứ vụ  tuỳ theo những nhu cầu khác nhau.

Như vậy, đã có những loại cộng  đoàn tu trì khác nhau lưu truyền qua nhiều  thế kỷ, chẳng hạn như các đan viện,  tu viện, và các cộng đoàn hoạt động  hay ”phục vụ” (diaconal).

Do đó ”đời sống chung trong cộng đoàn”  không có cùng một ý nghĩa đối  với tất cả mọi tu sĩ. Các đan  sĩ, các tu sĩ và các phần tử  sống đời hoạt động duy trì những  khác biệt hợp pháp trong cách hiểu  và sống cộng đoàn tu trì.

Sự khác biệt này được trình  bày trong hiến pháp của các hội dòng,  hiến pháp phác hoạ đặc tính của  hội dòng, và hậu nhiên phác hoạ  đặc tính của cộng đoàn.

  1. Nói chung, đặc biệt đối với những cộng đoàn tu trì chuyên hoạt động tông đồ, người ta thấy,  theo kinh nghiệm hằng ngày, có đôi chút  khó khăn khi phải hoà hợp những  đòi hỏi của đời sống cộng  đoàn với công việc tông đồ.  Nếu có nguy cơ đối nghịch giữa  hai khía cạnh này thì cũng sẽ có  khó khăn khi phải hoà hợp chúng  lại với nhau. Đây cũng là một  chiều hướng ích lợi cho đời  tu là đời sống nhằm vun trồng đồng  thời cả lối sống của người  môn đệ>, phải sống với Đức  Giê-su và với đám đông đi  theo Người, và lối sống của người  tông đồ, phải tham gia vào sứ  vụ của Chúa.
  2. Trong những năm gần đây, nhu cầu tông đồ rất đa dạng thường đưa đến việc cùng tồn tại trong  một hội dòng những cộng đoàn  khác biệt nhau đáng kể, những cộng  đoàn lớn và có cơ cấu chặt  chẽ hơn hiện hữu bên cạnh cộng  đoàn nhỏ hơn, linh động hơn, nhưng  vẫn không đánh mất đi tính chất  cộng đoàn đích thực của đời  tu.

Tất cả những điều này xem ra ảnh  hưởng lớn đối với đời  sống và bản chất của hội dòng,  mà ngày nay không còn chặt chẽ như  ngày xưa, nhưng đa dạng hơn và có  nhiều cách khác nhau để sống cộng  đoàn tu trì.

đ. Trong một vài hội dòng, khuynh hướng  nhấn mạnh đến sứ vụ hơn là  cộng đoàn, và khuynh hướng cổ  võ sự khác biệt hơn là sự  hiệp nhất, đã tác động sâu xa  đến đời sống huynh đệ trong cộng  đoàn, đến nỗi đôi khi trở  thành một điều nhiệm ý hơn là  một thành phần toàn vẹn của đời  tu.

Hệ quả của điều này chắc chắn  không có tính cách tích cực ; những  hệ quả ấy khiến chúng ta đặt ra  những câu hỏi nghiêm chỉnh là không  biết có thích hợp để tiếp tục  đi theo chiều hướng này không, và  gợi ra yêu cầu phải xây dựng  một đường lối tái khám phá  sự liên kết mật thiết giữa cộng  đoàn và sứ vụ, để vượt  qua một cách sáng tạo những khuynh hướng  đơn phương bao giờ cũng làm cạn  kiệt thực tại phong phú của đời  tu.

 Trong Giáo Hội địa phương

  1. Sự hiện diện có tính truyền giáo của một cộng đoàn tu trì được phát triển trong khung cảnh của một Giáo  Hội địa phương. Các phần tử  của cộng đoàn đem lại cho Giáo Hội  đó sự phong phú của đời thánh  hiến, của tình huynh đệ và đoàn  sủng của mình.

Nguyên bằng sự hiện diện của mình,  một cộng đoàn tu trì không chỉ mang  trong mình sự phong phú của đời  sống Ki-tô hữu mà thôi, nhưng vì  là một đơn vị, cộng đoàn làm  thành lời loan báo sứ điệp Ki-tô  giáo cách đặc biệt hiệu nghiệm.  Có thể nói đó là một lời  rao giảng sống động và liên tục.  Điều kiện khách quan này rõ rệt  buộc chính các tu sĩ phải chịu trách  nhiệm, trong khi kêu gọi họ trung thành với  sứ vụ ưu tiên này, trong khi sửa  sai và loại trừ những gì có thể  làm suy yếu sức lôi cuốn nơi gương  sáng của họ, làm cho sự hiện diện  của họ nơi Giáo Hội địa phương  dễ nhận ra và quý giá hơn bất cứ  một thẩm định nào khác.

Vì đức ái là đoàn sủng lớn  nhất (x. 1 Cr 13,13), nên một cộng đoàn  tu trì làm phong phú cho Giáo Hội mà  mình là thành phần sống động, trước  hết bằng lòng mến của mình. Cộng  đoàn tu trì yêu mến Giáo Hội phổ  quát và Giáo Hội địa phương nơi  cộng đoàn tháp nhập, vì chính trong  Giáo Hội và như Giáo Hội mà cộng  đoàn gắn bó với sự hiệp  thông của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh,  nguồn mạch mọi sự lành. Trong cách  này, cộng đoàn đặc biệt biểu  lộ chính bản chất của Giáo Hội.

Một cộng đoàn tu trì yêu mến Giáo  Hội địa phương, sẽ làm phong phú  cho Giáo Hội đó bằng đoàn sủng  của mình và mở ra cho Giáo Hội đó  một chiều kích phổ quát hơn. Văn  kiện Những liên hệ hỗ tương  (Mutuae Relationes) đã đề cập đến  mối tương quan tinh tế giữa những  nhu cầu mục vụ của Giáo Hội địa  phương với tính chất riêng biệt  trong đoàn sủng của cộng đoàn tu  trì. Thêm vào những chiều kích thần  học và mục vụ, văn kiện này đã  góp phần quan trọng cho sự cộng tác  thân thiện và mật thiết hơn. Thời  gian đã đưa đến một cách nhìn  khác về văn kiện, nhằm đi đến  bước đột phá mới cho tinh thần  hiệp thông đích thực giữa cộng  đoàn tu trì và Giáo Hội địa phương.

Những khó khăn đang gia tăng và việc  thiếu nhân sự trong hoạt động sứ  vụ cám dỗ cả cộng đoàn tu trì  và Giáo Hội địa phương rơi vào  tình trạng cô lập nào đó, dĩ  nhiên điều này không cải thiện sự  hiểu biết và hợp tác hỗ tương  chút nào.

Cộng đoàn tu trì có nguy cơ là một  đàng hiện diện ở địa phương  mà không gắn bó với đời  sống hoặc chương trình mục vụ của  Giáo Hội đó, đàng khác chỉ giản  lược vào các phận sự mục  vụ mà thôi. Ngoài ra, nếu đời  sống tu trì càng ngày càng có khuynh  hướng nhấn mạnh đến căn tính  đoàn sủng riêng, thì Giáo Hội địa  phương thường ép buộc và đòi  hỏi năng lực của các tu sĩ trong  những hoạt động mục vụ của  giáo phận hay giáo xứ. Những chỉ  dẫn mà <%3>văn kiện ”Những liên  hệ hỗ tương” đưa ra, giúp cộng  đoàn tu trì khỏi tách rời hay  đứng độc lập trong tương quan với  Giáo Hội địa phương, và khỏi  đồng hoá trong thực tiễn với  Giáo Hội địa phương.

Một cộng đoàn tu trì không thể hoạt  động độc lập với Giáo Hội  địa phương, hay thay thế Giáo Hội  địa phương hoặc là ít nhiều chống  lại những chỉ thị và chương trình  mục vụ của Giáo Hội địa phương.  Tương tự như vậy, Giáo Hội địa  phương cũng không thể theo những sở  thích và những nhu cầu riêng mà áp  đặt quyết định của mình đối  với cộng đoàn tu trì hay bất cứ  phần tử nào của cộng đoàn đó.

Điều quan trọng cần nhắc lại là  thiếu hiểu biết đúng đắn về  đoàn sủng của cộng đoàn tu trì  sẽ không thể phục vụ cho thiện ích  của Giáo Hội địa phương cũng  như cho ích lợi của chính cộng đoàn  tu trì. Chỉ khi nào một cộng đoàn  tu trì xác định rõ rệt căn tính  đoàn sủng của mình, khi ấy cộng đoàn  mới có thể tự hội nhập vào  ”chương trình mục vụ tổng quát” mà  không đánh mất đặc tính riêng  của mình. Thực vậy, chỉ với đường  hướng đó, cộng đoàn mới  có thể làm cho những chương trình  mục vụ thêm phong phú với ân điển  của mình.

Chúng ta không nên quên rằng, mọi đoàn  sủng phát sinh trong Giáo Hội và cho thế  giới, và sự liên kết với  nguồn mạch và mục đích của đoàn  sủng đó, cần phải được đổi  mới thường xuyên ; mỗi đoàn  sủng sống động tuỳ theo mức độ  người ta trung thành với đoàn  sủng ấy.

Giáo Hội và thế giới là khung cảnh  để giải thích, đòi hỏi, và thúc  đẩy đoàn sủng tiếp tục phát  triển tương xứng và sống động.  Đoàn sủng và Giáo Hội địa phương  không được xung khắc với nhau,  nhưng đúng hơn, phải nâng đỡ  và hoàn thiện lẫn nhau, đặc biệt  vì ngày nay đang phát sinh nhiều vấn đề  liên quan đến việc sống đoàn sủng  và hội nhập đoàn sủng vào những  hoàn cảnh thay đổi.

Nguồn gốc của nhiều hiểu lầm có  lẽ là sự hiểu biết lẫn nhau một  cách phiến diện hoặc là về phía  Giáo Hội địa phương, hoặc là  về phía đời sống tu trì, và về  phía trách nhiệm của giám mục đối  với đời tu.

Chúng tôi tha thiết xin tất cả các chủng  viện giáo phận đưa vào chương  trình học thần học cả những môn  đặc biệt về thần học đời  sống thánh hiến, nghiên cứu về khía  cạnh tín lý, luật pháp, và mục vụ  của đời sống đó nữa ; về  phía tu sĩ, họ cũng phải được  đào tạo thích đáng về thần học  Giáo Hội phương (74).

Tuy nhiên, trên hết, một cộng đoàn  tu trì thực sự sống huynh đệ cảm  thấy có trách nhiệm làm lan toả bầu  khí hiệp thông, bầu khí làm cho toàn  thể cộng đoàn Ki-tô hữu trở  thành ”gia đình con cái của Thiên Chúa”.

  1. Giáo xứ

Trong các giáo xứ, đôi khi có thể  có khó khăn trong việc hoà hợp đời  sống giáo xứ và đời sống  cộng đoàn. Trong một vài vùng, những  khó khăn sống cộng đoàn đang khi  hoạt động mục vụ tại giáo xứ  đã gây ra những căng thẳng đáng  kể đối với các linh mục - tu sĩ.  Thỉnh thoảng, những ràng buộc nặng  nề của công việc mục vụ trong giáo  xứ đã làm phương hại đến  đoàn sủng của hội dòng và đời  sống cộng đoàn đến nỗi các vị  quản xứ, hàng giáo sĩ triều và  ngay cả chính các tu sĩ cũng không nhận  rõ được bản chất riêng biệt  của đời tu.

Những nhu cầu mục vụ khẩn thiết  không bao giờ được làm cho chúng  ta quên rằng sự phục vụ tốt nhất  mà một cộng đoàn tu trì có thể  đem lại cho Giáo Hội là trung thành với  đoàn sủng của mình. Điều này  cũng được phản ánh trong việc  lãnh nhận trách nhiệm điều hành  các giáo xứ. Phải dành ưu tiên  cho những giáo xứ giúp cộng đoàn  sống như là một cộng đoàn, và  ở đó các tu sĩ có thể biểu  lộ đoàn sủng của mình.

Các cộng đoàn nữ tu cũng gặp  phải những khó khăn tương tự,  khi thường xuyên được yêu  cầu dấn thân trực tiếp hơn cho công  việc mục vụ của giáo xứ.

Ở đây cũng cần nhắc lại rằng,  cộng đoàn càng hiện diện theo đoàn  sủng của mình thì sự hiện diện  của cộng đoàn càng đem lại nhiều  hoa trái (75). Tất cả những điều  này có thể là lợi điểm lớn  lao cho cả cộng đoàn tu trì lẫn công  việc mục vụ là công việc mà các  nữ tu thường được đón  nhận nồng hậu và được đánh  giá cao.

  1. Các phong trào Giáo Hội

Các phong trào Giáo Hội, hiểu theo nghĩa  rộng nhất của từ này, với tinh  thần sống động và sinh lực tông  đồ, đã thu hút sự chú tâm  của một số tu sĩ dấn thân trong các  phong trào đó, đôi khi rút ra được  kết quả là sự canh tân tinh thần,  sự cống hiến cho việc tông đồ,  và tái thức tỉnh ơn gọi của họ.  Tuy nhiên, một đôi khi sự dấn thân  như thế cũng gây ra những phân rẽ  trong cộng đoàn tu trì.

Do đó cần để ý tới những  nhận xét sau đây :

  1. Một vài phong trào chỉ là những phong trào canh tân, những phong trào khác lại có những dự phóng tông đồ  có thể không tương hợp với  dự phóng của cộng đoàn.

Cũng thế, về phía những người  tận hiến, có những mức độ  dấn thân khác nhau : một vài người  tham dự với tư cách là khán giả  ; những người khác thỉnh thoảng  tham dự ; còn những người khác  nữa là thành viên thường trực  trong khi vẫn giữ sự hoà hợp  hoàn toàn với cộng đoàn và linh  đạo của mình. Tuy nhiên, việc các  thành viên chủ chốt đang hoạt động  trong đoàn thể và việc những người  sống xa cách hội dòng của mình về  phương diện tâm lý, lại trở thành  vấn đề. Họ sống trong tình trạng  bị phân tâm : cư ngụ trong cộng đoàn,  nhưng sống theo những chương trình mục  vụ và theo những nguyên tắc của  phong trào.

Do đó cần phải cẩn thận phân biệt  phong trào này với phong trào khác, và  phân biệt những hình thức dấn  thân khác nhau về phía cá nhân người tu sĩ.

  1. Các phong trào này có thể là một thách đố hữu ích đối với cộng đoàn tu sĩ, với năng  động lực thiêng liêng của cộng  đoàn, phẩm chất đời sống cầu  nguyện của cộng đoàn, sự tương  hợp trong các sáng kiến tông đồ  của cộng đoàn, sự trung tín với  Giáo Hội, cường độ của đời  sống huynh đệ. Một cộng đoàn tu trì  nên cởi mở để gặp gỡ  các phong trào này, bằng cách tỏ ra  thái độ hiểu biết, đối thoại  và trao đổi ân điển với nhau.

Một truyền thống thiêng liêng lớn  lao, truyền thống khổ hạnh và thần bí  của đời sống tu trì và của các  hội dòng cũng có thể có ích cho  những phong trào trẻ trung này.

  1. Khó khăn chính đối với các phong trào này là căn tính của cá nhân những người tận hiến : nếu  căn tính này vững chắc thì mối  tương quan có thể đem lại thành công  cho cả đôi bên.

Đối với những tu sĩ có vẻ  như sống trong và cho phong trào nhiều hơn  là trong và cho cộng đoàn tu trì của  mình, thì nên nhớ lại khẳng định  trong ”Những chỉ dẫn về việc huấn  luyện trong các hội dòng” : ”Một hội  dòng có những mối liên kết nội  tại do bản chất, mục đích, tinh thần,  đặc tính và truyền thống của mình.  Toàn bộ di sản này là trục duy trì  sự hiệp nhất của chính hội dòng  lẫn sự hiệp nhất đời sống  của mỗi phần tử. Đây là hồng  ân Thánh Thần ban cho Giáo Hội, và không  chấp nhận bất kỳ sự can thiệp hay  một sự pha trộn nào. Đối thoại  và chia sẻ trong Giáo Hội giả thiết  rằng mỗi hội dòng phải ý thức  rõ bản chất của mình.

“Các ứng viên bước vào đời  sống tu trì ... tự đặt mình ... dưới  thẩm quyền của bề trên hội dòng.  Họ không thể đồng thời phụ thuộc  vào một người nào khác ngoài  hội dòng.

“Những đòi hỏi này vẫn còn sau  khi tu sĩ đã tuyên khấn, để sự  trung thành khỏi bị phân rẽ vừa  ở phương diện đời sống thiêng  liêng của cá nhân lẫn ở phương  diện sứ vụ của họ” (76).

Tham gia một phong trào có thể có lợi  ích tích cực cho tu sĩ nếu việc tham  gia đó giúp tăng cường chân tính  riêng biệt của họ.

Một vài trường hợp đặc biệt

  1. Hoà mình với người nghèo

Vì đồng hành với nhiều anh chị  em khác trong đức tin, các cộng đoàn  tu trì ở trong số những người  đầu tiên quan tâm đến sự khó  nghèo vật chất và tinh thần của thời  đại mình, theo những cách thức  thường xuyên được canh tân.

Trong những năm gần đây, sự khó  nghèo là một vấn đề đã thu hút  hết tâm trí của các tu sĩ và tác  động đến tâm hồn họ. Đời  sống tu trì đã thật sự đối  diện với vấn đề làm thế nào  để công việc truyền bá Phúc Âm  cho người nghèo (evangelizare pauperibus)  được hữu hiệu. Nhưng người  tu sĩ cũng muốn được Phúc Âm  hoá nhờ tiếp xúc với thế giới  người nghèo (evangelizari a pauperibus).

Trong cuộc động viên to lớn này,  các tu sĩ đã chọn làm chương trình  cho mình : ”Mọi người vì người  nghèo”, ”đa số sống với người  nghèo”, ”nên giống người nghèo” ;  một vài thành tựu trong lĩnh vực  ”nên giống người nghèo” đáng  được quan tâm đặc biệt.

Đứng trước cái nghèo của  đa số quần chúng, đặc biệt trong  những khu vực bị bỏ rơi hoặc  bị loại ra bên lề nơi những thành  phố lớn, và trong những vùng quê  bị lãng quên, ”sự hoà mình của  các cộng đoàn tu trì” nổi bật như  một trong những cách diễn tả sự  chọn lựa ưu tiên và lựa chọn  Tin Mừng liên đới với người  nghèo. Các cộng đoàn này muốn đồng  hành với người nghèo trong tiến  trình giải phóng toàn diện, nhưng đó  cũng là thành quả của ước vọng  muốn khám phá Đức Ki-tô nghèo  khổ trong những anh chị em sống bên lề,  để phục vụ Người và trở  nên đồng hình dạng với Người.

  1. ”Hoà mình”, xét như lý tưởng của đời sống tu trì, đã phát triển trong bối cảnh đức tin và tình  liên đới thúc đẩy các cộng  đoàn tu trì đến với những  người nghèo nhất.

Đó là một thực tại không thể  không khơi dậy lòng ngưỡng mộ  đối với sự tận tuỵ bản thân  và những hy sinh to lớn ; khơi dậy  lòng yêu thương người nghèo ;  khơi dậy lòng yêu thương khiến người  ta chia sẻ cái nghèo thực sự khắc  nghiệt của họ ; khơi dậy nỗ lực  làm cho Tin Mừng hiện diện trong những  khu vực dân cư không còn hy vọng,  mang Lời Thiên Chúa đến gần họ  hơn, và làm cho họ cảm nhận được  họ là thành phần sống động của  Giáo Hội (77). Những cộng đoàn  này thường sống trong những vùng  ghi đậm dấu ấn bạo lực gây ra  bất ổn, và đôi khi bị ngược  đãi đến mức đời sống  thật sự bị nguy hiểm. Lòng can đảm  lớn lao của họ là bằng chứng  rõ ràng cho niềm hy vọng mọi người  có thể sống với nhau như anh chị  em, bất chấp mọi tình huống đau khổ  và bất công.

Thường được gởi tới  những lãnh vực sứ vụ biên  cương, đôi khi là chứng tá cho  tính sáng tạo tông đồ của vị  sáng lập, các cộng đoàn như thế  phải cố gắng tin tưởng vào thiện  chí và lời cầu nguyện huynh đệ  của các phần tử trong hội dòng của  họ và vào sự quan tâm đặc biệt  của các bề trên (78).

  1. Không nên bỏ mặc các cộng đoàn tu trì này một mình. Họ cần được giúp đỡ để sống đời sống  cộng đoàn. Điều này đòi hỏi  phải có những khoảng khắc dành cho  việc cầu nguyện và có những trao  đổi huynh đệ, nhằm bảo đảm rằng  tính độc đáo trong đoàn sủng của  hội dòng không có vẻ tương đối  ít quan trọng hơn công việc phục vụ  người nghèo đồng đều, và  để chứng tá Phúc Âm của họ  không bị che khuất bởi những  giải thích và sự lợi dụng của  người trong nhóm (79).

Các bề trên nên thận trọng trong việc  tuyển chọn các phần tử thích hợp  và chuẩn bị các cộng đoàn như  thế làm sao để bảo đảm sự  liên kết với các cộng đoàn khác  trong hội dòng, nhờ đó giữ được  tính liên tục.  c. Chúng ta cũng nên tán thưởng  những cố gắng của các cộng đoàn  tu trì khác đang dấn thân hữu hiệu  cho người nghèo, dù là theo những  đường lối truyền thống, hay những  đường lối mới phù hợp  hơn với những hình thức khó  nghèo mới, hoặc bằng cách khơi dậy  ý thức (về vấn đề người  nghèo) nơi mọi cấp bậc xã hội -  như vậy là làm phát sinh sự dấn  thân hoạt động xã hội và chính  trị, những dự án bác ái và  việc phục vụ tự nguyện giữa  các ơn gọi giáo dân.

Tất cả các điều đó chứng  tỏ rằng đức tin đang sống động  trong Giáo Hội, tình yêu của Đức  Ki-tô đang hoạt động và hiện diện  giữa những người nghèo : ”Mỗi  lần các ngươi làm như thế cho một  trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta  đây, là các ngươi đã làm  cho chính Ta vậy” (x. Mt 25,40).

Ở đâu sự hoà mình giữa  người nghèo đã trở nên một  kinh nghiệm về Thiên Chúa cho cả người  nghèo lẫn cộng đoàn tu trì, thì nơi  đó thực sự có kinh nghiệm để  khẳng định rằng người nghèo được  rao giảng Phúc Âm và người nghèo  rao giảng Phúc Âm.

 

  1. Các cộng đoàn nhỏ
  2. Các nhân tố xã hội khác cũng ảnh hưởng đến các cộng đoàn. Trong một vài vùng phát triển về kinh  tế, Chính quyền tỏ ra tích cực hơn  trong một số lãnh vực như giáo dục,  sức khoẻ và các dịch vụ xã  hội, thường để lại rất ít  hoặc không để lại chỗ trống nào  cho các tác nhân khác, như các cộng  đoàn tu trì chẳng hạn. Mặt khác,  vì sự giảm sút về số lượng  các nam nữ tu sĩ, và ở nơi này  hay nơi khác, một hiểu biết giới  hạn về sự hiện diện của người  Công Giáo trong các hoạt động xã  hội, được coi là có tính cách  bổ túc hơn là một biểu hiện đích  thực của tinh thần bác ái Ki-tô  giáo, đã gây khó khăn cho việc thực  hiện các dự phóng phức tạp.

Vì vậy, trong một vài miền, người  ta đã dần dần bỏ các hoạt động  truyền thống - trong nhiều năm vẫn do các  cộng đoàn vững mạnh và đồng  nhất đảm nhận - và nơi các cộng  đoàn nhỏ lại gia tăng những loại  dịch vụ mới, thường không phù  hợp với đoàn sủng của hội  dòng.

  1. Những cộng đoàn nhỏ hơn cũng đã thường trở nên như là kết quả của việc một số hội dòng  chọn lựa kỹ lưỡng nhằm cổ  võ sự hiệp nhất và cộng tác  huynh đệ qua những mối liên hệ gần  gũi hơn giữa các cá nhân, qua việc  chia sẻ trách nhiệm hỗ tương và dựa  trên căn bản rộng rãi hơn.

Những cộng đoàn như thế, đã  được nói đến trong tông huấn  Chứng tá Phúc Âm (80) chắc  chắn là có thể hiện hữu, mặc  dù tỏ ra đòi hỏi các phần tử  nhiều hơn.

  1. Những cộng đoàn nhỏ, thường tiếp xúc gần gũi với cuộc sống và các vấn đề hằng ngày của  con người, nhưng cũng bị ảnh hưởng  nhiều bởi não trạng thế tục, có  trách nhiệm quan trọng là phải trở  nên những nơi chốn hữu hình của  một tình huynh đệ hạnh phúc, của  sự cần cù quảng đại và của  niềm hy vọng siêu việt.

Vì vậy các cộng đoàn này cần  phải có một chương trình sống vững  vàng, linh động và chặt chẽ, và  phải được giới chức trách  có thẩm quyền chấp thuận để việc  tông đồ mang tính cộng đoàn. Chương  trình này phải phù hợp với các  cá nhân cũng như những nhu cầu của  sứ vụ, bằng cách phát triển hài  hoà việc cầu nguyện và hoạt động,  những lúc gần gũi thân mật trong  cộng đoàn và lúc hoạt động tông  đồ. Chương trình đó cũng nên  bao gồm cả những cuộc gặp gỡ  định kỳ với các cộng đoàn  khác trong cùng một hội dòng. Mục đích  chính là nhằm vượt qua nguy cơ bị  cô lập và tách rời khỏi cộng  đoàn lớn hơn của hội dòng.

  1. Cho dù các cộng đoàn nhỏ có thể đem lại những cơ hội thuận lợi, thì bình thường cũng không  nên khuyến khích thiết lập một hội  dòng chỉ gồm những cộng đoàn  nhỏ. Rất cần có những cộng đoàn  lớn hơn. Những cộng đoàn này  có thể cung cấp những trợ giúp  đầy ý nghĩa cho toàn hội dòng lẫn  các cộng đoàn nhỏ hơn, nuôi dưỡng  đời sống cầu nguyện và các việc  cử hành nghi lễ sốt sắng và phong  phú hơn ; là nơi thích hợp để  nghiên cứu và suy tư ; là nơi tĩnh  tâm và nghỉ ngơi cho các thành viên  đang hoạt động trên những biên  cương đầy khó khăn của sứ  vụ rao giảng Phúc Âm.

Bầu khí thân ái và chấp nhận lẫn  nhau sẽ đem lại nhiều kết quả do việc  hỗ tương qua lại giữa hai hình thức  cộng đoàn trên.

Người ta nhận biết những cộng  đoàn đó trước tiên qua tình  yêu thương huynh đệ liên kết các  phần tử, qua cuộc sống giản dị của  họ, qua sứ vụ mà họ đảm trách  với danh nghĩa cộng đoàn, qua việc  trung thành kiên trì với đoàn sủng của họ, qua việc không ngừng truyền  thông ”hương vị ngọt ngào” của Đức  Ki-tô (2 Cr 2,15), để trong những hoàn  cảnh bất thường nhất, họ vẫn  có thể bày tỏ ”con đường bình  an”, thậm chí ngay cả cho những thành  phần bị hoang mang và phân tán của xã  hội tân tiến.

 

  1. Các tu sĩ nam nữ sống một mình

Một trong những thực tại đôi  khi chúng ta gặp phải là tình trạng các  tu sĩ nam hoặc nữ sống một mình. Đời  sống chung trong một nhà của hội dòng  là lối sống chính yếu của đời  tu. ”Các tu sĩ phải sống trong nhà dòng  của mình, tuân thủ nếp sống chung. Họ  không nên sống một mình nếu không  có lý do hệ trọng, và không nên  sống như vậy nếu có một cộng đoàn  của hội dòng ở gần đấy” (81).

Tuy nhiên, có những ngoại lệ cần  được các bề trên lượng  định và cho phép (82) vì lý do  tông đồ nhân danh hội dòng, (chẳng  hạn như những công việc do Giáo Hội  yêu cầu ; những sứ vụ khác thường  ; những vùng xa xôi trong miền truyền  giáo ; sự giảm sút dần dần các  thành viên của cộng đoàn, đến  nỗi chỉ có một tu sĩ duy nhất phụ  trách một trong những công việc của  hội dòng), hoặc vì lý do sức khoẻ  và học hành.

Trong khi trách nhiệm của các bề trên  là phải củng cố liên lạc thường  xuyên với các thành viên sống ngoài  cộng đoàn, thì bổn phận của các  tu sĩ này là phải luôn ý thức  rằng mình thuộc về hội dòng và hiệp  thông với các phần tử của hội  dòng, và tìm mọi phương thế thích  hợp để củng cố mối dây huynh  đệ. Phải hoạch định những thời  kỳ sống huynh đệ thắm thiết, cũng  như những cuộc gặp gỡ thường  xuyên với các tu sĩ bạn nhằm đào  tạo, chia sẻ huynh đệ, duyệt lại đời  sống, và cầu nguyện, để hít thở  bầu khí gia đình. Dù ở đâu  đi nữa, các phần tử của hội  dòng cũng là những người mang  đoàn sủng của gia đình tu trì của  họ.

Tu sĩ sống một mình không bao giờ  là điều lý tưởng. Nguyên tắc  là tu sĩ phải sống trong những cộng  đoàn huynh đệ : mỗi cá nhân được  thánh hiến trong đời sống chung này,  và chính trong lối sống này mà các  tu sĩ nam nữ đảm nhận tác vụ  tông đồ của họ một cách bình  thường ; họ phải trở về đời  sống này, cả tâm hồn lẫn con người,  trong khi vì cần thiết, họ phải sống  cách biệt một thời gian dài hoặc  ngắn.

  1. Những đòi hỏi của công việc tông đồ đặc biệt, chẳng hạn như công việc của giáo phận, đã  khiến nhiều hội dòng khác nhau phải  gởi một trong những phần tử của  mình cộng tác trong đội ngũ liên  hội dòng. Có những kinh nghiệm tích  cực trong đó các tu sĩ cộng tác  trong việc phục vụ một công việc đặc  biệt ở nơi không có cộng đoàn  của hội dòng mình, thay vì sống một  mình, họ lại sống chung một nhà, cầu  nguyện chung với nhau, họp nhau để suy  niệm Lời Chúa, chia sẻ lương thực  và những công việc trong nhà, v.v...  Bao lâu điều này không thay thế việc  sống hiệp thông với hội dòng riêng  của họ, thì ”đời sống cộng đoàn”  loại này có thể thuận lợi cho công  việc và cho chính các tu sĩ.

Tu sĩ nên cẩn thận khi muốn đảm  nhận một công việc mà bình thường  đòi hỏi họ phải sống ngoài cộng  đoàn, và các bề trên cũng nên  khôn ngoan trong việc chỉ định các phần  tử vào những công việc này.

  1. Những đòi hỏi phải chăm sóc cha mẹ già yếu bệnh tật thường kéo theo sự vắng mặt lâu dài khỏi  cộng đoàn, cũng cần phân định  cẩn thận, và có thể đáp ứng  những nhu cầu như thế bằng những  cách sắp xếp khác để con cái không  phải vắng mặt lâu quá.
  2. Cần lưu ý rằng, các tu sĩ sống một mình, không có sự bổ nhiệm hay phép của bề trên, là đang trốn  tránh bổn phận sống chung. Tham dự một  vài cuộc hội họp hay nghi lễ chưa đủ  để là một tu sĩ trọn vẹn. Phải  nỗ lực dẹp bỏ dần dần những  hoàn cảnh không chính đáng và không  thể chấp nhận được như thế  đối với các tu sĩ nam nữ.
  3. Trong mỗi trường hợp, nên nhắc lại rằng, ngay cả khi sống ngoài cộng đoàn, tu sĩ vẫn thuộc quyền  của giám mục trong lãnh vực hoạt  động tông đồ (83), giám mục  phải được thông báo về sự  hiện diện của tu sĩ trong giáo phận của  mình.

đ. Nếu chẳng may có những hội  dòng mà đa số các thành viên không  còn sống trong cộng đoàn nữa, thì  các hội dòng đó không còn được  coi là dòng tu thực sự. Các bề  trên và các tu sĩ được mời  đặc biệt suy tư về hậu quả đáng  buồn này, và từ đó suy nghĩ về  tầm quan trọng trong việc mạnh mẽ phục  hồi việc thực hành đời sống  chung huynh đệ.

  1. Các miền truyền giáo

Đời sống chung huynh đệ có giá  trị đặc biệt trong những miền truyền  giáo (ad gentes), vì tỏ ra cho thế giới,  nhất là thế giới ngoài Ki-tô giáo,  thấy ”tính chất mới mẻ” của Ki-tô  giáo, đó là, đức ái có khả  năng thắng vượt mọi phân rẽ  do chủng tộc, màu da và thị tộc. Nơi  những quốc gia không thể rao giảng Tin  Mừng được, thì các cộng đoàn  tu sĩ gần như là dấu hiệu duy nhất,  là chứng tá thầm lặng và hữu  hiệu của Đức Ki-tô và của Giáo  Hội.

Nhưng nhiều khi rõ ràng chính trong các  khu vực truyền giáo mà các tu sĩ  phải đương đầu với những  khó khăn thực tế đáng lưu tâm  trong việc xây dựng những cộng đoàn  vững chắc và khả thị : những  khoảng cách không gian đòi hỏi phải  có những cộng đoàn đầy năng  động và rải rác trong một phạm vi  rộng ; việc thuộc về những chủng  tộc, thị tộc, nền văn hoá khác  nhau ; nhu cầu cho việc đào tạo trong những  trung tâm liên dòng. Những điều này  và những nhân tố khác có thể  gây trở ngại cho một cộng đoàn  lý tưởng.

Điều quan trọng là các phần tử  của hội dòng ý thức được  tính cách khác thường của hoàn  cảnh, cổ võ thông tin cho nhau thường  xuyên, thúc đẩy những cuộc gặp  gỡ chung đều đặn, và xây dựng  những cộng đoàn huynh đệ có đặc  tính truyền giáo mạnh mẽ càng sớm  càng tốt, nhờ đó các cộng đoàn  có thể là dấu chỉ truyền giáo tuyệt  hảo : ”Xin cho tất cả nên một ..., để  thế gian tin” (Ga 17,21).

  1. Tổ chức lại công việc

Những thay đổi trong các điều kiện  văn hoá và trong Giáo Hội, những  nhân tố nội tại trong việc phát triển  các hội dòng và những thay đổi  về nguồn lực của các hội dòng  có thể đòi phải tổ chức lại  công việc và sự hiện diện của  các cộng đoàn tu trì.

Công việc này, một công việc không  dễ, có những hệ luỵ thực sự  liên quan tới cộng đoàn. Nói chung,  đó là những công việc mà nhiều  anh chị em đã cống hiến những năng  lực tông đồ cao nhất của mình,  và bị ràng buộc bởi những liên  hệ tâm lý và thiêng liêng đặc  biệt.

Tương lai của những công việc này,  ý nghĩa tông đồ và việc tổ chức  lại những công việc đó đòi  hỏi phải nghiên cứu, so sánh và  phân định. Tất cả những chuyện  này có thể trở thành một mái  trường để học tìm kiếm và  tuân theo ý muốn của Thiên Chúa, nhưng  đồng thời cũng có thể là một  dịp gây ra những xung đột đau đớn  không dễ dàng vượt qua.

Những tiêu chuẩn không thể bỏ qua  và chúng soi sáng cộng đoàn khi cần  quyết định, đôi khi phải can đảm  và đau đớn, là : tận tâm bảo  vệ ý nghĩa của đoàn sủng riêng  trong một bối cảnh riêng biệt, quan tâm  duy trì một đời sống huynh đệ  thực sự, và chú trọng tới  những nhu cầu của Giáo Hội địa  phương. Vì thế, một sự đối  thoại tin tưởng và liên tục với  Giáo Hội địa phương quả là thiết  yếu, vì là mối liên kết hữu  hiệu với những người chịu  trách nhiệm về sự hiệp thông giữa  các tu sĩ.

Thêm vào việc chú ý đến những  nhu cầu của Giáo Hội địa phương,  các cộng đoàn tu trì cũng phải quan  tâm đến tất cả những gì mà  thế giới xao lãng - đó là những  hình thức mới của cảnh khó nghèo  và đau khổ dưới nhiều dạng mà  chúng ta gặp thấy ở nhiều nơi khác  nhau trên thế giới.

Việc tổ chức lại sẽ có tính  sáng tạo và là nguồn mạch của những  dấu chỉ ngôn sứ nếu quan tâm loan  báo những cách thức hiện diện  mới - dù chỉ trong một số nhỏ - để  đáp ứng những nhu cầu mới,  đặc biệt là những nhu cầu của  đa số các khu vực bị bỏ rơi và  quên lãng.

  1. Các tu sĩ cao niên

Hiện nay, một trong những tình huống mà  đời sống cộng đoàn thường  gặp phải nhiều, đó là sự gia  tăng tuổi tác nơi các phần tử.  Tuổi tác mang một ý nghĩa đặc biệt  vừa vì số ơn gọi mới giảm  sút, vừa vì những tiến bộ của  y học.  Đối với cộng đoàn, một mặt,  sự kiện này có nghĩa là quan tâm  đến việc chấp nhận và coi trọng  sự hiện diện cũng như việc phục  vụ mà các anh em cao niên đã có  thể cống hiến nơi cộng đoàn, mặt  khác, điều đó cũng có nghĩa là  để ý đến việc cung cấp - một  cách thân tình và phù hợp với  đời sống thánh hiến - những trợ  giúp về mặt tinh thần cũng như vật  chất mà người có tuổi cần đến.

Sự hiện diện của những anh chị  em lớn tuổi trong các cộng đoàn có  thể rất tích cực. Một tu sĩ đã  cao niên mà vẫn không để những  phiền luỵ cũng như những giới  hạn về tuổi tác chế ngự được  mình, nhưng cứ sống vui vẻ, yêu thương  và hy vọng, thì tu sĩ đó lại trở  nên nguồn nâng đỡ quý giá đối  với những người trẻ. Các  tu sĩ cao niên mang lại một chứng tá,  sự khôn ngoan và lời cầu nguyện,  đó là nguồn động viên thường  xuyên cho những người trẻ trong hành  trình tâm linh và tông đồ của họ.  Hơn nữa, người tu sĩ quan tâm đến  những anh em cao niên sẽ đem lại một  sự khả tín có tính cách Tin Mừng  cho hội dòng của mình như là một  ”gia đình đích thực được  quy tụ nhân danh Thiên Chúa” (84).

Những người tận hiến cũng nên  chuẩn bị một thời gian dài trước  để trở nên già cả và để  kéo dài những năm ”hoạt động”  bằng việc học biết cách thức mới  để xây dựng cộng đoàn và  cộng tác vào sứ vụ chung, tích cực  đáp ứng những thách đố của  thời đại mình, nhờ những mối  quan tâm sống động về tinh thần và  văn hoá, bằng lời cầu nguyện, bằng  việc tiếp tục tham gia hoạt động bao  lâu còn có thể phục vụ, cho dù  có bị giới hạn. Các bề trên  cũng nên sắp xếp các khoá học và  những cuộc gặp gỡ để giúp  đỡ việc chuẩn bị cá nhân, kéo  dài và tăng cường sự hiện  diện của các tu sĩ trong vị trí công  tác bình thường của họ càng nhiều  càng tốt.

Đến khi các phần tử cao niên không  còn độc lập được nữa,  hoặc khi họ cần đến sự chăm  sóc đặc biệt, kể cả sự chăm  sóc của người giáo dân, thì hội  dòng nên quan tâm nhiều đến việc  nâng đỡ họ, nhờ đó họ  vẫn cảm thấy mình là một phần trong  đời sống của hội dòng, chia sẻ  sứ vụ của hội dòng, liên đới  trong năng động lực tông đồ của  hội dòng, an ủi họ trong những lúc  cô độc, khích lệ họ khi họ gặp  đau khổ. Họ không bao giờ từ  bỏ sứ vụ, nhưng họ ở tại  chính trung tâm của sứ vụ khi tham dự  vào sứ vụ đó bằng một cách  thức mới mẻ và hiệu quả.

Dù âm thầm, thành quả của họ không  kém gì so với các cộng đoàn năng  động hơn. Các cộng đoàn này nhận  được sức mạnh và hoa trái  nhờ lời cầu nguyện, nhờ những  đau khổ và những việc xem ra có vẻ  ít ảnh hưởng của các anh em cao niên.  Sứ vụ cần cả hai hình thức đó,  và những kết quả sẽ trở nên  rõ ràng khi Chúa đến trong vinh quang cùng  với các thiên thần của Người.

  1. Những vấn đề nảy sinh từ việc gia tăng số tu sĩ cao niên trở nên gay cấn hơn đối với một số  đan viện thiếu ơn gọi. Vì bình thường,  mỗi đan viện là một cộng đoàn  độc lập, nên tự mình khó có  thể vượt qua được những  vấn đề này. Vì thế, nên nhắc  lại tầm quan trọng của những cơ cấu  hiệp thông, như các liên hiệp chẳng  hạn, để khắc phục những hoàn  cảnh rất cần đến nhân sự.

Sự trung tín với đời sống  chiêm niệm đòi hỏi các phần tử  của một đan viện phải hiệp nhất  với một đan viện khác trong cùng  một dòng khi một cộng đoàn đan viện,  vì con số các phần tử, tuổi tác  hoặc thiếu ơn gọi, thấy trước  sự tan rã của cộng đoàn. Cũng  vậy, trong hoàn cảnh đáng buồn của  những cộng đoàn không còn có  thể sống theo ơn gọi riêng của mình,  vì các phần tử bị kiệt sức  dần do công việc hoặc phải săn sóc  những anh em già cả, yếu đau, khi đó  cần phải xin dòng trợ lực, hoặc  phải lựa chọn liên kết hoặc sát  nhập với đan viện khác (85).

  1. Mối tương quan mới đối với giáo dân

Giáo Hội học của Công Đồng đã  chiếu toả ánh sáng vào tính cách  bổ túc của những ơn gọi khác  nhau trong Giáo Hội mà chúng ta được  kêu mời cùng nhau trở nên chứng  tá cho Chúa Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh  và nơi chốn. Sự gặp gỡ và  cộng tác giữa các tu sĩ nam nữ  và tín hữu giáo dân được  coi là một thí dụ về sự hiệp  thông trong Giáo Hội, đồng thời củng  cố các năng lực tông đồ để  Phúc Âm hoá thế giới.

Sự tiếp xúc thích đáng giữa  các giá trị là đặc trưng của  ơn gọi giáo dân, chẳng hạn như một  nhận thức cụ thể hơn về đời  sống con người, văn hoá, chính trị,  kinh tế, v.v..., và những giá trị là  đặc trưng của đời sống tu trì,  như việc theo Chúa Ki-tô cách triệt để,  chiều kích chiêm niệm và cánh chung của  đời sống theo Ki-tô giáo, v.v... có  thể biến thành sự trao đổi các  ân điển một cách hữu ích giữa  người tín hữu giáo dân và  các cộng đoàn tu trì.

Sự cộng tác và trao đổi các  ân điển trở nên chặt chẽ hơn,  khi do ơn gọi và theo cách thức riêng,  các nhóm giáo dân chia sẻ đoàn sủng  và sứ vụ của hội dòng tại trung  tâm của cùng một gia đình thiêng  liêng. Theo cách này, có thể thiết lập  những mối tương quan hữu ích, dựa  trên những liên hệ đồng trách  nhiệm chín chắn, và được hỗ  trợ bởi những chương trình  được hoạch định thường  xuyên để huấn luyện về linh đạo  của hội dòng.

Tuy nhiên, để đạt được mục  tiêu đó, cần phải có : những  cộng đoàn tu trì với căn tính  đoàn sủng rõ rệt, khi đã được  tiếp tục và được sống, có  khả năng chuyển trao và sẵn sàng chia  sẻ cho người khác ; những cộng  đoàn có một nền linh đạo mạnh  mẽ và nhiệt tình truyền giáo để  thông truyền cùng một tinh thần và cùng  một lực đẩy để Phúc Âm hoá  ; những cộng đoàn tu trì biết cách  cổ vũ và khích lệ người giáo  dân chia sẻ đoàn sủng của hội dòng,  theo đặc tính trần thế của họ và  theo lối sống khác biệt của họ, mời  gọi họ khám phá những phương  thức mới để thực thi cùng  một đoàn sủng và cùng một sứ  vụ. Như vậy, một cộng đoàn tu trì trở thành trung tâm chiếu toả, một  sức mạnh thiêng liêng, một trung tâm  của nhiệt tình, của tình huynh đệ  phát sinh tình huynh đệ, và của sự  hiệp thông và cộng tác trong Giáo Hội,  nơi đó những đóng góp khác  nhau của mỗi người giúp xây dựng  Thân Thể Đức Ki-tô, tức là  Giáo Hội.

Dĩ nhiên, sự cộng tác chặt chẽ  phải được thực hiện với  lòng kính trọng ơn gọi của nhau, và  những lối sống khác biệt phù hợp  với người tu trì và phù hợp  với người giáo dân.

Một cộng đoàn tu trì có những  nhu cầu riêng của mình về hứng khởi,  thời biểu, kỷ luật và sự cách  biệt (86), nên không thể chấp nhận  được những hình thức cộng  tác bao hàm việc đồng cư và sống  chung giữa tu sĩ và giáo dân, kể  cả khi những sắp xếp như thế có  định rõ những điều kiện cần  phải được tôn trọng.

Nếu không, một cộng đoàn tu trì sẽ  đánh mất đặc điểm riêng của  mình mà cộng đoàn có trách nhiệm  phải duy trì bằng cách tuân giữ đời  sống chung.

KẾT LUẬN

  1. Cộng đoàn tu trì, xét như là một cách biểu lộ Giáo Hội, là hoa quả của Chúa Thánh Thần, và là  sự tham dự vào sự hiệp thông  của Ba Ngôi. Vì thế, mọi tu sĩ đều  phải cảm thấy mình đồng trách nhiệm  đối với đời sống huynh đệ  cộng đoàn, ngõ hầu bộc lộ việc  họ thuộc về Đức Ki-tô, Đấng  đã chọn và kêu gọi các anh em và  chị em sống với nhau nhân danh Người.

“Hiệu quả của đời sống tu trì  tuỳ thuộc vào phẩm chất của đời  sống huynh đệ cộng đoàn. Hơn nữa,  đặc điểm của phong trào canh tân  trong Giáo Hội và trong đời tu là  tìm kiếm sự hiệp thông và cộng  đoàn” (87).

Đối với một vài tu sĩ và một  vài cộng đoàn, công việc khởi  sự tái xây dựng nếp sống huynh  đệ cộng đoàn có vẻ là một  chuyện chán nản, thậm chí không tưởng.  Đứng trước một số vết thương  trong quá khứ và những khó khăn  trong hiện tại, công việc có vẻ vượt  quá các khả năng của con người  yếu đuối.

Vấn đề là suy tư trong đức tin  về ý nghĩa thần học của đời  sống huynh đệ cộng đoàn, của việc  xác tín rằng chứng tá sự thánh  hiến tuôn trào từ đời sống  đó.

Đức Thánh Cha nói : ”Câu trả lời  cho lời mời gọi cùng với Chúa  kiên trì xây dựng cộng đoàn  mỗi ngày diễn ra trên đường thánh  giá ; câu trả lời này đòi  hỏi phải bỏ mình thường xuyên”  (88).

Hiệp với Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu  Đức Giê-su, các cộng đoàn chúng  ta kêu cầu Chúa Thánh Thần, Đấng  có sức mạnh kiến tạo các cộng  đoàn huynh đệ có khả năng toả  chiếu niềm vui của Tin Mừng và có  thể lôi cuốn những môn sinh mới,  theo gương cộng đoàn tiên khởi  : ”Họ chuyên cần nghe các tông đồ  giảng dạy, siêng năng tham dự lễ  bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2,42), ”Càng  ngày càng có thêm nhiều người  tin theo Chúa : đàn ông đàn bà đông  vô kể” (Cv 5,14).

Nguyện xin Đức Ma-ri-a quy tụ các cộng  đoàn tu trì và trợ giúp họ hằng  ngày nhờ lời cầu khẩn Chúa Thánh  Thần, Đấng là dây liên kết, là  men và là nguồn mạch của mọi sự  hiệp thông huynh đệ.

Ngày 15 tháng 1 năm 1994, Đức Thánh  Cha đã châu phê văn kiện này của  Bộ các hội dòng tận hiến và các  tu đoàn tông đồ, và đã ban phép  công bố.

Rô-ma, ngày 2 tháng 2 năm 1994,

lễ dâng Chúa trong đền thờ

Hồng Y Eduardo Martinez Somalo, Tổng Trưởng

Francisco Javier Errázuriz Ossa, Tổng thư ký

 

 

Phần Chú Thích

 

(1) DT 2.

(2) X. DT 2-4.

(3) X. DT 44d.

(4) X. DT 15a ; GH 44c.

(5) X. LH 11.

(6) GH 12.

(7) X. LH 14.

(8) X. CT 30-39 ; LH 2, 3, 10, 14 ; YT 18-22 ; HL 25-28 ; cũng  xc. GL 602.

(9) X. GL 594, §1.

(10) X. DT 15.

(11) X. GL 602, 619.

(12) GL 607,§2.

(13) X. Giáo luật 602.

(14) X. GL 608 ; 665, §1.

(15) GL 731, §1.

(16) X. GL 607, §2 ; cũng xc. GL 602.

(17) X. GL 587.

(18) Santo Domingo, HĐGM Mỹ châu La-tinh lần  thứ IV, 1992, 178, 180.

(19) X. Phẩm giá phụ nữ ; MV  9, 60.

(20) X. DT 15a ; GL 602.

(21) X. MV 3.

(22) X. GH 7.

(23) X. GH 4 ; LH 2.

(24) X. DT 1 ; YT 18-22.

(25) X. DT 1.

(26) TT 24.

(27) HL 21-22.

(28) CN 15.

(29) X. GL 663, §3 và 608.

(30) X. LM 6 ; DT 6.

(31) X. GL 608.

(32) LM 6.

(33) X. GL 663, §4.

(34) CN 15.

(35) X. HL 32-34 ; 87.

(36) X. GH 46b.

(37) X. GL 602 ; DT 15a.

(38) X. CT 39.

(39) X. DT 14.

(40) X. GL 619.

(41) X. CT 39 ; YT 19.

(42) Thánh Hi-la-ri-ô, Khảo luận về  Thánh vịnh 132, PL Suppl. 1,244.

(43) Xem trên đây, các số 14, 16, 28  và 31.

(44) X. CN 14 ; ĐT 17 ; GL 666.

(45) GH 46.

(46) Như trên.

(47) X. YT 45.

(48) Như trên.

(49) YT 47.

(50) X. GH 44.

(51) HL 43.  ỴHEADER-A = 536

(52) HL 43, 51, 63.

(53) HL 52.

(54) DT 14c ; GL 618 ; YT 49.

(55) YT 22 ; cũng x. LH 12.

(56) X. CT 40.

(57) X. HL 66-69.

(58) X. TT 25.

(59) LH 13.

(60) DT 12 ; xc. GL 607.

(61) YT 18 ; xc. LH 11-12.

(62) X. LH 11.

(63) X. LH 11-12 ; YT 11 ; 41.

(64) GL 619.

(65) X. GL 618.

(66) Như trên.

(67) GL 619.

(68) X. DT 14 ; YT 49.

(69) Đức Gio-an Phao-lô II, gửi phiên  họp khoáng đại Bộ các hội dòng  tận hiến và các tu đoàn tông đồ,  20-11-1992.

(70) X. GH 1.

(71) Đức Gio-an Phao-lô II, như trên,  số 4.

(72) Ki-tô hữu giáo dân 32 ;  xc. LM 2.

(73) GH 46a.

(74) X. LH 30b, 47.

(75) LH 49-50.

(76) HL 93.

(77) X. Santo Domingo 85.

(78) X. TT 6 ; LB 69 ; Santo Domingo 92.

(79) X. HL 28.

(80) X. CT 40.

(81) YT III, s. 12.

(82) X. GL 665,§1.

(83) X. GL 678, §1.

(84) DT 15a.

(85) X. DT 21 và 22.

(86) X. GL 667, 607 §3.

(87) Đức Gio-an Phao-lô II, gửi phiên  họp khoáng đại Bộ các hội dòng  tận hiến và các tu đoàn tông đồ,  20-11-1992.

(88) Như trên, số 2.

 

 

 

back to top
Filters