News Filters

1_ SÁCH_(Phần I - Phần IV)_ Nhật Ký Lòng Chúa Thương Xót

13 Tháng Giêng 2021

XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV

PHẦN I: số 1-150

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

 

Chủ nhật - 25/06/2017 21:23

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA Phấn I: số 1-150

THÁNH NỮ MARIA FAUSTINA KOWALSKA

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA NƠI LINH HỒN TÔI

 

Ấn bản lần thứ hai

Chuyển ngữ

Matthias M. Ngọc Đính, CMC

2002

 

---------------------------------------

 

LỜI ĐẦU CHO NGUYÊN BẢN TIẾNG BA LAN

LỜI THƯA

NIÊN BIỂU NHỮNG BIẾN CỐ TRONG CUỘC ĐỜI THÁNH NỮ MARIA FAUSTINA-HELENA KOWALSKA 

DẪN NHẬP

 

TẬP MỘT : LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA NƠI LINH HỒN TÔI

TẬP HAI  LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA NƠI LINH HỒN TÔI

TẬP BA: CON SẼ CA NGỢI LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

TẬP BỐN : NHẬT KÝ NỮ TU M. FAUSTINA

TẬP NĂM: NỮ TU FAUSTINA PHÉP THÁNH THỂ

TẬP SÁU: MUÔN ĐỜI CON SẼ CA TỤNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

TẬP BẢY: DỌN MÌNH HIỆP LỄ

CHÚ THÍCH Những Chữ Viết Tắt

 

TÌM ĐỀ MỤC

 

             Imprimi Potest:    22.2.1987

            Lm. Richard J. Drabik, M.I.C.,

            Giám tỉnh

 

             Nihil Obstat:

           George H. Pearce

            Tổng Giám mục Suva, Fiji

 

            Imprimatur:    16.3.1987

Joseph F. Maguire

            Giám mục Springfield, MA

 

 

Dịch từ bản Tiếng Anh

Diary Divine Mercy in My Soul

Saint Maria Faustina Kowalska

 

 Xuất bản do: Marians of the Immaculate Conception

Stockbridge, Massachusetts 01263

 

2001

 

LỜI ĐẦU CHO NGUYÊN BẢN TIẾNG BA LAN

 

 

Khi cho ra mắt quyển Nhật Ký của thánh nữ Maria Faustina Kowalska, tôi ý thức mình đang giới thiệu một tài liệu về con đường thần bí Công Giáo, mang một giá trị ngoại thường, không những với Giáo Hội Ba Lan, mà còn với Giáo Hội toàn cầu. Ấn phẩm này là một ấn bản nghiêm túc, và vì thế, rất khả tín. Đây là công trình của Thỉnh Nguyện Viên cho thánh nữ Faustina, dưới chỉ thị của thẩm quyền tổng giáo phận Cracow.

 

Quyển Nhật Ký có mục tiêu cổ động việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa gần đây đã được quan tâm rộng rãi vì hai nguyên nhân sau đây:

 

Thứ nhất: Thánh bộ Giáo Lý Đức Tin ít năm trước đây [1978] đã duyệt xét và rút lại những điều kiểm phán trước đây của Toà Thánh liên quan đến những bản viết của nữ tu Faustina. Việc rút lại “thông tư” ấy đã làm cho việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa, như được trình bày trong Nhật Ký này, được tiến triển khắp các lục địa với một sinh lực mới, như được ghi nhận qua vô số những chứng cứ mà Thỉnh Nguyện Viên cũng như hội dòng của nữ tu Faustina đã thu thập được.

 

Thứ hai: Bức tông thư Thiên Chúa Giàu Lòng Xót Thương (Dives in misericordia) mới đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thu hút sự chú ý của Giáo Hội, và cả thế giới thế tục, một cách thích thú đến với một ưu phẩm rất kỳ diệu của Thiên Chúa và là khía cạnh phi thường trong nhiệm cục cứu độ: đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

 

Một công trình nghiên cứu tường tận hầu làm nổi bật sự tương đồng giữa các ý tưởng trong Nhật Ký thánh nữ Faustina và trong bức tông thư trên (không cần đề cập đến tính liên đới khả dĩ của chúng) có lẽ rất đáng được hoan nghênh. Chắc chắn sẽ có rất nhiều điểm nổi bật, bởi vì cả hai đều kín múc khởi hứng từ một nguồn mạch; đó là mặc khải của Thiên Chúa và giáo huấn của Chúa Kitô. Hơn nữa, cả hai đều xuất phát từ một cảnh vực tinh thần như nhau, cùng từ Cracow, một thành phố - mà tôi biết - đã có ngôi thánh đường dâng kính Lòng Thương Xót Chúa cổ kính nhất. Tương tự, cũng cần nhấn mạnh rằng chính Đức Hồng Y Karol Wojtyla, Tổng Giám mục Cracow trong thời gian ấy, cũng chính là người đã nỗ lực rất nhiều trong việc vận động phong chân phúc cho nữ tu Faustina và thực sự ngài đã khởi sự tiến trình ấy.

 

Dưới ánh sáng ấy, Nhật Ký thánh nữ Faustina mang thêm một ý nghĩa nữa nay với linh đạo Công Giáo; và vì thế, điều thích thuận là phải chuẩn bị một ấn bản đáng tin cậy, đủ sức ngăn ngừa nạn bóp méo bản văn do những người, tuy hành động vì niềm tin tốt lành, nhưng không được chuẩn bị tương xứng với những công việc như thế. Như vậy, chúng ta có thể tránh được những ấn bản chứa đầy những dị biệt và thậm chí các mâu thuẫn, như đã từng xảy ra trong trường hợp quyển tự thuật của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, tức là quyển Truyện Một Tâm Hồn.

 

Nếu lướt qua Nhật Ký này, có thể độc giả sẽ ngỡ ngàng vì sự giản dị của ngôn từ, thậm chí còn có cả những lỗi chính tả và văn pháp, nhưng xin đừng quên rằng tác giả quyển Nhật Ký này chỉ có một trình độ học vấn giới hạn. Chính những điểm giáo lý thần học trong Nhật Ký này mới làm bừng tỉnh nơi độc giả một niềm xác tín về tính cách độc đáo của nó; và nếu xét đến sự tương phản giữa trình độ học vấn với trình độ thần học cao vời của thánh nữ Faustina, chúng ta mới thấy hết được tác dụng đặc biệt của ơn thánh.

 

Ở đây, tôi muốn đề cập đến cuộc gặp gỡ của tôi với một nhà thần bí thời danh đương đại, đó là nữ tu Speranza tại Collevalenza, một nơi cách thành phố Todi [Ý] không xa lắm, người đã thành lập đền thánh “Tình Yêu Thương Xót”, điểm đến của vô vàn khách hành hương. Tôi đã hỏi nữ tu Speranza có nghe biết về những thủ bản của nữ tu Faustina hay không và nghĩ gì về những thủ bản ấy. Nhà thần bí đã trả lời một cách đơn giản: “Những thủ bản ấy chứa đựng một giáo huấn tuyệt vời, nhưng khi đọc, người ta phải nhớ rằng Thiên Chúa nói với các triết gia bằng ngôn ngữ các triết gia, và nói với các tâm hồn đơn sơ bằng ngôn ngữ những người đơn sơ, và chỉ những người đơn sơ mới được tỏ cho biết về các chân lý, những điều che giấu các bậc thông thái và hiền triết của thế gian này”.

 

Để kết thúc phần giới thiệu này, xin cho tôi được phép đề cập đến một suy tư của riêng tôi từ năm 1952, khi lần đầu tiên tôi được tham dự nghi lễ phong chân phúc long trọng tại vương cung thánh đường thánh Phêrô. Một người tham dự cuộc lễ mừng sau đó đã hỏi tôi: “Đấng được tôn phong này thực sự là ai?”. Câu hỏi đã làm tôi hết sức lúng túng, bởi vì lúc ấy tôi không nhớ ra những vị được tôn phong là ai, mặc dù tôi quá biết mục đích cuộc tôn phong là nêu lên cho Dân Chúa một tấm gương để chiêm ngưỡng và noi theo cuộc sống của các ngài.

 

Trong số những vị được đệ trình xin tôn phong chân phúc và hiển thánh, Ba Lan hiện đã có hai vị rất quen thuộc, toàn thể thế giới đều biết các ngài đã thực hiện những gì trong cuộc sống và các ngài đã rao giảng sứ điệp nào. Đó là chân phúc [nay đã là hiển thánh] Maximilian Kolbe, vị tử đạo vì đức bác ái, và nữ tu [nay cũng đã là hiển thánh] Faustina Kowalska, vị tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa.

 

Rôma, ngày 20 tháng 12 năm 1980

 

= Andrew M. Deskur

 

Tổng Giám mục hiệu toà Tene

 

Về đầu trang

 

LỜI THƯA

Trước tiên, chúng tôi xin chân thành tri ân cha Gioan Maria, cha Barnaba Maria, và thầy Bonifacio Maria đã góp nhiều ý kiến vô cùng quý báu cho bản dịch tiếng Việt này. Chúng tôi cũng hết lòng cảm ơn những công lao của thầy Tađêô Maria đối với việc ra đời của quyển sách này.

 

Chúng tôi xin ghi nhận tấm lòng nhiệt thành với công cuộc Lòng Thương Xót Chúa và những đóng góp của ông Joseph Alexander NH.

 

Xin Chúa, Đức Mẹ, và Cha Thánh Giuse chúc lành đặc biệt cho quý cha, quý thầy, và quý vị đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành quyển sách này.

 

Trong bản dịch Việt ngữ, chúng tôi cố gắng theo sát lối trình bày của bản Anh ngữ, cụ thể là lời của Chúa được in đậm; lời của Đức Mẹ được in nghiêng; lời của các thánh và của thánh nữ Faustina được in thẳng. Những phần không có trong nguyên bản Nhật Ký của chị thánh, nhưng được thêm vào cho rõ nghĩa được đặt trong ngoặc vuông []. Số trang trong nguyên bản Nhật Ký của chị thánh được đặt trong ngoặc đơn (), và được in đậm. Những số chú thích được in nhỏ.

 

Ước mong bản dịch nhỏ mọn này góp phần cổ động việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa và mưu ích cho các linh hồn.

 

Lễ Đức Mẹ Mân Côi, 2001

 

N.Đ.

 

Về đầu trang

 

NIÊN BIỂU NHỮNG BIẾN CỐ TRONG CUỘC ĐỜI THÁNH NỮ MARIA FAUSTINA-HELENA KOWALSKA

DÒNG CÁC NỮ TU ĐỨC MẸ NHÂN LÀNH

 

 

 

25.8.1905 - Helena Kowalska chào đời tại làng Glogowiec, quận Turek, tỉnh Lodz, Ba Lan (theo sổ rửa tội giáo xứ).

 

27.8.1905 - Helena Kowalska được rửa tội tại nhà thờ Casimir, Swinice Warckie, quận Turek do cha sở Joseph Chodynski, và được nhận tên Helena (Hồ sơ giáo xứ tại Swinice).

 

1912 - Lên bảy tuổi, Helena lần đầu tiên nghe lời mời gọi trong tâm hồn hãy theo đuổi một nếp sống trọn lành hơn (NK I:3).

 

1914 - Helena được rước lễ lần đầu từ tay cha sở Pawlowski (Hồ sơ giáo xứ tại Swinice).

 

11.1917 - Helena bắt đầu đi học tại Swinice (Biên bản từ Zbiorczej Szkoly Gminnejw Swinicach Warckich, ngày 6 tháng 4 năm 1916).

 

1919 - Năm 14 tuổi, để trợ giúp cha mẹ, Helena bắt đầu làm việc cho gia đình Goryszewski ở Aleksandrow gần Lodz, (Hồi ký của bà Marianne Kowalska, thân mẫu thánh nữ).

 

30.10.1921 - Helena được chịu phép Thêm Sức do Đức Cha Vincent Tymienecki tại Aleksandrow gần Lodz.

 

1922 - Sau gần một năm làm việc cho gia đình Goryszewski, Helena trở về gia đình và ngỏ ý muốn vào sống trong một tu viện. Cha mẹ quyết định phản ngay ước nguyện này (NK 1:4; Hồi ký của thân mẫu).

 

Mùa Thu 1922 - Helena đến Lodz để kiếm việc làm phụ giúp cha mẹ (Hồi ký của thân mẫu, trang 5; Hồi ký của Stanislava Rapacka).

 

2.2.1923 - Nhờ sự giới thiệu của một người môi giới, Helena đến làm việc cho bà Marcianne Sadowska, chủ một cửa hiệu ở số 29 phố Abramowski, Lodz, và chị ngụ tại đây cho đến ngày 1 tháng 7 năm 1924 (Hồi ký của bà Marcianne, tr. 2).

 

7.1924 - Helena đến Warsaw để vào dòng (Hồi ký của Mẹ Tổng Quyền Michael Moraczewska, thủ bản, tr. 1; NK I:4).

 

Chị xin vào dòng Đức Mẹ Nhân Lành tại số 3/9 phố Zytnia tại Warsaw. Bề trên nhận thấy chị là một người “không có gì đặc biệt” và muốn thử thêm nên bảo đi làm để có thể trả tiền y phục (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 1; Hồi ký của nữ tu Dorgia, tr. 1).

 

Mùa Hè 1924 - Helena đi phụ giúp việc cho gia đình bà Aldona Lipszyc tại Ostrowek, quận Klembow, gần Warsaw (Hồi ký của bà A. Lipszic, tr. 1).

 

1.8.1925 - Helena lại xin vào dòng Đức Mẹ Nhân Lành, và lần này được chấp nhận (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 2; Hồi ký của nữ tu Borgia, tr. 1; NK I:6).

 

Khoảng 22.8.1925 - Helena muốn rời bỏ hội dòng để vào một dòng tu khác ngặt hơn. Chị cảm thấy trong dòng Đức Mẹ Nhân Lành có quá ít giờ cầu nguyện (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 2; NK I:6).

 

8.1925 - Bề trên gởi chị đến Skolimow, một cơ sở dạy nghề của hội dòng, gần Warsaw để hồi phục sức khoẻ (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 2).

 

23.1.1926 - Chị rời tập viện tại Warsaw để hoàn tất thời gian thử, tĩnh tâm, và nhận lúp (Hồi ký của nữ tu Borgia, tr. 1; NK I:7).

 

30.4.1926 - Sau tám ngày tĩnh tâm, chị nhận áo dòng và tên dòng. Kể từ đó, Helena mang tên là nữ tu Mary Faustina (Kỷ yếu Cracow III:177; Hồi ký nữ tu Clemens).

 

20.6.1926 - Sự kiện thay đổi điều hành của bề trên giám tập ảnh hưởng đến việc đào luyện đời sống thiêng liêng của nữ tu Faustina (Kỷ yếu Cracow III:179).

 

3.4.1927 - Nữ tu Faustina trải qua đêm tăm tối. Những thử thách kéo dài đến gần hết năm tập, Mẹ Giám Tập Mary Joseph Brzoza, khích lệ, chước giảm những việc đạo đức chính thức, và thúc giục chị hãy trung thành với Thiên Chúa (NK I:8).

 

16.4.1928 - Vào ngày thứ Sáu tuần Thánh, lửa tình yêu Chúa bao chiếm chị tập sinh. Chị quên hết những đau khổ quá khứ, và nhận ra Chúa Kitô đã chịu đau khổ nhiều vì chị (NK I:10).

 

20.4.1928 - Buổi tối, chi Faustina cùng với các chị khác khai mạc tuần tĩnh tâm trước ngày hạn thệ (Kỷ yếu III:203; Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 3; NK I:11).

 

30.4.1928 - Nữ tu Faustina tuyên khấn lần đầu, và khấn tạm từng năm một trong thời hạn 5 năm cho đến khi vĩnh thệ (Kỷ yếu Cracow III:203; Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 3).

 

6-10.12.1928 - Tại tổng tu nghị của dòng, Mẹ Michael Moracrzewska được bầu làm tổng quyền (Kỷ yếu Cracow III:210). [Mẹ Michael làm bề trên trong suốt đời tu của chị Faustina. Trong những thời gian khó khăn, Mẹ là nguồn giúp đỡ và an ủi cho chị. Chị Faustina đã tuyên khấn trọn đời trong tay Mẹ. Trước khi qua đời, chị đã qua Mẹ xin lỗi toàn thể hội dòng vì mọi yếu đuối trong suốt cuộc đời tu của chị (Hồi ký Mẹ Michael, tr. 5,11,12].

 

31.10.1928 - Nữ tu Faustina đến tu viện số 3/9 đường Zytnia, Warsaw, tại đây chị được phân công làm bếp (Kỷ yếu Cracow III:212).

 

21.2.1929 - Chị Faustina đến Vilnius để thế chỗ của một nữ tu khác dự thời gian thử thứ ba (Kỷ yếu Vilnius I:9).

 

11.4.1929 - Chị Faustina rời Vilnius trở về Warsaw bằng chuyến xe hoả buổi sáng (Kỷ yếu Vilnius I:21).

 

6.1929 - Chị Faustina được phân công làm việc tại một nhà mới được lập tại đường Hetrmanska, Warsaw (Hồi ký các nữ tu).

 

Vài tháng sau, chị lại trở về nhà số 3/9 đường Zytnia. Trong khi đó, các học sinh nội trú của chị hứa sẽ theo chị về đó (Hồi ký các nữ tu).

 

7.7.1929 - Trong một thời gian ngắn, nữ tu Faustina được cử đến một tu viện tại Kiekrz gần Poznan để làm bếp thay cho một nữ tu khác bị bệnh (Hồi ký của nữ tu Xavier, thư ngày 6.7 [không đề năm], được in trong hồi ký; NK I:74).

 

10.1929 - Chị Faustina lại trở về Warsaw (Chứng cứ là bức thư đề ngày 20.10.1929 của nữ tu Justine. Thư # 25:66).

 

5-6.1930 - Chị Faustina được cử về tu viện tại Plock, và lần lượt làm việc tại lò bánh, bếp, và kho bánh (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 3).

 

Trong thời gian sống tại Plock (từ tháng 6.1930 đến tháng 11.1932), chị có đến sống tại Biala một thời gian (một nhà của dòng, cách Plock chừng 10 km).

 

[Vì các tập Kỷ yếu của nhà Warsaw và Plock bị huỷ trong Thế Chiến II, nên khó xác định được ngày tháng chị Faustina ngụ tại những nhà này].

 

Lá thứ của nữ tu Justine Golofit, đề ngày 17.12.1930 làm chứng rằng chị Faustina trong thời gian ấy vẫn sống tại Biala (Các thư # 26:68).

 

22.2.1931 - Nữ tu Faustina được thấy Chúa Giêsu trong một thị kiến, Người truyền cho chị vẽ một bức hình theo mẫu được thấy (NK I:18; Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 4).

 

11.1932 - Chị Faustina đến Warsaw để thử lần ba theo tục lệ dòng Đức Mẹ Nhân Lành (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 5; NK I:84). Trước kỳ thử, chị đến Walendow để tĩnh tâm (Hồi ký của nữ tu Seraphina Kukulska; NK I:84).

 

1.12.1932 - Chị Faustina sống thời gian thử thứ ba cùng với các chị em dưới sự hướng dẫn của Mẹ Margaret Gimbutt (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 5; NK I:89).

 

Kỳ thử thứ ba trong dòng kéo dài năm tháng. Trong thời gian này, chị Faustina làm việc tại phòng may, giúp chị Suzanne Tokarski (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 5; Hồi ký của nữ tu Suzanne; NK I:89).

 

3.1933 - Cô em Wanda đến thăm chị Faustina (NK I:97).

 

18.4.1933 - Cùng với các nữ tu khác, chị Faustina đi Cracow dự tuần tĩnh tâm tám ngày và tuyên khấn trọn đời (Kỷ yếu Cracow IV:8).

 

21.4.1933 - Kỳ tĩnh tâm tám ngày dưới sự hướng dẫn của cha Wojnar, dòng Tên (Kỷ yếu Cracow IV:8; NK I:102).

 

1.5.1933 - Chị Faustina tuyên khấn trọn đời. Chủ tế lễ khấn là Đức Cha Stanislaus Rosopockoond.

 

Sau khi tuyên khấn trọn đời, chị Faustina ở lại Cracow thêm một tháng nữa (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 5; Kỷ yếu Cracow IV:8; NK I:114).

 

25.5.1933 - Chị đến Vilnius (Kỷ yếu Vilnius, tr. 178). [Kỷ yếu có chú thích: “Chị Faustina đã khấn trọn tại Cracow, đến bằng xe lửa vào chiều tối thứ Năm”].

 

2.1.1934 - Chị Faustina đến gặp hoạ sĩ Kazimirowski lần đầu tiên và nhờ vẽ bức hình Chúa Tình Thương (Hồi ký của cha Sopocko, tr. 1; Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 6; NK II:240).

 

29.3.1934 - Chị Faustina dâng mình cầu nguyện cho các tội nhân, nhất là những linh hồn đã mất lòng cậy trông vào Lòng Thương Xót Chúa (NK I:133).

 

6.1934 - Hoạ sĩ Kaximierowski hoàn tất bức hoạ Chúa Thương Xót dưới sự chỉ dẫn của chị Faustina. Chị Faustina đã khóc lên vì bức hoạ Chúa Thương Xót không đẹp như chị đã thấy trong thực tế (Hồi ký của cha Sopocko, tr. 1; NK I:134).

 

26.7.1934 - Chị Faustina ngã bệnh - bị cảm (Kỷ yếu Vilnius, tr. 223).

 

28.7.1934 - Chị Faustina bắt đầu viết Nhật Ký trở lại.

 

12.8.1934 - Bệnh tình chị Faustina trở nặng. Bác sĩ Maciejewska được mời đến, và cha Sopocko đến ban phép Xức Dầu cho chị (Kỷ yếu Vilnius, tr. 226).

 

13.8.1934 - Sức khoẻ chị có khá hơn (Kỷ yếu Vilnius, tr. 226).

 

26.10.1934 - Cùng các học sinh từ ngoài vườn về ăn bữa tối (lúc 5 giờ 50 chiều, chị Faustina nhìn thấy Chúa Giêsu trên nhà nguyện tại Vilnius giống như chị đã được thấy Người tại Plock; tức là với hai luồng sáng xanh nhạt và đỏ. Những luồng sáng bao phủ nhà nguyện của dòng và phòng y tế các học sinh, sau đó chiếu toả khắp thế giới (Văn khố - tài liệu về nữ tu Faustina).

 

15.2.1935 - Nữ tu Faustina nhận được tin báo thân mẫu bị bệnh nặng, và chiều tối hôm ấy trở về làng quê Glogowiec, gần Lodz (Kỷ yếu Vilnius, tr. 261; NK I:165-169).

 

Sau khi rời nhà quê, chị Faustina dừng lại Warsaw để gặp Mẹ Tổng Quyền Michael, và vị giám tập trước kia là Mẹ Mary Joseph Brzoza. Một vài ngày sau, chị trở về Vilnius (NK I:169).

 

4.3.1935 - Nữ tu Petronilla và nữ tu Faustina đi xe điện đến phiên chợ được tổ chức hằng năm vào dịp lễ thánh Casimir để sắm các đồ dùng cần cho nhà dòng (Kỷ yếu Vilnius, tr. 264).

 

29.9.1935 - Nữ tu Faustina cùng các nữ tu khác đến nhà thờ thánh Micae để làm việc đạo đức Bốn Mươi Giờ (Kỷ yếu Faustina, tr. 302).

 

19.10.1935 - Nữ tu Antonina và nữ tu Faustina đi dự tuần tĩnh tâm tám ngày tại Cracow (Kỷ yếu Vilnius, tr. 307; Kỷ yếu Cracow, IV:49).

 

4.11.1935 - Sau tĩnh tâm, chị Faustina đã trở về Vilnius vào chiều tối (Kỷ yếu Vilnius, tr. 311).

 

8.1.1936 - Chị Faustina đến thăm Đức Tổng Giám mục Jalbrzykowski và trình bày rằng Chúa Giêsu muốn thành lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa (NK II:50).

 

17.3.1936 - Nữ tu Borgia Tichy, bề trên nhà dòng tại Vilnius nhận được tin bề trên tổng quyền chuyển chị Faustina từ Vilnius đến Walendow (Kỷ yếu Vilnius, tr. 337).

 

19.3.1936 - Nữ tu Borgia bàn hỏi với Đức Tổng Giám mục Jalbrzykowski về việc chị Faustina (Kỷ yếu Vilnius, tr. 338).

 

21.3.1936 - Nữ tu Faustina đi chuyến xe lửa buổi sáng từ Vilnius đến Warsaw (Kỷ yếu Vilnius, tr. 338), và lưu lại Warsaw một vài ngày (NK II:90).

 

25.3.1936 - Nữ tu Faustina đến Walendow, một ngôi nhà miền quê của dòng, cách Warsaw 20 cây số. Các chị em ở đây chào đón nồng nhiệt và vui tươi (Các Kỷ yếu; NK II:91).

 

4.1936 - Sau một vài tuần lễ, chị Faustina lại được cử sang một nhà khác cách Walendow 1 cây số, được gọi là Derdy (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 8).

 

Nhà này toạ lạc trong một khu rừng, và nữ tu Faustina ngây ngất trước vẻ đẹp thiên nhiên đã diễn tả niềm vui của chị trong lá thư gởi cho cha Sopocko ngày 10.5.1936 (Các thư #3:5).

 

11.5.1936 - Cùng với chị Edmund Sekul, chị Faustina rời Derdy và về ở luôn tại Cracow (Kỷ yếu Cracow IV:60), ở đây, trước tiên chị làm việc trong vườn, rồi coi cổng (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 8).

 

19.6.1936 - Cùng các chị em khác đi kiệu Thánh Tâm Chúa tại tu viện dòng Tên ở số 26 đường Kopernik (Kỷ yếu Cracow IV:62; NK II:111).

 

14.9.1936 - Đức Tổng Giám mục Jalbrzykowski trên đường đi Tarnow, ghé thăm tu viện Cracow và tiếp chuyện ít phút với chị Faustina (Kỷ yếu Cracow IV:67; NK II:133); Hồi ký của nữ tu Felicia và nữ tu Irene).

 

19.9.1936 - Chị Faustina khám bệnh tại bệnh viện Pradnik (NK II:133-134).

 

20.10.1936 - Tĩnh tâm tám ngày ở Cracow do cha Wojton, dòng Tên, giảng phòng (Kỷ yếu Cracow IV:70; NK II:153).

 

9.12.1936 - Vì lý do sức khoẻ, các bề trên gởi chị Faustina đến điều trị tại Pradnik, một dưỡng đường dành cho các bệnh nhân lao phổi tại Cracow (Kỷ yếu Cracow IV:74; NK II:198).

 

13.12.1936 - Chị Faustina xưng tội với Chúa Giêsu (NK II:207).

 

24.12.1936 - Được phép bác sĩ, chị Faustina trở về tu viện mừng lễ Giáng Sinh (Kỷ yếu Cracow IV:74; NK II:226).

 

27.12.1936 - Chị Faustina trở lại bệnh viện Pradnik để điều trị (NK II:230).

 

27.3.1937 - Chị Faustina từ Pradnik trở về sau khi tình trạng sức khoẻ có khả quan (Kỷ yếu Cracow IV:82; NK II:18).

 

13.4.1937 - Sức khoẻ lại sa sút trầm trọng, chị Faustina xin Chúa cho khoẻ mạnh và được nhậm lời (NK III:23).

 

23.4.1937 - Trong cuộc tĩnh tâm tám ngày tổ chức từ 20.4 tại tu viên Cracow, chị Faustina đã tận dụng dịp này để tĩnh tâm ba ngày của riêng chị (Kỷ yếu Cracow IV:82; NK III:26).

 

29.4.1937 - Sau tuần tĩnh tâm, chị nói chuyện với vị giám tập cũ là Mẹ Mary Joseph cũng đang tĩnh tâm tại đó (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 9; NK III:30-31).

 

20.7.1937 - Chị Faustina biết sắp được đổi về một nhà của dòng tại Rabka (NK III:54).

 

[Kỷ yếu không đề cập đến điều này; tuy nhiên, chỉ ghi nhận rằng mẹ bề trên đến Rabka hai ngày có chuyện liên quan về việc ra đi của chị Faustina (Kỷ yếu Cracow IV:88 - đề ngày 19.7; Hồi ký của nữ tu Irene)].

 

29.7.1937 - Chị Faustina đi Rabka (NK III:54-55; các Hồi ký).

 

10.8.1937 - Thấy khí hậu tại Rabka không phù hợp và làm sức khoẻ ngày càng suy giảm, chị Faustina trở về Cracow (NK IV:4).

 

12.8.1937 - Cha Sopocko ghé Cracow và lưu lại một thời gian với chị Faustina (Hồi ký của nữ tu Felicia; NK IV:4-5).

 

25.8.1937 - Cha Sopocko ở lại Cracow một vài ngày. Nữ tu Faustina rất sung sướng vì đang nóng lòng muốn gặp ngài (NK IV:17).

 

[Kỷ yếu không đề cập về điều này].

 

6.9.1937 - Vì sức khoẻ ngày càng kiệt quệ, chị Faustina được đổi từ công tác làm vườn ra coi cổng (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 10; NK IV:25).

 

19.9.1937 - Em trai Stanley đến thăm chị Faustina (NK IV:40).

 

27.9.1937 - Chị Faustina và Mẹ Irene Krzyzanowska đến nhà in để lo in một số hình Chúa Thương Xót (NK IV:45; Hồi ký của nữ tu Irene, tr. 2).

 

21.4.1938 - Sức khoẻ của chị Faustina sa sút, các bề trên quyết định đưa chị trở lại bệnh viện Pradnik (Kỷ yếu Cracow IV:119; Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 10).

 

2-5.6.1938 - Chị Faustina tĩnh tâm ba ngày tại bệnh viện (Hồi ký của Mẹ Irene Krzyzanowska và nữ tu Felicia; NK VI:114).

 

6.1938 - Chị Faustina ngừng viết Nhật Ký.

 

6.1938 - Mẹ Tổng Quyền Michael Moraczewska đến thăm chị Faustina tại bệnh viện (Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 10; Hồi ký của nữ tu Felicia).

 

8.1938 - Trong lá thư cuối cùng viết cho Mẹ Tổng quyền, chị Faustina xin lỗi vì tất cả những sai sót suốt đời và kết thúc bằng câu “mong đến khi chúng ta gặp nhau trên trời” (Các thư # 23:64; Hồi ký của Mẹ Michael, tr. 11).

 

24.8.1938 - Chị Camille, một bệnh nhân tại bệnh viện ở Pradnik điện thoại báo tin cho bề trên biết sức khoẻ chị Faustina đã đến hồi nguy kịch. Bề trên đến bệnh viện và lưu lại qua đêm bên cạnh giường chị Faustina (Kỷ yếu Cracow IV:129).

 

25.8.1938 - Cha Theodore Czaputa, tuyên uý nhà dòng tại Cracow đến bệnh viện Pradnik để ban bí tích Xức Dầu cho chị Faustina (Kỷ yếu Cracow IV:129).

 

28.8.1938 - Cha Sopocko đang ở Cracow đến thăm nhà dòng và đến thăm chị Faustina tại bệnh viện một vài lần (Hồi ký của cha Sopocko, tr. 3; Kỷ yếu CracowIV:129).

 

2.9.1938 - Cha Sopocko đến thăm chị Faustina tại dưỡng đường Pradnik và thấy chị đang được ngất trí (Hồi ký của cha Sopocko, tr. 5; Hồi ký của nữ tu Felicia).

 

7.9.1938 - Vì rất yếu nhược và không chịu được thức ăn, chị Faustina được đưa từ bệnh viện Pradnik về tu viện. Bình tĩnh và lạc quan, chị chờ đợi phút giây được hợp nhất với Chúa Giêsu, và không sợ hãi giờ chết (Kỷ yếu Cracow IV:131).

 

22.9.1938 - Càng ngày sức khoẻ càng yếu ớt, chị Faustina xin toàn thể hội dòng tha thứ vì những lỗi vô ý của chị và thanh thản chờ đợi Đấng Lang Quân từ trời cao đến (Kỷ yếu Cracow IV:132).

 

26.9.1938 - Cha Sopocko đến thăm chị Faustina lần cuối tại Cracow, và chị nói với ngài: “Mối bận tâm duy nhất của con là sống trong sự hiện diện của Cha trên trời của con”. [Cha Sopocko ghi nhận, “Chị giống như một người không ở dương thế”, và thêm, “Lúc ấy, tôi không còn nghi ngờ gì về điều chị đã viết trong Nhật Ký, việc chị được rước Thánh Thể từ một vị thiên thần là đúng thật” (Hồi ký của cha Sopocko, tr. 5)].

 

2.10.1938 - Chị Faustina ngày càng yếu, nhưng vẫn luôn lạc quan và bình thản chờ đợi giờ ra đi (Kỷ yếu Cracow IV:133).

 

5.10.1938 - Vào lúc 4 giờ chiều, cha Andrasz dòng Tên đến thăm, và chị Faustina đã xưng tội lần cuối cùng (Kỷ yếu Cracow IV:134).

 

Vào lúc 9 giờ tối, cha tuyên uý Theodore Czaputa cùng với các chị em tụ tập quanh giường cầu nguyện cho người hấp hối. Biết được giờ chết, chị Faustina đã hợp ý với những lời cầu nguyện (Kỷ yếu Cracow IV:134).

 

7.10.1938 - Lễ an táng nữ tu Faustina Kowalska được tổ chức ngày thứ Sáu đầu tháng, nhằm lễ Đức Mẹ Mân Côi.

 

Các linh mục dòng Tên, cha Wojton và cha Chabrowski thuộc tu viện Công Trường thánh Barbara và một cha khác ở số 26 đường Kopernik đã chủ sự các lễ nghi an táng.

 

Vào lúc 8 giờ 30 sáng, sau khi hát giờ kinh Sáng, cha Wojton cử hành nghi thức phụng vụ tại bàn thờ chính, và cha Chabrowski tại bàn thờ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu (nơi bức hình Chúa Thương Xót được tôn kính cho đến ngày nay và nổi tiếng đã ban phát vô số ơn lành).

 

Cha Chabrowski cử hành thánh lễ với lễ phục trắng. Như Kỷ yếu tu viện ghi lại, tất cả đều được trang hoàng đẹp đẽ. Thân quyến chị Faustina không có ai hiện diện trong lễ an táng (Kỷ yếu Cracow IV:134).

 

Nữ tu Faustina được mai táng tại nghĩa trang trong khu vườn của dòng Đức Mẹ Nhân Lành tại số 3/9 đường Wronia, Lagiewniki, Cracow, trong ngôi mộ chung tại nghĩa trang.

 

21.10.1965 - Sau khi nữ tu Faustina qua đời được 27 năm, Đức Cha Julian Groblicki được Đức Tổng Giám mục Karol Wojtyla uỷ quyền đã khởi sự quá trình điều tra thông tin về đời sống và nhân đức của nữ tu Faustina bằng một nghi thức long trọng tại Cracow. Từ lúc ấy, nữ tu Faustina xứng đáng với tước hiệu Đầy Tớ Chúa.

 

25.11.1966 - Trong khi quá trình điều tra thông tin liên quan đến các nhân đức, các bản văn, và lòng sùng kính Đầy Tớ Chúa đang được tiến hành (từ 21.10.1965 đến 20.9.1967), thi hài nữ tu Faustina đã được cải táng và dời sang một ngôi mộ được dành sẵn cho mục đích trong nhà nguyện của các nữ tu dòng Đức Mẹ Nhân Lành. Trên ngôi mộ có một phiến đá màu đen có hình thánh giá ở giữa. Trên phiến đá thường xuyên có những bó hoa tươi do các tín hữu đem đến, những người đã xin được vô số ơn lành nhờ lời cầu bầu của nữ tu Faustina.

 

20.9.1967 - Đức Hồng Y Karol Wojtyla kết thúc quá trình điều tra thông tin về Đầy Tớ Chúa bằng một lễ nghi long trọng tại Tổng Giáo phận Cracow.

 

26.1.1968 - Thánh bộ Phong Thánh nhận được các hồ sơ của quá trình điều tra thông tin.

 

31.1.1968 - Bằng một sắc lệnh của Thánh bộ Phong thánh, tiến trình phong chân phúc cho Đầy Tớ Chúa nữ tu Faustina Helena Kowalska được chính thức bắt đầu.

 

18.4.1993 - Đấng Đáng Kính Đầy Tớ Chúa, nữ tu Maria Faustina Kowalska được Đức Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phúc vào Chúa Nhật sau đại lễ Phục Sinh, ngày được nhiều tín hữu khắp thế giới mừng như Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.

 

30.4.2000 - Nữ chân phúc Maria Faustina Kowalska được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc hiển thánh vào Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa trong đại năm thánh 2000. Đức Thánh Cha tuyên bố trong bài giảng thánh lễ: “Từ nay về sau, trong khắp Giáo Hội, Chúa Nhật thứ hai mùa Phục Sinh sẽ được gọi Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa”.

 

Về đầu trang

 

DẪN NHẬP

 

 

1. Thánh nữ Maria Faustina Kowalska ngày nay được khắp thế giới biết đến với tước hiệu “Tông Đồ Lòng Thương Xót Chúa” là một vị thánh được các nhà thần học kể vào số những nhà thần bí trổi vượt trong Giáo Hội.

 

Chị là người thứ ba trong số mười người con của một gia đình nông dân nghèo khó nhưng đạo đức tại Glogowiec, một làng quê nằm giữa đất nước Ba Lan. Khi được rửa tội tại nhà thờ giáo xứ Swinice Warckie lân cận, chị đã được nhận tên “Helena”. Ngay từ thời thơ ấu, Helena đã nổi bật với đời sống đạo hạnh, yêu thích cầu nguyện, chăm chỉ, vâng lời, và hết lòng thương cảm trước nỗi khổ đau của tha nhân. Helena được đi học trong thời gian chưa đầy ba năm, và đến năm 14 tuổi, chị đã phải rời bỏ mái ấm gia đình để mưu kế sinh nhai, giúp đỡ cha mẹ bằng công việc phụ giúp việc nhà tại thành phố Aleksandrow và Lodz kế cận.

 

Khi mới lên bảy tuổi (hai năm trước khi rước lễ lần đầu), Helena đã cảm nhận trong tâm hồn lời mời gọi theo đuổi đời sống tu trì. Sau đó, chị đã ngỏ ý muốn với cha mẹ, nhưng hai vị đều dứt khoát không đồng ý cho chị vào sống trong tu viện. Trước hoàn cảnh như thế, Helena đã cố bóp nghẹt lời mời gọi trong tâm hồn. Tuy nhiên, quá xao xuyến vì một thị kiến về Chúa Kitô tử nạn và những lời trách cứ của Người: “Cha còn phải chịu đựng con cho đến bao giờ, con còn phụ rẫy Cha cho đến bao giờ nữa đây?” (NK 9), Helena bắt đầu tìm cách để xin vào một tu viện. Chị đã gõ cửa không ít tu viện, nhưng không được nơi nào đón nhận. Cuối cùng, vào ngày 1 tháng 8 năm 1925, Helena đã được bước qua ngưỡng cửa của dòng Đức Mẹ Nhân Lành ở phố Zytnia tại Warsaw. Trong Nhật Ký, chị có viết: “Dường như tôi đã bước vào cuộc sống thiên đàng. Một lời kinh đã trào dâng từ tâm hồn tôi, một lời kinh tạ ơn” (NK 17).

 

Tuy nhiên, vài tuần lễ sau đó, chị bị cám dỗ mãnh liệt, muốn chuyển sang một dòng khác để có nhiều thời giờ hơn cho việc cầu nguyện. Chính lúc ấy, Chúa Giêsu đã tỏ cho chị thấy các thương tích và thánh nhan tử nạn của Người và phán: “Chính con gây cho Cha nỗi đau đớn này nếu như con rời bỏ tu viện. Đây là nơi Cha đã gọi con, chứ không phải một nơi nào khác; và Cha đã dọn sẵn nhiều ơn thánh cho con” (NK 19).

 

Khi vào dòng, Helena được nhận tên Maria Faustina. Chị đã sống thời kỳ năm tập tại Cracow, và cũng tại đây, trước sự chứng kiến của Đức Giám mục Stanislaus Rospond, chị đã tuyên lời khấn tạm lần đầu, và 5 năm sau, tuyên giữ trọn đời ba lời khấn thanh tịnh, khó nghèo và vâng phục. Chị được cắt cử làm một số công tác tại các tu viện của dòng; hầu hết thời gian là ở Cracow, Plock, và Vilnius, với các công tác làm bếp, làm vườn, và coi cổng.

 

Tất cả những cái vẻ bên ngoài ấy không làm hiện lộ một cuộc sống thần hiệp phong phú ngoại thường nơi chị dòng Faustina. Chị sốt sắng chu toàn các phận sự, trung thành giữ trọn luật dòng, sống đời sống nội tâm và giữ thinh lặng, trong khi đó vẫn sống trong sự tự nhiên, vui tươi, đầy nhân ái và yêu thương người chung quanh một cách vô vị lợi.

 

Tất cả đời sống của chị được tập trung vào việc liên lỉ cố gắng đạt đến một cuộc kết hiệp ngày càng mật thiết hơn với Thiên Chúa và quên mình cộng tác với Chúa Giêsu trong công cuộc cứu rỗi các linh hồn. Chị đã viết trong Nhật Ký, “Chúa biết ngay từ những năm đầu tiên, con đã muốn trở nên một vị đại thánh; tức là yêu mến Chúa bằng một tình yêu vĩ đại như chưa từng có linh hồn nào đã yêu mến Chúa như thế” (NK 1372).

 

Chính quyển Nhật ký của chị đã cho chúng ta thấy được những chiều sâu trong đời sống thiêng liêng của chị. Những tư liệu này - nếu được đọc chăm chú - sẽ làm hiện lên một bức tranh diễn tả mối thân tình hợp nhất cao độ giữa linh hồn chị với Thiên Chúa: sự khắng khít lạ lùng giữa Thiên Chúa với linh hồn chị, cũng như những nỗ lực và chiến đấu của chị trên con đường hoàn thiện Kitô Giáo. Chúa đã ban cho chị nhiều hồng ân phi thường: ơn chiêm niệm, ơn hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm Lòng Thương Xót Chúa, các thị kiến, mặc khải, những dấu thánh tiềm ẩn, ơn nói tiên tri, ơn đọc được tâm hồn người khác, và ơn quý trọng bậc nhiệm hôn. Tuy được hoan hưởng những hồng ân ấy rất dồi dào, nhưng chị đã viết: “Không phải các ân sủng, các mặc khải, các lần ngất trí, hoặc các ân huệ làm cho linh hồn nên hoàn hảo, nhưng chính là sự kết hợp mật thiết giữa linh hồn với Thiên Chúa... Sự thánh thiện và hoàn hảo của tôi hệ ở việc kết hợp mật thiết giữa ý chí tôi với ý chí Thiên Chúa” (NK 1107).

 

Nếp sống khổ hạnh và những lần chay tịnh đến kiệt sức ngay cả trước khi vào dòng của chị đã làm suy sụp yếu nhược thể trạng của chị, đến nỗi ngay trong thời gian thỉnh tu, chị đã được đưa đi Skolimow gần Warsaw để phục hồi sức khoẻ. Gần cuối năm đầu tiên trong thời kỳ nhà tập, chị còn phải trải qua những kinh nghiệm thần bí đớn đau lạ thường của giai đoạn vẫn được gọi là đêm tối giác quan, và sau đó là các đau khổ tinh thần và luân lý liên quan đến việc hoàn thành sứ mạng mà chị được nhận lãnh từ Chúa Kitô. Thánh nữ Faustina đã hy hiến cuộc đời cho các tội nhân, vì thế, chị đã chịu đựng những khổ đau tư bề để trợ giúp các linh hồn. Trong những năm tháng cuối đời của chị thánh, các đau khổ nội tâm của cái gọi là đêm thụ động của linh hồn và những bệnh nạn phần xác càng trở nên dữ dội hơn nữa. Căn bệnh lao của chị lan dần, tấn công những lá phổi và phần ruột non. Vì vậy, hai lần chị đã phải trải qua nhiều tháng điều trị ở bệnh viện phố Pradnik tại Cracow.

 

Tuy kiệt quệ về thể lý, nhưng chị Faustina đã đạt đến mức trưởng thành sung mãn trong đời sống thiêng liêng. Chị đã từ giã cõi trần khi chưa trọn 33 tuổi đời, giữa tiếng thơm thánh thiện, và được kết hiệp muôn đời với Thiên Chúa vào ngày 5 tháng 10 năm 1938, sau 13 năm trong cuộc sống tu trì. Thi hài của chị được an nghỉ tại ngôi mộ chung trong nghĩa trang tu viện tại Cracow-Lagiewniki. Năm 1966, trong khi thủ tục điều tra tôn phong chân phúc đang được xúc tiến, thi hài nữ tu Faustina đã được cải táng vào nhà nguyện của tu viện.

 

Chúa Giêsu đã uỷ thác cho chị nữ tu đơn sơ, kém học, nhưng can trường và tín thác vô hạn này một sứ mạng cao cả là rao truyền sứ điệp Lòng Thương Xót của Chúa cho thế giới, Người đã phán với chị: “Cha sai con đem tình thương của Cha đến cho toàn thế giới. Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim lân tuất của Cha” (NK 1588). “Con là thư ký của Lòng Thương Xót Cha. Cha đã tuyển dụng con làm nhiệm vụ ấy trên đời này và ở đời sau” (NK 1605)... “Nhiệm vụ và công tác suốt đời con là tiếp tục làm cho các linh hồn được biết về Lòng Thương Xót lớn lao của Cha dành cho họ, và kêu gọi họ hãy tín thác vào Lòng Thương Xót vô tận của Cha” (NK 1567).

 

2. Sứ mạng của thánh nữ Faustina. Sứ mạng chính yếu của chị thánh là nhắc nhở cho chúng ta về những chân lý đức tin ngàn đời nhưng dường như đã bị lãng quên về tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại, và truyền đạt cho chúng ta những hình thức mới mẻ của việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa, ngõ hầu làm hồi sinh cuộc sống thiêng liêng trong tinh thần tin tưởng và nhân ái của Kitô Giáo.

 

Quyển Nhật Ký Chúa Giêsu Kitô đã truyền cho chị thánh phải viết trong suốt bốn năm cuối đời chị là một tư liệu chuyên biệt ghi lại những sự kiện hoặc những biến cố hồi tưởng, chủ yếu liên quan đến những “lần gặp gỡ” giữa linh hồn chị với Thiên Chúa. Cần phải có một công trình phân tích mang tính nghiêm túc và học thuật về những tập Nhật Ký ấy, với mục đích chiết xuất tất cả những gì là thiết yếu đối với sứ mạng của chị thánh.

 

Công trình này đã được linh mục giáo sư Ignacy Rozycki, một thần học gia xuất chúng và được kính trọng thực hiện. Bản tóm lược công trình thần học mang tính học thuật của cha đã được ấn hành, dưới tựa đề Lòng Thương Xót Chúa: Những Đặc Điểm Cơ Bản của Việc Tôn Sùng Lòng Thương Xót Chúa.

 

So với công trình thần học quan trọng này, tất cả những ấn phẩm trước kia bàn về việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa theo thánh nữ Faustina dường như chỉ quan tâm đến một vài yếu tố hoặc những vấn đề tuỳ phụ mà thôi. Chẳng hạn, trong một số trường hợp, chỉ nhấn mạnh đến Kinh Cầu hoặc Tuần Cửu Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, nhưng lại lơ là với Giờ Thương Xót Vô Biên.

 

Cha Rozycki đã hướng chúng ta chú ý đến điều này khi nói rằng: “Trước khi làm quen với những yếu tố cụ thể của việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta cần phải ghi nhận rằng trong những yếu tố ấy, chúng ta sẽ không tìm được những tuần cửu nhật hoặc những kinh cầu nổi tiếng và được yêu chuộng”.

 

Căn bản cho việc tuyển chọn những lời kinh và những việc đạo đức này - chứ không phải những việc khác - làm những hình thức mới mẻ của việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa là những lời hứa cụ thể gắn liền với chúng mà Chúa Giêsu đã hứa ban, miễn là chúng ta tín thác vào lòng nhân lành của Thiên Chúa và sống nhân ái với những người lân cận. Cha Rozycki chỉ ra năm yếu tố của việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa.

 

a) Bức hình Chúa Giêsu Thương Xót. Kiểu dáng bức hình được tỏ ra trong cuộc thị kiến của chị Faustina, ngày 22 tháng 2 năm 1931, trong phòng tư của chị tại tu viện Plock. Chị ghi lại lời Chúa truyền trong Nhật Ký: “Hãy vẽ một bức hình theo như mẫu con nhìn thấy, với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa” (NK 47). “Cha muốn bức hình này, bức hình được con vẽ bằng một cây cọ, sẽ được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh; Chúa Nhật đó sẽ là ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Cha” (NK 49).

 

Vì vậy, nội dung của bức hình liên hệ gần gũi với phụng vụ của Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa. Hôm đó, Giáo Hội đọc bài Phúc Âm theo thánh Gioan, kể lại biến cố Chúa Kitô sống lại và hiện ra trong nhà Tiệc Ly, và việc thiết lập bí tích Hoà Giải (Ga 20,19-29). Như vậy, bức hình này biểu thị Đấng Cứu Thế phục sinh từ trong cõi chết, Đấng đem an bình đến cho nhân loại qua việc tha thứ tội lỗi bằng cái giá cuộc thương khó và tử nạn của Người trên thánh giá.

 

Những dòng máu và nước trào ra từ Trái Tim bị lưỡi đòng đâm thâu (không hiện rõ trong bức hình) và dấu vết các thương tích đóng đinh làm nhớ lại những biến cố ngày thứ Sáu tuần Thánh (Ga 19,17-18; 33-37). Vì vậy, bức hình Đấng Cứu Thế thương xót kết hợp hai biến cố trong Phúc Âm và biểu hiện rõ nét về mức độ sung mãn của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.

 

Hai luồng sáng là nét nổi bật trong bức hình Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu khi được hỏi về ý nghĩa bức ảnh đã giải thích: “Luồng sáng màu lam nhạt tượng trưng Nước làm cho linh hồn nên công chính. Luồng sáng màu đỏ tượng trưng Máu là sức sống của các linh hồn... Phúc cho linh hồn nào cư ngụ trong nơi nương náu của họ” (NK 299). Bí tích Thánh Tẩy và bí tích Hoà Giải thanh tẩy linh hồn, còn bí tích Thánh Thể làm cho linh hồn được nên giàu có sung túc. Như vậy, hai luồng sáng tượng trưng cho các bí tích thánh thiện ấy và tất cả những ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng trong Thánh Kinh được biểu thị bằng nước, cũng như giao ước mới giữa Thiên Chúa và nhân loại trong bửu huyết Chúa Kitô.

 

Bức hình Chúa Giêsu Thương Xót thường được gọi rất xứng hợp là bức hình “Chúa Thương Xót”, bởi vì bức hình này thể hiện rất rõ nét tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô.

 

Bức hình này không những biểu hiện Lòng Thương Xót Thiên Chúa, mà còn là một dấu hiệu nhắc nhở nghĩa vụ Kitô hữu phải tín thác vào Thiên Chúa và phải tích cực yêu thương người lân cận. Theo ý Chúa Kitô, bức hình phải mang hàng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa”. Người còn tuyên bố: “Đó sẽ một vật nhắc nhở về các yêu sách của Lòng Thương Xót Cha, bởi vì dù mạnh mẽ đến mấy, đức tin cũng chẳng ích gì nếu thiếu việc làm kèm theo” (NK 742).

 

Về việc tôn kính bức hình, được hiểu như cách thể hiện thái độ tin tưởng và nhân ái của Kitô Giáo, Chúa đã hứa ban những ơn trọng đại, đó là ơn phần rỗi muôn đời, ơn mạnh tiến trên đường hoàn thiện Kitô giáo, ơn chết lành, và tất cả những ơn người ta nài xin Chúa với lòng tin tưởng: “Qua bức hình, Cha sẽ ban nhiều ân sủng cho các linh hồn; vậy hãy để mọi người đến được với bức hình ấy” (NK 570).

 

b) Lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Lễ này được đặt cao nhất trong tất cả những yếu tố của việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa được mặc khải cho thánh nữ Faustina. Chúa Giêsu đã yêu cầu thiết lập lễ này lần đầu tiên tại Plock vào năm 1931, khi Người tỏ ý muốn về việc vẽ bức hình: “Cha ước ao có một lễ kính thờ Lòng Thương Xót của Cha. Cha muốn bức hình này, bức hình được con vẽ bằng một cây cọ, sẽ được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh; Chúa Nhật đó sẽ là ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Cha” (NK 49).

 

Việc chọn Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh làm ngày lễ kính Lòng Thương Xót Chúa mang một ý nghĩa thần học sâu xa, nói lên mối tương quan gần gũi giữa mầu nhiệm Phục Sinh cứu độ với mầu nhiệm Lòng Thương Xót Chúa. Mối tương quan mật thiết này còn được nhấn mạnh hơn nữa qua tuần Cửu Nhật với chuỗi kinh kính Lòng Thương Xót Chúa, bắt đầu từ ngày thứ Sáu tuần Thánh để dọn mình mừng lễ.

 

Lễ này không những là một ngày dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa trong mầu nhiệm Lòng Thương Xót của Người, mà còn là một thời gian ân sủng dành cho mọi người. Chúa Giêsu đã phán: “Cha ước mong đại lễ kính Lòng Thương Xót Cha trở thành chỗ nương náu và trú ẩn cho mọi linh hồn, nhất là các tội nhân đáng thương” (NK 699). “Các linh hồn vẫn cứ hư mất mặc dù đã có cuộc Khổ Nạn cay đắng của Cha. Cha ban cho họ niềm hy vọng sau cùng về phần rỗi; đó là ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Cha. Nếu họ không sùng kính Lòng Thương Xót Cha, họ sẽ phải hư mất muôn đời” (x. NK 965, 998).

 

Tầm mức cao quý của ngày lễ này được đo lường bằng mức độ những lời hứa trọng đại mà Chúa đã gắn liền với dịp lễ, Chúa Giêsu đã phán: “... bất kỳ ai đến với Nguồn Mạch Sự Sống sẽ hoàn toàn được xoá sạch tội lỗi và hình phạt” (NK 300), và “Trong ngày hôm ấy, lượng thương xót dịu hiền thẳm sâu của Cha sẽ được khai mở. Cha trào đổ cả một đại dương ân sủng xuống cho các linh hồn tìm đến với nguồn mạch xót thương của Cha. Người nào xưng tội và chịu lễ sẽ được lãnh nhận hồng ân thứ tha mọi tội lỗi và mọi hình phạt. Ngày hôm ấy, mọi chốt ngăn những nguồn thác ân sủng đều được tháo mở. Đừng linh hồn nào sợ đến bên Cha, cho dù tội lỗi họ có đỏ thắm như điều” (NK 699).

 

Để được hưởng nhờ những ơn ích trọng đại ấy, chúng ta phải hội đủ những điều kiện của việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa (tín thác vào lòng nhân lành của Thiên Chúa và sống nhân ái với người chung quanh), phải sống trong tình trạng ơn thánh - xưng tội, và hiệp lễ xứng đáng. Chúa Giêsu đã giải thích: “Không một linh hồn nào sẽ được công chính hoá trước khi quay về với Lòng Thương Xót Cha trong niềm tín thác, đó là lý do Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh sẽ là đại lễ kính Lòng Thương Xót Cha. Trong ngày đó, các linh mục hãy nói cho mọi người về Lòng Thương Xót vĩ đại khôn dò của Cha” (NK 570).

 

c) Chuỗi kinh Lòng Thương Xót Chúa. Chuỗi kinh này Chúa Giêsu đã dạy cho thánh nữ Faustina tại Vilnius vào các ngày 13 và 14 tháng 9 năm 1935, như một lời kinh đền tạ hầu làm nguôi cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa (x. NK 474-476).

 

Những ai đọc chuỗi kinh này sẽ dâng lên Thiên Chúa Cha “Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính” của Chúa Giêsu Kitô để đền vì tội lỗi của mình, của người thân, và của toàn thế giới. Bằng việc liên kết với hy tế của Chúa Giêsu, họ kêu nài tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Cha trên trời dành cho Con Một, và trong Người, dành cho toàn thể nhân loại.

 

Bằng lời kinh này, các tín hữu nài xin Lòng Thương Xót cho chính họ và toàn thể thế giới, và như thế, họ thực thi một công việc nhân ái. Nếu các tín hữu thêm vào đó một căn bản là lòng tín thác và hội đủ các điều kiện của mọi lời cầu nguyện tốt lành (khiêm nhượng, kiên trì, hợp với thánh ý Chúa), họ có thể trông đợi Chúa Kitô sẽ hoàn thành những lời hứa đặc biệt liên quan đến giờ chết: đó là ơn được sám hối và chết lành.

 

Không chỉ những người đọc chuỗi kinh, mà cả những người hấp hối cũng được lãnh nhận các ơn này, khi có người khác đọc kinh nguyện này bên giường của họ. Chúa đã hứa: “Khi chuỗi kinh này được đọc bên giường người hấp hối, cơn nghĩa nộ Thiên Chúa sẽ dịu xuống, lượng nhân từ vô biên sẽ bao phủ linh hồn ấy” (NK 811). Lời hứa tổng quát là: “Cha vui lòng ban mọi điều họ nài xin Cha bằng việc lần chuỗi kinh ấy” (NK 1541). “... nếu những điều con xin phù hợp với thánh ý Cha” (NK 1731). Bởi vì bất cứ điều gì không phù hợp với thánh ý Chúa đều không tốt cho con người, nhất là cho hạnh phúc đời đời của họ.

 

Trong một dịp khác, Chúa Giêsu đã phán: “... bằng việc đọc chuỗi kinh, con sẽ đem nhân loại đến gần Cha hơn” (NK 929), và: “Linh hồn nào đọc chuỗi kinh này sẽ được Lòng Thương Xót Cha ấp ủ trong suốt cuộc sống, và nhất là trong giờ chết” (NK 754).

 

d) Giờ Thương Xót Vô Biên. Trong những hoàn cảnh không được ghi lại đầy đủ trong Nhật Ký, vào tháng 10 năm 1937, tại Cracow, Chúa Giêsu đã mời chị thánh hãy tôn vinh giờ chết của Người: “... mỗi khi nghe đồng hồ điểm ba giờ, con hãy dìm mình hoàn toàn trong Lòng Thương Xót của Cha để thờ lạy và tôn vinh; con hãy kêu nài quyền toàn năng Lòng Thương Xót Cha cho toàn thế giới, nhất là cho các tội nhân đáng thương; vì vào giờ phút ấy, lượng tình thương được mở ra cho mọi linh hồn” (NK 1572).

 

Chúa Giêsu cũng xác định những lời nguyện này rất phù hợp với hình thức tôn sùng Lòng Thương Xót: “... con hãy cố gắng hết sức - miễn là bổn phận cho phép - để suy ngắm Đường Thánh Giá trong giờ ấy; nếu không thể suy ngắm Đường Thánh Giá, ít là con hãy vào nhà nguyện một lúc để thờ lạy Thánh Thể, Trái Tim đầy lân tuất của Cha; và giả như cũng không thể vào nhà nguyện, con hãy dìm mình vào sự cầu nguyện ở bất cứ nơi đâu trong một lúc ngắn ngủi” (NK 1572).

 

Linh mục giáo sư Rozycki đã liệt kê ba điều kiện để lời cầu nguyện được dâng lên trong giờ phút ấy được Chúa nhậm lời:

 

1. Phải thưa lên với Chúa Giêsu.

 

2. Phải được đọc vào lúc ba giờ chiều.

 

3. Phải cậy nhờ đến giá trị và những công nghiệp cuộc Thương Khó của Chúa Kitô.

 

Chúa Giêsu đã hứa: “Trong giờ ấy, con xin được mọi sự cho chính con và những linh hồn được con cầu nguyện; đó là giờ ân sủng cho toàn thế giới - Lòng Thương Xót vinh thắng phép công thẳng” (NK 1572).

 

e) Truyền bá việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa. Khi bàn đến những yếu tố thiết yếu của việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa, cha Rozycki cũng coi việc truyền bá là một trong các yếu tố việc tôn sùng ấy, vì Chúa Kitô đã dành một số lời hứa cho việc này: “Linh hồn nào truyền bá việc sùng kính Lòng Thương Xót Cha, Cha sẽ bảo bọc họ suốt đời như mẹ hiền đối với con thơ, và đến giờ lâm tử của họ, Cha không phải là thẩm phán, nhưng là Đấng Cứu Chuộc đầy lân tuất với họ” (NK 1075).

 

Yếu tính việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa là thái độ tín thác vào Thiên Chúa và tích cực sống nhân ái với người lân cận. Chúa Giêsu phán: “Cha khao khát niềm tín thác từ các thụ tạo của Cha” (NK 1059), và Người mong đợi họ hãy thể hiện lòng nhân ái qua các việc làm, lời nói, và lời cầu nguyện. Chúa còn phán: “Ở mọi nơi và trong mọi lúc, con hãy tỏ lòng nhân ái với những người lân cận. Con không được thoái thác, kiếm cớ chữa mình hay tự miễn cho mình điều ấy” (NK 742). Chúa Kitô muốn những ai thờ phượng Người hãy thực hiện mỗi ngày ít nhất một hành vi đức ái với người lân cận.

 

Việc truyền bá việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa không đòi hỏi nhiều lời, nhưng luôn luôn phải có thái độ đức tin Kitô giáo, tín thác vào Thiên Chúa và sống ngày càng nhân ái hơn. Trong cuộc sống của mình, thánh nữ Faustina đã nêu một tấm gương về công việc tông đồ như thế.

 

f) Việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa hướng đến mục tiêu canh tân đời sống đạo đức trong Giáo Hội trong tinh thần tín thác và nhân ái của Kitô giáo. Trong bối cảnh này, chúng ta hãy xét đến ý tưởng về “một dòng tu mới” mà chúng ta gặp trong những trang của quyển Nhật Ký. Ước vọng này của Chúa Kitô được dần dần hiện rõ trong suy tư của chị thánh Faustina, và trải qua một cuộc biến đổi - từ một dòng tu chiêm niệm ngặt phép sang hẳn một phong trào kết nạp cả những cộng đoàn tu trì hoạt động (nam và nữ) lẫn thành phần giáo dân.

 

Cộng đoàn vĩ đại siêu quốc gia này chỉ là một gia đình, trước tiên nhờ Chúa mà được hợp nhất trong mầu nhiệm Lòng Thương Xót của Người, và kế đến là nhờ lòng khát khao, vừa để giãi chiếu ánh lòng nhân ái trong tâm hồn và công việc của họ, vừa để vinh quang Chúa được chiếu toả nơi mọi tâm hồn. Đó là một cộng đoàn gồm những người khác biệt, tuỳ theo bậc sống và ơn gọi mỗi người (linh mục, tu sĩ, hoặc giáo dân), sống lý tưởng tín thác và nhân ái của Phúc Âm, đồng thời rao giảng mầu nhiệm cao vời về Lòng Thương Xót Chúa bằng đời sống và lời nói của mình để nài xin ơn thương xót cho thế giới.

 

Sứ mạng của thánh nữ Faustina có một nền tảng vững chắc trong Thánh Kinh và giáo huấn Giáo Hội; nhất là phù hợp một cách tuyệt vời với tông huấn Dives in misericordia (Thiên Chúa Giàu Lòng Xót Thương) của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.

 

Cracow, tháng 12 năm 1991

 

Nữ tu M. Elizabeth Siepak, ZMBM

 

-------------------------------

 

Về đầu trang

TẬP MỘT : LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA NƠI LINH HỒN TÔI

 

 

NHẬT KÝ NỮ TU MARIA FAUSTINA

 

 

 

1              (1) Ôi Tình Yêu Hằng Hữu, Chúa truyền vẽ bức hình [1] của Chúa

 

            Và tỏ cho chúng con nguồn mạch lòng xót thương khôn dò,

 

                Chúa chúc lành cho bất cứ ai đến với những luồng sáng của Chúa,

 

            Một linh hồn đen đủi cũng được trở nên như tuyết.

 

            Ôi Chúa Giêsu ngọt ngào, chính nơi đây [2] Chúa đã thiết lập ngai toà xót thương của Chúa

 

            Để đem đến niềm vui và hy vọng cho nhân loại tội lỗi.

 

                Từ Trái Tim rộng mở của Chúa như một nguồn mạch tinh khiết

 

            Trào tuôn ủi an cho trái tim và linh hồn hối nhân.

 

Ước chi lời chúc tụng và vinh quang cho bức hình này

 

            Không bao giờ ngưng trào dâng từ tâm hồn nhân loại.

 

                Ước chi mọi trái tim đều dâng lời ca tụng lòng xót thương Chúa,

 

            Bây giờ, trong từng giờ, và muôn kiếp muôn đời.

 

Ôi Thiên Chúa của con

 

2          Khi nhìn về tương lai, con thấy rợn rùng,

 

            Nhưng tại sao lại phải lao vào tương lai?

 

            Chỉ có giây phút hiện tại là quý giá với con mà thôi,

 

            Vì biết đâu tương lai sẽ không bao giờ đến với hồn con.

 

            Con không còn khả năng

 

            Để thay đổi, sửa sai, hay thêm thắt vào quá khứ;

 

            Đến các nhà thông thái và ngôn sứ còn chẳng làm nổi điều ấy.

 

                Và như thế, điều gì thuộc về quá khứ, con phải giao phó cho Thiên Chúa.

 

            Ôi giây phút hiện tại, ngươi thuộc về tôi, tất cả trọn vẹn.

 

            Tôi muốn tận dụng ngươi hết sức có thể.

 

            Mặc dù con yếu đuối bé bỏng,

 

            Nhưng Chúa ban cho con hồng ân quyền toàn năng Chúa.

 

          

 

Vì thế, tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa,

 

            Con bước trên đường đời như một em nhỏ,

 

            Hằng ngày con dâng hiến lên Chúa trái tim

 

            Cháy bỏng tình yêu cho Chúa được vinh quang hơn.

 

            (2) + J.M.J. [Giêsu, Maria, Giuse]

 

Thiên Chúa và các linh hồn

 

3          Lạy Vua chí nhân, xin hướng dẫn linh hồn con

 

Nữ tu M. Faustina phép Thánh Thể

 

Vilnius, ngày 28 tháng 7 năm 1934

 

4          Ôi Giêsu của con, nhờ tín thác vào Chúa,

 

            Con đan kết hàng ngàn vòng hoa, và con biết

 

            Rồi chúng sẽ nở rộ tất cả.

 

            Khi thái dương của Chúa chiếu toả trên chúng.

 

            + Ôi Nhiệm Tích Cực Thánh cao vời

 

            Che khuất Thiên Chúa của con!

 

            Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ở với con từng phút giây,

 

            Và đừng ngại ngự đến lòng con.

 

            (3) + J.M.J.      Vilnius, ngày 28 tháng 7 năm 1934

 

                                     + Tập đầu tiên

 

Thiên Chúa và Các Linh Hồn

 

5          Nguyện Chúa được tôn thờ, lạy Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, bây giờ và mãi mãi.

 

                Nguyện Chúa được tôn thờ nơi mọi công trình và mọi thụ tạo của Chúa.

 

            Lạy Chúa, ước chi Lòng Thương Xót hải hà của Chúa được ngưỡng mộ và chúc vinh.

 

6          Lạy Chúa, con sẽ ghi lại [3] những cuộc gặp gỡ giữa hồn con với Chúa, những giây phút Chúa ghé đến thăm hồn con. Con sẽ viết về Chúa, lạy Đấng Vô Cùng trong tình thương dành cho linh hồn khốn nạn của con. Thánh ý Chúa là sự sống của linh hồn con. Con đã lãnh nhận mệnh lệnh này qua vị đại diện dưới thế của Chúa, người giải thích thánh ý Chúa cho con. Lạy Chúa Giêsu, Chúa thấy việc ghi chép như thế thật khó khăn cho con, con không có khả năng ghi lại rõ ràng những điều cảm nghiệm trong linh hồn. Lạy Chúa, một cây bút có được ghi lại rằng nhiều lần nó không sao viết nổi một chữ hay không? Nhưng lạy Chúa, Chúa truyền lệnh phải viết, và thế là đủ cho con rồi.

 

Warsaw, ngày 1 tháng 8 năm 1925

 

Vào Dòng

 

7          Năm lên bảy tuổi, tôi đã nghiệm được tiếng gọi Chúa dứt khoát, hồng ân mời gọi vào bậc sống tu trì. Năm lên bảy tuổi, lần đầu tiên trong đời tôi đã nghe được tiếng Chúa trong tâm hồn; đó là lời mời gọi tôi theo đuổi một nếp sống trọn lành hơn. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng nghe theo tiếng gọi ân sủng ấy. Tôi chẳng gặp được một ai giải thích cho tôi về những điều này.

 

8          Năm mười tám tuổi, tôi tha thiết xin cha mẹ cho vào dòng, nhưng các ngài đã cương quyết từ chối. Sau lần từ chối ấy, tôi đã quay về với những sự phù phiếm ở đời, không còn lưu tâm đến ơn gọi, mặc dù tâm hồn tôi không được thoả nguyện trong những điều ấy. (4) Tiếng gọi thánh ân không ngừng gây cho tôi rất nhiều trăn trở; vậy mà tôi đã cố gắng bóp nghẹt bằng những thú vui. Tận thâm tâm, tôi đã lẩn tránh Chúa, dành trọn trái tim cho các thụ tạo. Tuy nhiên, ơn Chúa đã chiến thắng lòng tôi.

 

9          Lần kia, cùng với người em gái, tôi đi tham dự một buổi khiêu vũ [có lẽ tại Lodz]. Giữa lúc ai nấy đang tươi vui thì linh hồn tôi lại cảm thấy những ray rứt đay nghiến. Khi bắt đầu khiêu vũ, tôi bỗng thấy Chúa Giêsu ở ngay bên cạnh, Người đang chịu cực hình, y phục bị tước lột, toàn thân đầy thương tích, và Người than van với tôi những lời này: Cha còn phải chịu đựng con cho đến bao giờ, con còn phụ rẫy Cha con đến bao giờ nữa đây?. Lúc ấy, tiếng nhạc dìu dặt bỗng ngưng bặt, [và] những người khiêu vũ với tôi chẳng còn thấy đâu cả; ở đó chỉ còn Chúa Giêsu và tôi. Tôi ngồi xuống cạnh người em yêu quý của tôi, giả vờ nhức đầu để che đậy những điều đang xảy ra trong linh hồn. Một lúc sau, tôi lẻn ra về, bỏ mặc em tôi ở lại với những người khác, và tôi đi về hướng vương cung thánh đường Stanislaus Kotska.

 

            Trời đã nhá nhem tối; trong thánh đường chỉ còn một vài người. Không màng đến những gì đang xảy ra chung quanh, tôi sấp mình xuống trước Thánh Thể và nài xin Chúa dủ lòng thương cho tôi được biết sẽ phải làm gì kế tiếp.

 

10        Lúc đó, tôi đã nghe được những lời này: Con hãy lập tức đi Warsaw; con sẽ vào một tu viện ở đó. Tôi ngừng cầu nguyện, chỗi dậy trở về nhà và lo liệu những gì cần giải quyết. Tôi đã hết sức cố gắng để thổ lộ với chị tôi những điều diễn ra trong linh hồn. Tôi nhờ chị thưa lời từ biệt với cha mẹ, và thế là ngoài bộ đồ duy nhất trên người, không có một hành lý nào khác, tôi đã đến Warsaw.

 

11        Khi bước xuống xe lửa và thấy mạnh ai đi đường nấy, tôi bàng hoàng hoảng sợ. Tôi sẽ làm gì đây? Phải hướng về ai đây trong khi không quen biết một ai? Thế là tôi cầu với Mẹ Thiên Chúa: “Lạy Mẹ Maria, xin dìu dắt, xin hướng dẫn con”. Lập tức trong lòng tôi nghe được những lời bảo tôi rời bỏ thành phố và đến một làng lân cận, ở đó, tôi sẽ tìm được một chỗ trọ an toàn qua đêm. Tôi đã làm theo, và quả thực mọi sự xảy ra đúng như lời Mẹ Thiên Chúa đã dạy tôi.

 

12        Sáng sớm hôm sau, tôi trở lại thành phố và ghé vào nhà thờ đầu tiên tôi gặp được [nhà thờ thánh Giacôbê trên đường Grojecka tại Ochota, ngoại ô của thành phố Warsaw]. Ở đó, tôi bắt đầu cầu nguyện để được biết thánh ý Chúa rõ hơn. Các thánh lễ được cử hành liên tiếp. Trong một thánh lễ, tôi đã được nghe lời này: Con hãy đến gặp vị linh mục ấy [cha James Dabrowski, cha sở giáo xứ thánh Giacôbê] và cho ngài biết tất cả; ngài sẽ dạy con phải làm gì tiếp theo. Sau thánh lễ, tôi lên phòng áo (5) và kể cho vị linh mục tất cả những gì đang diễn ra trong linh hồn, và xin ngài cho biết nên dâng mình ở đâu, trong dòng tu nào.

 

13        Lúc đầu, vị linh mục cảm thấy ngạc nhiên, nhưng ngài dạy tôi hãy mạnh mẽ tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lo liệu cho tương lai cho tôi. Ngài nói: “Bây giờ, cha sẽ gởi con đến trọ với một bà đạo đức [Aldona Lipszycowa [4]], và con hãy ở lại đó cho đến khi vào tu viện”. Khi tôi đến gặp người phụ nữ ấy, bà đã tiếp đón tôi rất nồng hậu. Trong thời gian ngụ tại nhà bà, tôi để ý tìm một tu viện, nhưng gõ cửa tu viện nào cũng bị từ chối. Nỗi buồn nặng trĩu tâm hồn, tôi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin giúp con; xin đừng bỏ con lẻ loi”. Cuối cùng, tôi đã gõ cửa nhà dòng của chúng tôi. [5]

 

14        Khi Mẹ Bề Trên, tức là Mẹ Tổng Quyền Michael [6] hiện nay ra gặp tôi, sau một lúc nói chuyện, Mẹ đã bảo tôi đến gặp Chủ Nhân nhà dòng và hỏi xem Người có nhận tôi không. Tôi hiểu ngay sẽ phải xin điều ấy với Chúa Giêsu. Hết sức vui mừng, tôi lên nhà nguyện và xin Chúa Giêsu: “Thưa Chủ Nhân của nhà này, Chúa có nhận con không?”. Một nữ tu ở đây đã dạy con phải thưa với Chúa như vậy”.

 

            Tức thì tôi nghe được lời này: Cha nhận; con ở trong Trái Tim Cha. Khi tôi ra khỏi nhà nguyện, Mẹ Bề Trên liền hỏi: “A, Chúa đã nhận rồi phải không?”. Tôi thưa: “Vâng ạ” [Mẹ nói]: “Nếu Chúa đã nhận thì tôi cũng nhận”.

 

15        Tôi đã được nhận vào dòng như thế. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, tôi vẫn phải sống ngoài thế gian hơn một năm nữa với người phụ nữ đạo đức (Aldona Lipszycowa], nhưng không trở về nhà quê.

 

            Hồi đó, tôi phải đương đầu với nhiều khó khăn, nhưng Thiên Chúa đã ban tràn đầy ân sủng của Người cho tôi. Một niềm khao khát Thiên Chúa ngày càng thấm thía trong tôi. Người phụ nữ ấy tuy đạo đức, nhưng không hiểu được hạnh phúc của đời tu trì, nên bà đã theo lòng tốt mà sắt đặt những chương trình cho cuộc đời tôi. Tuy nhiên, tôi cảm thấy tôi có một tâm hồn lớn lao, không gì có thể lấp đầy. Và vì thế, tôi đã dành trọn vẹn niềm khao khát của mình cho Thiên Chúa.

 

16        Trong thời gian tuần bát nhật trước lễ kính Mình Máu Chúa Kitô [ngày 25 tháng 6 năm 1925], Thiên Chúa đã ban tràn đầy ánh sáng cho linh hồn tôi hiểu biết sâu xa rằng Người là Đấng Toàn Thiện Toàn Mỹ. Tôi đã hiểu Thiên Chúa yêu thương tôi là dường nào. Tình yêu Người dành cho tôi là tình yêu muôn thuở. Lúc ấy là giờ kinh Chiều, với những lời kinh đơn sơ trào dâng tự đáy lòng, tôi đã tuyên khấn với Chúa (6) giữ đức khiết tịnh trọn đời. Từ giây phút ấy, tôi cảm thấy một tình thân nồng nàn với Chúa, Đấng Tình Quân của tôi. Cũng từ lúc ấy, tôi lập một gian phòng nhỏ trong tâm hồn, để ở đó, lúc nào tôi cũng có thể tình tự với Chúa Giêsu.

 

17        Cuối cùng, cánh cửa tu viện cũng mở ra đón nhận tôi - hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 8 [năm 1925], vào chiều tối, vọng lễ Nữ Vương các thiên thần. Tôi cảm thấy hạnh phúc trào tràn; lúc ấy, dường như tôi đã bước vào cuộc sống thiên đàng. Một lời kinh đã trào dâng từ tâm hồn tôi, một lời kinh tạ ơn.

 

18        Tuy nhiên, ba tuần lễ sau đó, tôi nhận ra ở đây dành quá ít thời giờ cho việc cầu nguyện, và có nhiều điều rỉ rón với linh hồn tôi nên vào một cộng đoàn tu trì ngặt phép hơn. Ý tưởng này bám riết linh hồn tôi, nhưng thánh ý Chúa không có trong đó. Tuy vậy, ý tưởng ấy, đúng hơn là cơn cám dỗ ấy, ngày càng mãnh liệt đến độ tôi đã quyết định một ngày sẽ thưa với Mẹ Bề Trên về việc ra đi, dứt khoát rời bỏ [tu viện]. Nhưng Thiên Chúa đã an bài các hoàn cảnh khiến tôi không sao gặp được Mẹ Bề Trên Michael. Trước lúc đi ngủ, tôi ghé vào nhà nguyện nhỏ [7] và xin Chúa Giêsu soi sáng trong vấn đề này. Nhưng tôi không nhận được gì trong linh hồn, ngoại trừ một sự day dứt kỳ lạ không sao hiểu nổi. Nhưng bất chấp tất cả, tôi quyết định ngay sau thánh lễ sáng hôm sau sẽ xin gặp Mẹ Bề Trên để thưa về quyết định của tôi.

 

19        Tôi trở về phòng riêng. Các chị em đã đi ngủ cả - đèn đã tắt hết. Tôi vào phòng, lòng đầy những trằn trọc băn khoăn; không biết phải làm gì bây giờ. Tôi vật mình xuống đất và cất lời tha thiết cầu nguyện để tìm biết thánh ý Chúa. Một sự vắng lặng bao trùm khắp nơi, như thể trong nhà tạm. Tất cả chị em đang ngon giấc như những bánh thánh được xếp trong chén thánh của Chúa Giêsu. Riêng từ gian phòng của tôi, Thiên Chúa có thể nghe thấy tiếng thở than của một linh hồn. Tôi không biết có được cầu nguyện trong phòng sau chín giờ mà không cần phép hay không. [8]

 

            Một lát sau, ánh sáng tràn ngập gian phòng, và trên bức màn, tôi nhìn thấy Thánh Nhan ưu sầu của Chúa Giêsu. Trên thánh nhan Người còn đó những thương tích há miệng, với những giọt nước mắt lã chã rớt xuống tấm đệm trên giường tôi. Không hiểu tất cả điều ấy có ý nghĩa gì, tôi liền thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, ai đã làm cho Chúa đau đớn dường ấy?”. Và Chúa Giêsu đã nói với tôi: Chính con gây cho Cha nỗi đau đớn này nếu như con rời bỏ tu viện. Đây là nơi Cha đã gọi con, chứ không phải một nơi nào khác; và Cha đã dọn sẵn nhiều ơn thánh cho con. Tôi nài xin Chúa Giêsu tha thứ và lập tức thay đổi quyết định của mình.

 

            (7) Hôm sau nhằm ngày xưng tội. Tôi trình bày đầu đuôi những gì đã xảy ra trong linh hồn, và cha giải tội đã cho tôi biết từ đây thánh ý Chúa đã rõ ràng: tôi phải ở lại cộng đoàn này, và thậm chí không được phép nghĩ đến một dòng tu nào khác. Kể từ đó, lúc nào tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.

 

20        Sau đó một thời gian ngắn, tôi ngã bệnh [do kiệt sức]. Mẹ Bề Trên quý yêu đã cho tôi cùng hai chị khác đến Skolimow, một nơi không xa Warsaw, để dưỡng sức. Lúc ấy, tôi hỏi Chúa nên cầu nguyện cho ai khác nữa. Chúa Giêsu đáp rằng tối hôm sau Người sẽ tỏ cho tôi biết.

 

            [Đêm hôm sau] tôi được thấy thiên thần Bản Mệnh và ngài ra lệnh cho tôi đi theo. Tôi đang ở trong một nơi mù mịt, đầy những lửa cháy, trong đó có rất nhiều linh hồn đang quằn quại. Các ngài cầu nguyện sốt sắng, nhưng lại không lãnh nhận được gì; chỉ chúng ta mới có thể giúp đỡ họ được. Những ngọn lửa đang thiêu đốt các vị ấy không chạm vào tôi chút nào. Tôi hỏi các linh hồn ấy đau khổ nào làm các ngài cay cực nhất. Họ đồng thanh đáp cực hình kinh khiếp nhất của họ chính là nỗi khao khát Thiên Chúa. Tôi cũng thấy Đức Mẹ xuống thăm các linh hồn trong luyện ngục. Các linh hồn xưng tụng Mẹ là “Sao Biển”. Mẹ mang theo sự dịu mát cho các linh hồn. Tôi muốn nói chuyện với các linh hồn thêm một lúc nữa, nhưng thiên thần Bản Mệnh đã vẫy tôi về. Chúng tôi ra khỏi ngục tù đau đớn ấy. [Tôi nghe một tiếng nói trong lòng] Lòng nhân lành của Cha không muốn điều ấy, nhưng phép công bình đòi phải như vậy. Kể từ đó, tôi kết hợp mật thiết hơn với các linh hồn đau khổ ấy.

 

21        Cuối thời gian thỉnh viện [ngày 29 tháng 4 năm 1926] - các bề trên [có lẽ là Mẹ Leonard và Mẹ Jane [9]] gởi tôi đến tập viện tại Cracow. Một niềm vui mênh mang dạt dào linh hồn tôi. Khi chúng tôi đến tập viện, chị ấy [Henry [10]] đang hấp hối. Một vài hôm sau, chị hiện về [linh hồn, sau khi qua đời] và bảo tôi đến gặp Mẹ Giám Tập [Margaret [11]] để nhờ Mẹ thỉnh cầu vị giải tội của chị là cha Rospond [12] dâng một thánh lễ và ba lời nguyện tắt để cầu cho chị. Ban đầu tôi đồng ý, nhưng hôm sau, tôi quyết định không đến gặp Mẹ Giám Tập nữa bởi vì không dám chắc điều ấy là thực tế (8) hoặc chỉ là giấc mơ. Và vì thế, tôi không đi.

 

            Đêm hôm sau, điều ấy lại xảy ra rõ ràng hơn; tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, đến sáng, tôi lại quyết định không kể cho Mẹ Giám Tập, trừ phi tôi được thấy chị [Henry] trong ngày. Một lần nữa, tôi lại gặp chị tại hành lang. Chị trách tôi đã không đi lập tức, và một sự day dứt đay nghiến linh hồn tôi. Thế là tôi liền đi gặp và kể cho Mẹ Giám Tập tất cả những gì đã xảy ra. Mẹ cho biết sẽ lưu tâm đến chuyện ấy. Tức khắc, niềm bình an dào dạt linh hồn tôi, và đến ngày thứ ba, chị ấy lại đến gặp tôi và nói: “Xin Chúa trả công cho chị”.

 

22        Ngày tôi được mặc áo [dòng] [13], Thiên Chúa đã cho tôi biết sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Tôi thấy rõ tôi đang hiến thân cho điều gì. Tôi đã trải nghiệm một giây phút của nỗi đau đớn ấy. Nhưng lúc đó, Thiên Chúa lại trào đổ cho linh hồn tôi những niềm ủi an vô bờ.

 

23        Gần hết năm đầu trong thời gian tập viện, bóng tối đã bắt đầu bao phủ linh hồn tôi. Tôi không còn cảm thấy ủi an trong lúc cầu nguyện; và phải hết sức cố gắng để nguyện gẫm; nỗi sợ hãi bắt đầu xâm chiếm tôi. Càng đi sâu vào bản thân, tôi chỉ thấy toàn những khốn nạn thê thảm. Nhưng tôi cũng thấy rõ ràng sự thánh thiện cao vời của Thiên Chúa. Tôi không dám ngước mắt chiêm ngắm Người, nhưng sấp mình tận cát bụi dưới chân Người và khẩn nài Lòng Thương Xót. Linh hồn tôi sống trong tình trạng ấy gần sáu tháng trời. Mẹ Giám Tập quý yêu của chúng tôi [Mary Joseph [14]] đã đem đến cho tôi sự can đảm trong những thời gian não nề ấy. Nhưng nỗi đau càng ngày càng tê tái.

 

            Năm thứ hai trong thời gian tập viện của tôi gần đến. Mỗi khi nghĩ đến việc tuyên giữ các lời khấn, linh hồn tôi run giùng. Tôi không hiểu mình đang đọc gì; tôi không thể nguyện gẫm; dường như những kinh nguyện của tôi không làm cho Chúa thoả lòng. Việc lãnh thụ các nhiệm tích của tôi hình như chỉ xúc phạm nhiều hơn đến Thiên Chúa mà thôi. Nhưng dù vậy, cha giải tội [Theodore [15]] vẫn không cho tôi bỏ rước lễ một lần nào. Thiên Chúa đang hoạt động một cách hết sức lạ kỳ trong linh hồn tôi. Tôi không hiểu gì về những điều cha giải tội chỉ dạy. Những chân lý đức tin giản đơn cũng trở nên không sao hiểu nổi đối với tôi. Linh hồn tôi trong cảnh phiền muộn, không tìm đâu được niềm an ủi.

 

            (9) Và rồi đến tình trạng tôi yên trí mình đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Tư tưởng khủng khiếp này xuyên thấu linh hồn tôi; giữa cơn thống khổ ấy, linh hồn tôi bắt đầu cảm nghiệm nỗi tang tóc sự chết. Tôi đã muốn chết cho xong mà không sao chết được. Một tư tưởng lởn vởn đến với tôi: cố gắng tập tành các nhân đức để làm gì; tại sao lại phải khổ chế bản thân trong khi mọi sự đều gớm ghiếc trước mặt Chúa? Khi trình bày điều này với Mẹ Giám Tập, tôi đã được trả lời thế này, “Chị yêu quý, chị hãy biết Thiên Chúa đã tuyển chọn chị để sống mật thiết với Người trên thiên đàng. Chị hãy hết lòng tín thác vào Chúa Giêsu”.

 

            Nghĩ đến việc bị Thiên Chúa ruồng bỏ là một cực hình thực sự kinh hoàng đối với những người bị đoạ phạt. Tôi chạy đến với các thương tích Chúa Giêsu và lặp đi lặp lại những lời tín thác, nhưng những lời này đối với tôi lại trở thành một cực hình phũ phàng hơn nữa. Tôi đến với Thánh Thể và ngỏ lời với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán rằng, người mẹ không quên được đứa con nhỏ của bà, Chúa cũng không bao giờ quên thụ tạo của Chúa và ‘cho dù người mẹ có quên con bà đi nữa, thì Ta, Thiên Chúa, cũng không bao giờ quên được thụ tạo của Ta’. Lạy Chúa Giêsu, Chúa có nghe lời rên xiết của linh hồn con không? Xin đoái nghe những lời than van đớn đau của đứa con nhỏ của Chúa. Lạy Chúa, con tín thác nơi Chúa bởi vì trời đất có thể qua đi, nhưng lời Chúa phán sẽ vững bền mãi mãi”. Tuy vậy, tôi vẫn không tìm được một giây phút khuây khoả.

 

24        Một ngày kia, ngay khi vừa tỉnh giấc và đang đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, tôi bỗng bị đè bẹp dưới nỗi ê chề. Bóng tối tràn ngập linh hồn tôi. Tôi đã ráng sức chiến đấu cho đến trưa. Đến chiều, những nỗi hãi hùng kinh hoàng bắt đầu xâm chiếm tôi; sức lực thân xác tôi cũng bắt đầu lìa bỏ tôi. Tôi đi nhanh về phòng, quỳ gối trước tượng Chuộc Tội và cất tiếng kêu xin Chúa thương xót. Nhưng Chúa Giêsu không đoái hoài đến những lời than khóc của tôi. Tôi cảm thấy sức lực đã cạn kiệt hoàn toàn. Tôi sấp mình xuống đất, nỗi thất vọng tràn ngập tất cả linh hồn tôi. Tôi đã chịu những cơn cực hình khủng khiếp không khác gì những cực hình hoả ngục. Tôi phải ở trong thảm trạng ấy suốt ba khắc đồng hồ. Tôi muốn đi gặp Mẹ Giám Tập, nhưng quá rã rời. Tôi muốn hét lên nhưng không sao thành tiếng. May mắn thay, một chị [tập sinh khác, chị Placida Putyra] đi vào phòng của tôi. Thấy tôi trong tình trạng kỳ lạ ấy, chị lập tức cho Mẹ Giám Tập biết. Và Mẹ đến lập tức. Vừa bước vào phòng tôi, Mẹ đã lên tiếng: “Nhân danh đức vâng lời, [16] chị hãy chỗi dậy khỏi mặt đất”. Lập tức có một năng lực nâng tôi dậy và tôi đứng sát bên Mẹ Giám Tập. (10) Với những lời dịu dàng, Mẹ bắt đầu giải thích cho tôi đây là một thử thách Chúa gởi đến, Mẹ nói: “Chị hãy hết lòng tín thác; Thiên Chúa lúc nào cũng là Cha chúng ta, kể cả khi Người gởi thử thách đến cho chúng ta”.

 

            Trở về với những nhiệm vụ của mình, tôi như vừa ra khỏi phần mộ, các giác quan tràn ngập những điều linh hồn tôi đã trải nghiệm. Trong giờ kinh Chiều, linh hồn tôi bắt đầu quằn quại giữa tối tăm kinh khủng. Tôi thấy mình ở dưới quyền lực của Thiên Chúa Công Thẳng, còn tôi là đối tượng cơn nghĩa nộ của Người. Trong những giờ phút kinh hoàng ấy, tôi đã thưa lên cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, trong Phúc Âm Chúa đã tự ví như một người mẹ rất dịu hiền, [17] con tín thác vào Lời Chúa, vì Chúa là Chân Lý và là Sự Sống. Lạy Chúa Giêsu, dù thế nào đi nữa, con vẫn tín thác nơi Chúa, bất chấp mọi cảm giác nội tâm chống lại niềm cậy trông. Xin hãy thực hiện những gì Chúa muốn về con; con sẽ không bao giờ bỏ Chúa, vì Chúa là nguồn mạch sức sống của con”. Chỉ những ai đã từng trải qua những giờ phút tương tự mới có thể hiểu được nỗi khốn cực ấy của linh hồn khủng khiếp như thế nào.

 

25        Đêm hôm đó, Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi, Mẹ bồng Chúa Giêsu Hài Nhi trên tay. Linh hồn tôi tràn ngập niềm vui, và tôi thưa: “Lạy Mẹ Maria, Hiền Mẫu của con, Mẹ có biết con phải đau khổ kinh khủng thế nào không?”. Và Mẹ Thiên Chúa trả lời: Mẹ biết con đau khổ nhiều, nhưng con đừng sợ hãi. Mẹ chia sẻ nỗi khổ đau của con, và Mẹ sẽ luôn làm như thế. Mẹ mỉm cười thân ái rồi biến đi. Lập tức, một nguồn sức mạnh và can đảm lớn lao lại bùng dậy trong linh hồn tôi; nhưng việc đó cũng kéo dài được một ngày. Dường như hoả ngục đã dấy mưu chống lại tôi. Một sự thù ghét kinh khủng bắt đầu bộc phát trong linh hồn tôi, căm ghét tất cả những gì là thánh thiện và thuộc về Chúa. Dường như những cực hình tinh thần này sẽ là kiếp phận suốt quãng đời còn lại của tôi. Tôi hướng về Thánh Thể và thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, Tình Quân của con, Chúa không thấy linh hồn con đang hao mòn vì khao khát Chúa hay sao? Sao Chúa nỡ ẩn mặt với một con tim thành tâm mến Chúa như vậy? Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho con; nguyện thánh ý Chúa được thực hiện nơi con. Con sẽ chịu đau khổ lặng thinh như một chú chim câu, không lời thở than. Con sẽ không để cho lòng mình thốt ra dù một lời than van não nề”.

 

26        Cuối năm tập. Đau khổ không dịu bớt. Tình trạng suy nhược thể lý miễn chước cho tôi tất cả những việc thiêng liêng [chung với cộng đoàn]; tức là chúng sẽ được bù lại bằng những lời than thở vắn tắt. Thứ Sáu tuần Thánh [ngày 16 tháng 4 năm 1928] - Chúa Giêsu làm trái tim tôi bừng cháy trong ngọn lửa tình yêu của Người. Điều này xảy ra trong giờ chầu tối. Bỗng nhiên, sự Hiện Diện Thần Linh xâm chiếm tôi và làm tôi quên hết mọi sự. Chúa Giêsu cho tôi hiểu biết Người đã chịu đau khổ cho tôi như thế nào. (11) Việc này xảy ra rất nhanh. Một niềm khao khát mãnh liệt - một niềm thao thức yêu mến Chúa.

 

27        Hạn thệ lần đầu [tuyên lời khấn tạm lần đầu tiên, ngày 30 tháng 4 năm 1928]. Một ước vọng muốn huỷ mình vì Chúa với một tình yêu tích cực, nhưng là một tình yêu không ai nhận thấy, ngay cả những chị em gần gũi nhất với tôi.

 

            Tuy nhiên, sau khi tuyên khấn, cảnh tối tăm vẫn tiếp tục ngự trị trong linh hồn tôi gần một nửa năm nữa. Một lần nọ, khi tôi đang cầu nguyện, Chúa Giêsu đoạt chiếm toàn thể linh hồn tôi, bóng tối tan biến, và tôi nghe được trong mình những lời sau đây: Con là niềm vui của Cha; con là hoan lạc của Cha. Từ lúc đó, tôi cảm nhận được Thiên Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn; tức là ở trong tôi. Tôi cảm thấy được ngập lút trong ánh sáng Thần Linh. Cũng từ đó, linh hồn tôi được ở trong sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, như một con trẻ với người cha yêu quý của mình.

 

28        Một lần nọ, Chúa Giêsu truyền cho tôi, Con hãy đến với Mẹ Bề Trên [có lẽ là Mẹ Raphael [18]] và xin Mẹ cho con mặc áo nhặm bảy ngày, mỗi đêm một lần con hãy chỗi dậy và lên nhà nguyện. Tôi thưa vâng, nhưng lúc phải đi gặp Mẹ Bề Trên, tôi nhận thấy khó khăn thực sự. Tối hôm đó, Chúa Giêsu hỏi, Con sẽ trì hoãn bao lâu đây? Tôi quyết tâm sẽ thưa Mẹ Bề Trên ngay lần gặp Mẹ liền sau đó.

 

            Ngày hôm sau, gần đến giờ ngọ, tôi thấy Mẹ Bề Trên đi về phía nhà ăn, và bởi vì nhà bếp, nhà ăn, và gian phòng nhỏ bé của chị Aloysia ở gần nhau, nên tôi mời Mẹ vào phòng của chị Aloysia và thưa với Mẹ về ý muốn của Chúa Giêsu. Lúc ấy, Mẹ trả lời: “Tôi không cho chị mặc áo nhặm nào cả. Tuyệt đối không! Nếu Chúa Giêsu ban cho chị sức khoẻ như một người lực lưỡng, thì khi đó tôi mới cho phép chị thực hành những việc khổ chế ấy”.

 

            Tôi xin lỗi vì đã làm mất thời giờ của Mẹ rồi rời gian phòng. Vào lúc đó, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu đang đứng tại cửa phòng ăn nên thưa với Người: “Chúa truyền con xin phép thực hiện những việc khổ chế này, nhưng Mẹ Bề Trên lại không ban phép”. Chúa Giêsu đáp: Cha ở đây trong lúc con thưa chuyện với Bề Trên và đã biết tất cả. Cha không đòi con phải thực hành khổ chế, nhưng là phải vâng lời. Bằng sự vâng lời, con dâng lên một vinh quang lớn lao cho Cha và lập công phúc cho chính con.

 

29        Khi nghe biết về mối tương giao thân mật giữa tôi với Chúa Giêsu, một vị bề trên [có lẽ Mẹ Jane] đã xác quyết là tôi đang lừa dối mình. Mẹ cho tôi biết Chúa Giêsu chỉ tương giao thân mật như thế với các vị thánh, chứ không phải với hạng tội lỗi “giống như chị đâu, chị à!” (12) Sau đó, tôi dường như không còn tín nhiệm vào Chúa Giêsu. Trong một lần chuyện vãn với Chúa vào buổi sáng, tôi thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa có phải là ảo tưởng hay không?”. Chúa Giêsu đã trả lời: Tình yêu của Cha không lừa dối ai.

 

30        + Vào một dịp kia, khi đang suy ngắm về Chúa Ba Ngôi, về yếu tính của Thiên Chúa, tôi thực lòng muốn biết và thấu hiểu Thiên Chúa là Đấng nào... Bỗng nhiên, linh hồn tôi được cất lên như thể sang thế giới bên kia. Tôi nhìn thấy một vầng sáng không sao đến gần được, và trong ánh sáng đó, xuất hiện như ba nguồn sáng mà tôi không thể hiểu. Và từ ánh sáng ấy phát ra những lời dưới dạng sấm chớp bao phủ cả trời đất. Tôi cảm thấy rất buồn vì không hiểu gì cả. Bỗng nhiên, Chúa Cứu Thế vô cùng khả ái của chúng ta từ trong biển ánh sáng không thể đến gần ấy bước ra, tuyệt vời khôn tả với những thương tích ngời sáng của Người. Và từ ánh sáng ấy phát ra lời: Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu Tự Yếu Tính, không ai dò thấu được Người, dù là tâm trí thiên thần hay nhân loại. Chúa Giêsu phán với tôi: Con hãy nhận biết Thiên Chúa bằng cách chiêm ngắm các ưu phẩm của Người. Một lúc sau, Chúa giơ tay ban phép lành rồi biến đi.

 

31        + Một lần kia, tôi nhìn thấy một đám người rất đông ở bên trong và phía trước nhà nguyện, ở cả ngoài đường vì trong nhà nguyện không còn chỗ [19]. Nhà nguyện được trang trí để mừng lễ. Cũng có rất đông giáo sĩ gần bàn thờ, và rồi chị em chúng tôi và các nữ tu của nhiều dòng khác nữa. Ai nấy đang chờ đợi một người bước lên chỗ trên bàn thờ. Bỗng tôi nghe có tiếng nói rằng chính tôi là người phải lên chỗ ấy trên bàn thờ. Nhưng ngay khi tôi vừa rời hành lang, băng qua khoảng sân và tiến vào nhà nguyện theo tiếng nói đã kêu gọi tôi, thì mọi người bắt đầu ném vào tôi với bất cứ thứ gì họ đang có trong tay: bùn, đá, cát, chổi... khiến tôi lúc đầu lưỡng lự không muốn tiến lên. Nhưng tiếng nói kia vẫn kêu gọi tôi thành khẩn hơn nữa, thành ra tôi bước đi can đảm.

 

            Khi tôi vào nhà nguyện, các vị bề trên, các nữ tu, các học sinh, [20] và kể cả cha mẹ tôi đều tra tay đánh tôi bằng bất cứ thứ gì họ có, và dù muốn dù không, tôi đành phải nhanh chóng bước lên chỗ trên bàn thờ. Ngay khi tôi vừa lên nơi đó, (13) cũng những học sinh, nữ tu, các bề trên ấy, và cả cha mẹ tôi nữa, tất cả đều bắt đầu giơ tay xin tôi ban ơn lành; còn tôi không còn ác cảm nữa tuy họ đã ném đủ thứ vào mình tôi. Tôi ngạc nhiên vì cảm thấy một tình thương yêu rất đặc biệt đối với những người vừa cưỡng ép tôi phải đi nhanh chóng đến chỗ dành sẵn cho tôi. Đồng thời, linh hồn tôi dạt dào niềm hạnh phúc khôn tả và nghe được những lời này: Con hãy làm bất cứ điều gì con muốn, con hãy phân phát các ơn lành như ý con, cho bất cứ ai con muốn và bất cứ khi nào con muốn. Và ngay lúc đó, thị kiến chấm dứt.

 

32        Một lần khác, tôi được nghe những lời này: Con hãy đến với Mẹ Bề Trên và xin phép chầu mỗi ngày một giờ trong suốt tuần cửu nhật. Trong giờ chầu ấy, con hãy cố gắng kết hợp trong lời cầu nguyện với Mẹ Thánh Cha. Con hãy cầu nguyện bằng tất cả tâm hồn trong sự kết hợp với Đức Mẹ Maria, và hãy cố viếng đàng thánh giá trong giờ đó. Tôi đã được phép, mặc dù không đủ một giờ, nhưng bất cứ giờ nào có thể sau khi đã hoàn thành các việc phận sự.

 

33        Tôi làm tuần cửu nhật với ý cầu nguyện cho tổ quốc. Đến ngày thứ bảy trong tuần cửu nhật, tôi nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa mặc áo trắng tinh, giữa trời và đất. Mẹ đang cầu nguyện, tay chắp trước ngực, và mắt hướng về trời. Từ Trái Tim Mẹ phát ra những tia sáng rực rỡ, một số hướng lên trời, và một số khác bao phủ tổ quốc chúng tôi.

 

34        Khi tôi kể lại điều này và một số những chuyện khác cho cha giải tội của tôi, [21] ngài đáp rằng những điều ấy có thể thực sự phát xuất từ Thiên Chúa, nhưng cũng có thể do ảo tưởng. Vì thường xuyên bị thay đổi [công tác], tôi không thể có được một cha giải tội nhất định, hơn nữa, tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc trình bày những điều này. Tôi tha thiết xin Chúa thương ban cho tôi một ơn trọng đại - đó là có một vị linh hướng. Nhưng nguyện ước của tôi chỉ được nhậm lời sau khi vĩnh thệ, khi tôi được chuyển đến Vilnius, đó là cha Sopocko. [22] Chúa đã cho tôi được nhìn thấy ngài trong một thị kiến trước khi tôi đến Vilnius. [23]

 

35        Ôi, giả như có được một cha linh hướng ngay từ ban đầu, có lẽ tôi đã không phí phạm rất nhiều ơn Chúa đến thế. Cha giải tội giúp đỡ rất nhiều, nhưng ngài cũng có thể gây ra rất nhiều tai hại cho linh hồn. Ôi, các cha giải tội phải cẩn trọng lưu ý đến hoạt động của ơn Chúa trong linh hồn các hối nhân! Đó thực là một vấn đề hết sức quan trọng. Qua các ơn Chúa ban cho một linh hồn, người ta có thể nhận biết mức độ tương thân giữa họ với Thiên Chúa.

 

36        (14) Một lần kia, tôi bị triệu đến [toà] Chúa phán xét. Tôi đứng một mình trước mặt Chúa. Chúa Giêsu xuất hiện như chúng ta thấy Người trong cuộc Thương Khó. Một lúc sau, những thương tích đều biến mất, ngoại trừ năm dấu thánh ở chân, tay và cạnh sườn của Người. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy tình trạng đích thực của linh hồn tôi như Thiên Chúa nhìn thấy vậy. Tôi có thể thấy tất cả những gì làm mất lòng Chúa. Tôi không biết rằng những sai phạm cho dù mọn mạy đến đâu đi nữa cũng đều phải trả lẽ. Thật là một phút giây kinh hoàng! Ai có thể tả được? Đứng trước tôn nhan Thiên Chúa Ba Lần Thánh! Chúa Giêsu hỏi tôi: Con là ai? Tôi thưa lại: “Lạy Chúa, con là nữ tỳ của Chúa”. Con đã phạm tội đáng phải phạt một ngày trong lửa luyện ngục. Tôi muốn lập tức gieo mình vào những ngọn lửa luyện ngục, nhưng Chúa Giêsu cản tôi lại và phán: Con muốn điều nào hơn, hoặc là bây giờ chịu phạt một ngày trong luyện ngục, hoặc là một thời gian ngắn trên trần gian? Tôi thưa lại: “Lạy Chúa Giêsu, con muốn được chịu đau khổ trong luyện ngục hơn, nhưng con cũng muốn chịu cả những đau khổ lớn lao nhất trên trần gian, mặc dù phải chịu cho đến tận thế”. Chúa Giêsu đáp: Một điều cũng đủ; con sẽ trở về trần gian và con sẽ chịu nhiều đau khổ, nhưng không lâu đâu; con sẽ hoàn tất thánh ý và những mong ước của Cha, và một đầy tớ trung thành của Cha sẽ giúp con thực hiện điều ấy. Bây giờ, con hãy tựa đầu vào lòng Cha, vào Trái Tim Cha mà hấp thụ sức mạnh và dũng khí để chịu những đau khổ này, bởi vì con sẽ không tìm được khuây khoả, trợ giúp, hoặc ủi an ở bất cứ nơi nào khác. Con hãy biết có nhiều điều, rất nhiều điều cho con chịu đựng, nhưng đừng để điều ấy làm con hoảng sợ; Cha ở với con.

 

37        Ngay sau đó, tôi ngã bệnh. [24] Tình trạng yếu nhược thể lý đối với tôi là một trường dạy nhẫn nại. Chỉ có Chúa Giêsu mới biết tôi đã phải dùng bao nhiêu nghị lực và ý chí để hoàn thành việc bổn phận. [25]

 

38        Để thanh luyện một linh hồn, Chúa Giêsu dùng bất cứ khí cụ nào Người muốn. Linh hồn tôi đã bị các thụ tạo xa lánh hoàn toàn; những ý hướng tốt lành nhất của tôi cũng bị chị em hiểu lầm, [26] một hình thức đau khổ thật tê tái, nhưng Thiên Chúa lại để như vậy, và chúng ta phải chấp nhận bởi vì nhờ đó chúng ta mới trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Suốt một thời gian dài tôi vẫn không sao hiểu nổi một điều: đó là tại sao Chúa Giêsu truyền cho tôi phải trình bày tất cả mọi việc cho các bề trên của tôi, nhưng các ngài lại không tin những điều tôi nói và đối xử với tôi một cách thương hại như thể tôi đang dối mình hoặc bị ảo tưởng.

 

            Thế là vì tin mình đang ảo tưởng, trong lòng tôi dốc quyết lẩn lánh Chúa Giêsu vì sợ các ảo tưởng kia. (15) Nhưng ơn Chúa vẫn dõi theo tôi từng bước, và Thiên Chúa đã phán dạy tôi trong những lúc ít ngờ tới nhất.

 

39        + Một ngày kia, Chúa Giêsu cho tôi biết Người sẽ thực hiện thanh tẩy thành phố xinh đẹp nhất của đất nước tôi [có lẽ là Warsaw]. Cuộc thanh tẩy này sẽ như cuộc thanh tẩy Thiên Chúa đã trừng phạt hai thành Sôđôma và Gômôra. [27] Tôi nhìn thấy cơn nghĩa nộ kinh khủng của Thiên Chúa và cơn rùng mình xuyên thấu tâm hồn tôi. Tôi thầm thĩ cầu nguyện. Sau một lúc, Chúa Giêsu phán với tôi rằng: Con nhỏ của Cha, con hãy liên kết mật thiết với Cha trong cuộc Hiến Tế của Cha, hãy dâng Máu Thánh và các Thương Tích của Cha lên Cha Cha để đền bù tội lỗi của thành phố ấy. Con hãy không ngừng lặp lại việc ấy trong thánh lễ. Con hãy làm như vậy trong bảy ngày. Vào ngày thứ bảy, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu trong vầng mây sáng ngời và tôi lên tiếng xin Người đoái thương thành phố và toàn thể đất nước chúng tôi. Chúa Giêsu nhìn xuống rất nhân lành. Khi nhìn thấy vẻ nhân lành của Chúa Giêsu, tôi liền khẩn nài Người chúc lành. Ngay lúc đó, Chúa Giêsu phán rằng: Vì con mà Cha chúc lành cho toàn thể tổ quốc của con. Rồi Người giơ rộng tay ban phép lành trên toàn thể đất nước chúng tôi. Nhìn thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa, linh hồn tôi tràn ngập một niềm vui vô bờ.

 

40                                + Năm 1929

 

Một lần kia, trong giờ thánh lễ, tôi cảm nhận được sự gần gũi với Thiên Chúa rất đặc biệt, mặc dù tôi cố ngoảnh đi và trốn tránh Người. Trong nhiều dịp, tôi đã lẩn tránh Thiên Chúa vì không muốn trở thành nạn nhân của thần dữ như nhiều người đã hơn một lần cho tôi biết về trường hợp như vậy. Và tình trạng phấp phỏng này kéo dài một thời gian. Trong thánh lễ, trước giờ hiệp lễ, chúng tôi tuyên lại các lời khấn. Khi chúng tôi rời hàng ghế quỳ và bắt đầu tuyên đọc công thức khấn, Chúa Giêsu trong y phục trắng với dây thắt lưng bằng vàng, bỗng hiện đến bên cạnh tôi và phán: Cha dành cho con một tình yêu muôn thuở để sự thanh khiết của con không bị mờ ố và một dấu chỉ là con sẽ không bao giờ phải chịu cám dỗ về đức khiết tịnh. Chúa Giêsu cởi dây đai lưng của Người ra và thắt cho tôi.

 

            Kể từ đó, tôi không bao giờ bị tấn công trong tâm hồn hoặc trong trí khôn về nhân đức này. Về sau, tôi hiểu ra đó là một trong những ơn trọng đại nhất mà Đức Thánh Trinh Nữ Maria đã xin cho tôi, bởi vì trong suốt nhiều năm tôi vẫn nài xin Mẹ ơn ấy. Cũng từ đó, tôi cảm thấy càng ngày càng sùng kính Mẹ Thiên Chúa hơn. Mẹ đã dạy cho tôi biết yêu mến Thiên Chúa trong tâm hồn và thực thi thánh ý Người trong mọi sự. Lạy Mẹ Maria, Mẹ là niềm vui, bởi vì nhờ Mẹ, Thiên Chúa đã giáng thế [và] đến với tâm hồn của con.

 

41        (16) Một lần kia, tôi nhìn thấy một đầy tớ của Chúa gặp nguy cơ sắp phạm tội trọng. Tôi liền kêu nài Chúa đoái thương đổ xuống trên tôi mọi hình hoả ngục và tất cả những đau khổ Người muốn để vị linh mục này được giải thoát và được cất khỏi dịp tội. Chúa Giêsu đã nhậm lời, và ngay lúc ấy, tôi cảm nhận có một mão gai trên đầu. Những chiếc gai độc dữ đâm phập vào đầu tôi đến tận óc não. Cơn đau kéo dài suốt ba tiếng đồng hồ; người đầy tớ của Chúa được cứu thoát khỏi tội, và linh hồn ngài được mạnh mẽ nhờ một hồng ân đặc biệt của Chúa.

 

42        Một lần kia, vào ngày lễ Giáng Sinh [năm 1928], tôi cảm nghiệm được quyền toàn năng và sự hiện diện của Thiên Chúa bao bọc tôi. Và một lần nữa, tôi trốn tránh cuộc hội kiến nội tâm với Chúa. Tôi xin phép Mẹ Bề Trên ban phép cho tôi đi Jozefinek [28] để thăm các chị em ở đó. Mẹ Bề Trên đồng ý, và chúng tôi khởi hành ngay sau bữa trưa hôm đó. Các chị đứng chờ tại cổng tu viện trong lúc tôi chạy về phòng để lấy áo choàng. Khi trở lại, lúc đi gần đến nhà nguyện nhỏ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu đang đứng ở ngưỡng cửa. Người phán với tôi: Con cứ đi, nhưng Cha sẽ lấy mất trái tim của con. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy không còn trái tim trong lồng ngực nữa. Các chị em quở trách vì đã muộn mà tôi còn chần chừ phía sau, thế là tôi nhanh chóng cùng đi với họ. Tuy vậy, một cảm giác nôn nao làm tôi khó chịu, và một nỗi thao thức kỳ lạ xâm chiếm linh hồn tôi, mặc dù không ai biết điều gì đang xảy ra, ngoại trừ một mình Thiên Chúa.

 

            Sau khi đến Jozefinek được vài phút, tôi giục các chị, “Thôi chúng ta hãy trở về”. Các chị đòi ít là phải nghỉ ngơi một lúc, nhưng linh hồn tôi không tìm được một chút bình an. Tôi giải thích phải trở về trước khi trời tối; và bởi vì quãng đường khá xa, nên chúng tôi phải lập tức trở về. Khi gặp chúng tôi ở nhà ngoài, Mẹ Bề Trên hỏi: “Các chị vẫn chưa đi hay là đã về rồi vậy?”. Tôi thưa chúng tôi đã trở về bởi vì không muốn về lúc trời tối. Tôi cởi áo khoác và đi ngay vào nhà nguyện nhỏ. Ngay khi tôi vừa bước vào, Chúa Giêsu đã phán bảo: Con hãy đi gặp Mẹ Bề Trên và thưa rằng con đã về, không phải vì muốn về đến nhà trước khi trời tối, nhưng vì Cha đã lấy mất trái tim của con. Mặc dù điều này thật khó khăn đối với tôi, nhưng tôi cũng đi (17) gặp Mẹ Bề Trên và thành thật trình bày lý do vì sao tôi trở về sớm như vậy, và tôi xin lỗi Chúa về tất cả những điều đã làm phật lòng Người. Khi đó, Chúa Giêsu ban tràn đầy niềm vui cho tôi. Tôi đã hiểu ngoài Chúa, chẳng tìm đâu có được sự thoả nguyện.

 

43        Vào một kịp kia, tôi nhìn thấy có hai chị sắp sửa sa hoả ngục. Một nỗi đau kinh khủng xé nát linh hồn tôi; tôi cầu nguyện cùng Chúa cho các chị, và Chúa Giêsu phán với tôi: Con hãy đi gặp Mẹ Bề Trên và cho Mẹ biết hai chị ấy đang gặp nguy cơ phạm tội trọng. Ngày hôm sau, tôi thưa điều ấy với Mẹ Bề Trên. Một chị đã thành tâm thống hối, còn chị kia vẫn phải chiến đấu rất gian nan.

 

44        Một hôm Chúa Giêsu phán với tôi: Cha sắp sửa rời bỏ nhà này... bởi vì ở đây có những điều làm mất lòng Cha. Thế rồi Bánh Thánh ra khỏi nhà tạm và đến đậu trong tay tôi, và tôi vui mừng đưa Bánh Thánh trở lại nhà tạm. Sự kiện này tái diễn lần thứ hai, và tôi lại thực hiện như lần trước. Mặc dù thế, sự kiện vẫn tái diễn lần thứ ba, nhưng Bánh Thánh đã biến nên Chúa Giêsu sống động, Người nói với tôi: Cha sẽ không ở lại đây nữa đâu! Khi đó, một tình yêu mãnh liệt dành cho Chúa Giêsu bùng lên trong linh hồn tôi. Tôi thưa Chúa: “Còn con, lạy Chúa Giêsu, con sẽ không để Chúa lìa khỏi nhà này”. Và một lần nữa, Chúa Giêsu biến đi trong khi Bánh Thánh lưu lại trong tay tôi. Tôi lại đặt Bánh Thánh vào chén thánh và khoá lại trong nhà tạm. Chúa Giêsu đã ở lại với chúng tôi. Tôi phải làm ba ngày chầu kính để đền tạ Chúa.

 

45        Một lần kia, Chúa Giêsu phán bảo tôi: Con hãy thưa với Mẹ Tổng Quyền [Michael] rằng trong nhà này... có tội như thế như thế đang xảy ra... làm đau lòng và xúc phạm đến Cha hết sức. Tôi đã không trình bày điều ấy ngay với Mẹ Bề Trên, nhưng vì Chúa bắt tôi phải chịu sự bồn chồn, không cho tôi trì hoãn thêm một phút giây, nên tôi liền viết thư cho Mẹ Tổng Quyền, và sự bình an trở lại với linh hồn tôi.

 

46        Tôi thường cảm nhận cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong thân xác tôi, mặc dù người khác không nhận ra được điều này, và tôi vui mừng vì Chúa Giêsu đã muốn như vậy. Nhưng điều này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Những đau khổ này làm bùng lên nơi linh hồn tôi một tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn bất tử. Tình yêu chịu được mọi sự, tình yêu mạnh hơn sự chết, tình yêu không sợ hãi gì cả...

 

            (18)                  + Ngày 22 tháng 2 năm 1931

 

47        Vào buổi tối, lúc đang ở trong phòng, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu trong y phục màu trắng. Một tay Người giơ lên trong tư thế ban phép lành, tay kia chạm vào ngực áo. Từ phía dưới trang phục, hơi chếch một bên ngực, phát ra hai luồng sáng lớn, một màu đỏ, và một màu xanh nhạt.

 

            Trong thinh lặng, tôi chăm chú chiêm ngắm Chúa; linh hồn tôi bàng hoàng trong niềm kính sợ, nhưng cũng dạt dào hoan lạc. Sau một lúc, Chúa Giêsu phán bảo tôi: Hãy vẽ một bức hình theo như mẫu con nhìn thấy, với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa. Cha ước mong bức hình này được tôn kính, trước là trong nhà nguyện của các con và [sau đó là] khắp thế giới.

 

48        Cha hứa rằng linh hồn nào tôn kính bức hình này sẽ không bị hư mất. Cha cũng hứa cho họ vinh thắng những kẻ thù ngay trên thế gian này, nhất là trong giờ lâm tử. Chính Cha sẽ bảo vệ họ như vinh quang riêng của Cha.

 

49        Khi trình bày điều này với cha giải tội, [29] tôi được trả lời rằng: “Điều ấy chỉ về linh hồn chị. Chắc chắn chị hãy vẽ hình ảnh Chúa vào linh hồn chị”. Và khi ra khỏi toà giải tội, tôi lại được nghe những lời sau đây: Hình ảnh của Cha đã có trong linh hồn con rồi. Cha ước ao có một lễ kính thờ Lòng Thương Xót của Cha. Cha muốn bức hình này, bức hình được con vẽ bằng một cây cọ, sẽ được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh; Chúa Nhật đó sẽ là ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Cha.

 

50        + Cha ước mong các linh mục hãy rao giảng về Lòng Thương Xót khôn lường của Cha cho các tội nhân. Đừng để họ sợ hãi không dám đến gần bên Cha. Những ngọn lửa thương xót đang bừng cháy trong Cha - kêu gào đòi được phung phát; Cha muốn trào đổ cho các linh hồn này.

 

            Chúa Giêsu than thở với tôi: Sự hoài nghi của các linh hồn đang xé nát lòng Cha. Sự hoài nghi của một linh hồn ưu tuyển còn làm Cha đau đớn hơn nữa; mặc dù Cha dành cho họ một tình yêu vô hạn, nhưng họ vẫn không tín thác vào Cha. Thậm chí cái chết của Cha mà vẫn không đủ với họ. Khốn cho linh hồn nào lạm dụng những ân sủng này.

 

51        (19) Khi tôi thưa với Mẹ Bề Trên [Rose, [30] cho Mẹ biết] Chúa đã yêu cầu tôi điều ấy, Mẹ trả lời chắc Chúa Giêsu sẽ cho một dấu chỉ để chúng tôi có thể nhận ra Người rõ ràng hơn.

 

            Khi tôi xin Chúa Giêsu một dấu chỉ minh chứng “Chúa thực sự là Chúa, là Thiên Chúa của con, và yêu cầu ấy phát xuất từ Chúa”. Trong lòng tôi đã nghe được lời này: Cha sẽ làm sáng tỏ tất cả điều này với Bề Trên của con bằng các ân sủng Cha sẽ ban qua bức hình này.

 

52        Khi tôi cố trốn tránh những soi động trong lòng, Chúa phán với tôi rằng trong ngày phán xét, Người sẽ bắt tôi trả lẽ về một số rất đông các linh hồn.

 

            Một lần kia, quá kiệt sức vì muôn vàn khó khăn ập xuống trên mình tôi vì những điều Chúa Giêsu đã phán dạy và đã truyền vẽ bức hình, tôi quyết định đến với cha Andrasz [31] trước ngày vĩnh thệ, xin ngài chước cho tôi tất cả những soi động nội tâm và trách nhiệm về bức hình. Sau khi nghe tôi trình bày, cha Andrasz trả lời: “Này chị, tôi chẳng miễn cho chị một điều nào cả; chị không có quyền trốn tránh những soi động ấy, nhưng phải tuyệt đối - tôi nói đây, tuyệt đối - phải thưa lại những điều ấy cho cha giải tội của chị; nếu không chị sẽ bị lầm lạc, bất kể những ơn trọng đại chị đang được lãnh nhận từ Thiên Chúa.

 

53        Bây giờ chị đến cáo mình với tôi, nhưng phải biết rằng chị cần phải có một cha giải tội thường xuyên; tức là một cha linh hướng”.

 

            Tôi hết sức xao xuyến vì điều này, tưởng rằng sẽ được giải thoát khỏi mọi sự, nào ngờ lại đảo lộn tất cả - một lệnh truyền rõ rệt bắt phải tuân theo những yêu sách của Chúa Giêsu. Và giờ đây lại thêm một cực hình mới, đó là tôi chưa có cha giải tội thường xuyên. Mặc dù vẫn cáo mình với vị linh mục ấy trong một thời gian, nhưng tôi không thể thổ lộ với ngài về những ân sủng của linh hồn tôi, và điều này làm tôi khổ tâm không sao tả xiết. Vì thế tôi nài xin Chúa Giêsu hãy trao những ân sủng này cho một linh hồn nào khác, bởi vì tôi không biết lợi dụng, và như thế là phung phí đi. “Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương; xin đừng trao phó những điều cao trọng thế này cho con, như Chúa thấy, con chỉ là một hạt bụi hoàn toàn bất xứng”.

 

            Nhưng lòng nhân lành của Chúa Giêsu thật vô cùng; Người đã hứa ban một trợ lực hữu hình cho tôi ngay ở đời này, và sau đó một thời gian ngắn, tôi đã nhận được ơn ấy tại Vilnius, (20) qua cha Sopocko. Nhờ một thị kiến nội tâm, tôi đã biết ngài trước khi đến Vilnius. Một ngày nọ, tôi nhìn thấy ngài trong nhà nguyện của chúng tôi ở giữa bàn thờ và toà giải tội, và bỗng nhiên tôi được nghe một tiếng nói trong tâm hồn: Đây là sự trợ lực hữu hình cho con trên trần gian. Ngài sẽ giúp con thực thi thánh ý Cha trên trần gian.

 

54        + Một ngày nọ, mệt nhoài vì mọi thứ bấp bênh này, tôi nài xin Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của con hay là một ông kẹ nào vậy? Bởi vì các bề trên của con bảo rằng có rất nhiều thứ ảo tưởng và ma quỷ. Nếu Chúa là Thiên Chúa của con, con khẩn nài Chúa chúc lành cho con”. Khi ấy, Chúa Giêsu giơ rộng tay ban phép lành trên tôi, và tôi cũng làm dấu thánh giá. Khi tôi xin Chúa Giêsu tha lỗi về lời chất vấn, Chúa cho biết tôi không làm phật ý Người vì câu hỏi ấy, và niềm tin tưởng của tôi đã làm thoả lòng Người rất nhiều.

 

55                                Năm 1933

 

Lời Khuyên Thiêng Liêng của cha Andrasz, S.J. dành cho tôi

 

            Thứ nhất: Chị không được trốn tránh những soi động, nhưng luôn phải trình bày mọi sự cho cha giải tội. Nếu chị nhận thấy những soi động nội tâm này dành cho riêng chị, tức là đem lại lợi ích cho linh hồn chị hoặc cho các linh hồn, tôi khuyên chị hãy nghe theo các soi động ấy; chị không được thờ ơ, nhưng luôn phải làm theo các soi động ấy, sau khi đã bàn hỏi với cha giải tội của chị.

 

            Thứ hai: Nếu các soi động không phù hợp với đức tin hay tinh thần Giáo Hội, chị phải vứt bỏ ngay tức khắc, như thể từ thần dữ mà ra.

 

            Thứ ba: Nếu những soi động không nhắm đến các linh hồn nói chung, cũng không mưu ích cho họ, chị không nên coi trọng làm gì, tốt hơn hãy cho qua.

 

            Tuy nhiên, chị không nên tự mình quyết định cách này hay cách khác vì rất dễ dàng bị lầm lạc, dù chị có những đặc ân trọng đại Chúa ban. Hãy khiêm tốn, khiêm tốn, và luôn phải khiêm tốn, vì chúng ta không thể tự mình làm được việc gì; tất cả hoàn toàn chỉ là ơn Chúa mà thôi.

 

            Chị cho tôi biết Thiên Chúa đòi các linh hồn phải có một niềm tín thác cao độ; vậy bây giờ, chị phải là người trước tiên chứng tỏ niềm tín thác ấy. Một điều nữa - hãy đón nhận tất cả với sự bình thản.

 

            (21) Những lời của một cha giải tội: “Này chị, Thiên Chúa đang chuẩn bị nhiều ơn thánh đặc biệt cho chị, nhưng chị phải cố gắng làm cho đời sống chị trong sáng như pha lê trước mặt Chúa, đừng bận tâm đến những điều người khác nghĩ về chị. Thiên Chúa đủ cho chị rồi; một mình Người mà thôi”.

 

            Gần cuối thời gian năm tập của tôi, một cha giải tội [có lẽ cha Theodore] bảo tôi: “Chị hãy sống một đời thực hành điều thiện để tôi có thể viết lên những trang về đời sống ấy thế này: ‘Chị ấy đã sống một đời thực hành điều thiện’. Nguyện xin Chúa hãy thực hiện điều này nơi chị”.

 

            Lần khác, cha giải tội ấy lại nói với tôi: “Trước mặt Chúa, chị hãy hành xử như bà goá trong Phúc Âm; mặc dù đồng bạc bỏ vào thùng chẳng có giá trị bao nhiêu; nhưng trước mặt Thiên Chúa, nó lại quý hơn tất cả những đồ dâng cúng lớn lao của người khác”.

 

            Vào một dịp khác, tôi nhận được lời hướng dẫn thế này: “Chị hãy xử sự sao cho mọi người tiếp xúc với chị đều ra đi trong vui vẻ. Hãy gieo hạnh phúc chung quanh bởi vì chị đã được lãnh nhận nhiều từ Thiên Chúa; vậy chị hãy ban phát quảng đại cho tha nhân. Họ từ giã chị với tâm hồn tràn ngập niềm vui, mặc dù họ chẳng hề chạm đến gấu áo của chị. Chị hãy nhớ cho kỹ những lời tôi đang nói với chị lúc này”.

 

            Một lần khác, ngài đã chỉ dẫn cho tôi thế này: “Hãy để Thiên Chúa đẩy thuyền của chị ra chỗ nước sâu, đến những nơi sâu thẳm không thể dò thấu của đời sống nội tâm”.

 

            Đây là một đôi điều trong cuộc thưa chuyện với Mẹ Giám Tập [Mary Joseph] khi thời gian năm tập của tôi gần mãn: “Này chị, hãy để đức đơn sơ và khiêm tốn trở nên những nét đặc trưng của linh hồn chị. Chị hãy sống như một con trẻ bé bỏng, bằng lòng với tất cả, vui tươi trong mọi hoàn cảnh. Nơi người khác lo âu, nhờ đức đơn sơ và khiêm tốn, chị sẽ vượt qua một cách an lành. Này chị, chị hãy nhớ suốt đời: nước chảy từ núi cao xuống các thung lũng thế nào, ơn Chúa cũng đổ xuống cho các linh hồn khiêm nhượng như thế”.

 

56        Lạy Chúa, con quá hiểu Chúa đòi con phải sống đời thơ ấu thiêng liêng, [32] bởi vì lúc nào Chúa cũng đòi con về điều ấy qua các vị đại diện của Chúa.

 

            (22) Trong thời gian đầu của cuộc sống tu trì, đau khổ cũng như nghịch cảnh làm tôi sợ hãi và hốt hoảng. Vì thế, tôi đã liên lỉ cầu nguyện, nài xin Chúa Giêsu củng cố và ban sức mạnh Thần Khí Người cho tôi để có thể thi hành thánh ý Người trong mọi sự, bởi vì ngay từ ban đầu, tôi đã ý thức được sự yếu đuối của mình. Tôi quá hiểu bản thân mình, bởi vì mục đích này, Chúa Giêsu đã mở mắt linh hồn tôi; tôi là một vực thẳm khốn cùng, và do đó tôi hiểu ra những gì tốt lành nơi linh hồn tôi đều do ơn Chúa. Nhờ biết được nỗi khốn nạn của mình, nên đồng thời tôi cũng nhận ra Lòng Thương Xót lớn lao của Chúa.

 

            Lạy Chúa, trong cuộc sống nội tâm của con, với mắt bên này, con nhìn vào vực thẳm khốn cùng và đớn hèn của con, với mắt bên kia, con nhìn vào vực thẳm đầy xót thương của Chúa.

 

57        Lạy Chúa Giêsu, Chúa là sự sống của đời con. Chúa quá biết con không khát khao điều gì ngoài vinh quang cho Danh Chúa và các linh hồn được nhận biết lòng nhân lành của Chúa. Lạy Chúa Giêsu, tại sao các linh hồn lại lẩn tránh Chúa? - Con không hiểu nổi điều ấy. Ôi, giả như con có thể xẻ trái tim thành từng mảnh nhỏ để dâng lên Chúa. Lạy Chúa Giêsu, như vậy, mỗi mảnh như một con tim trọn vẹn đầy đủ để phần nào bù lại cho những con tim không yêu mến Chúa! Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa với từng giọt máu của con, và con sung sướng nếu được đổ máu vì Chúa để nên một chứng từ cho tình yêu chân thành của con. Lạy Chúa, càng nhận biết Chúa, con càng thấy mình không hiểu Chúa, nhưng việc “không hiểu Chúa” làm cho con nhận ra Chúa cao trọng biết bao! Và lạy Chúa, việc thiếu khả năng hiểu biết Chúa làm trái tim con nồng cháy vì Chúa. Từ khi Chúa cho con được cắm chặt ánh nhìn của hồn con vào Chúa, lạy Chúa Giêsu, con đã được bình an và chẳng còn ước mơ gì khác. Con đã tìm được phận phúc của mình trong giây phút hồn con được mất hút trong Chúa, đối tượng duy nhất của khối tình con. Lạy Chúa Giêsu, nếu sánh với Chúa, mọi sự chỉ là số không. Đau khổ, chống đối, nhục nhã, thất bại, và hoài nghi trên nẻo đường con đi chỉ là những viên đá lửa làm bùng lên ngọn lửa tình yêu con dành cho Chúa.

 

            Những khát vọng của con thật điên rồ và không thể đạt được. Con muốn giấu không cho Chúa biết con đang đau khổ. Con muốn (23) những nỗ lực và việc lành của con không bao giờ được thưởng công. Lạy Chúa Giêsu, Chúa là phần thưởng duy nhất của con; một mình Chúa đã đủ cho con rồi, ôi Kho Tàng của lòng con! Lạy Chúa Giêsu, con muốn chia sẻ cảm thông với đau khổ của những người chung quanh nhưng giấu không cho họ, và cả Chúa nữa, biết đến những đau khổ của riêng con.

 

            Đau khổ là một hồng ân trọng đại; qua đau khổ, linh hồn sẽ được nên giống Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu được tinh luyện; đau khổ càng lớn lao, tình yêu càng tinh ròng.

 

58        + Một đêm kia, một chị qua đời hai tháng trước đã hiện về với tôi. Chị thuộc thành phần tụng sĩ. Tôi thấy chị trong một tình trạng thê thảm, toàn thân ngập trong những ngọn lửa, và bộ mặt méo dạng cách đau đớn. Việc này chỉ xảy ra một lúc, và sau đó chị biến đi. Một cái rùng mình xuyên suốt linh hồn tôi vì tôi không biết chị ấy đang chịu khổ hình trong luyện ngục hay hoả ngục. Tuy nhiên, tôi vẫn gia tăng lời cầu nguyện cho chị. Đêm hôm sau, chị lại hiện về, tôi thấy chị trong một thảm cảnh còn ghê rợn hơn, giữa những ngọn lửa phừng phực, và có thể nhìn thấy nỗi thất vọng trên gương mặt. Tôi kinh ngạc vì đã dâng nhiều kinh nguyện mà chị lại còn khốn khổ hơn trước, tôi hỏi: “Những lời kinh của em không giúp cho chị được gì sao?”. Chị cho biết những kinh nguyện của tôi không giúp được, và có lẽ không gì giúp đỡ chị được. Tôi hỏi tiếp: “Thế những kinh nguyện của cả cộng đoàn cầu cho chị cũng không giúp chị được sao?”. Chị cho biết những kinh nguyện ấy giúp ích cho các linh hồn khác. Tôi đề nghị: “Nếu những lời kinh của em không giúp được gì cho chị, xin chị vui lòng đừng đến với em nữa”. Chị biến đi lập tức. Mặc dù vậy, tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện.

 

            Bẵng một thời gian, chị lại hiện về với tôi trong đêm, nhưng đã thay đổi hoàn toàn. Không còn những ngọn lửa như trước kia, gương mặt chị rạng rỡ, ánh mắt loé lên niềm hạnh phúc. Chị nói rằng tôi đã có một tình yêu thương chân thật đối với những người chung quanh, và nhiều linh hồn đã được hưởng nhờ những kinh nguyện của tôi. Chị khuyên giục tôi hãy tiếp tục cầu nguyện cho các linh hồn luyện ngục, và cho biết chị không còn bị giam phạt bao lâu nữa. Những định quyết của Thiên Chúa thật đáng thán phục!

 

59        (24)                  1933

 

            Một dịp kia, tôi đã nghe những lời này trong linh hồn: Con hãy làm một tuần cửu nhật cầu cho đất nước con. Tuần cửu nhật này sẽ gồm việc đọc kinh cầu Các Thánh. Con hãy xin phép cha giải tội [có lẽ cha Sopocko hoặc cha Andrasz].

 

60        Trong lần xưng tội liền đó, tôi đã xin được phép của cha giải tội, và bắt đầu làm tuần cửu nhật ngay tối hôm ấy. Khi đọc gần xong kinh cầu Các Thánh, tôi nhìn thấy một vầng sáng chói chang, giữa vầng sáng là Thiên Chúa Cha. Ở khoảng giữa vầng sáng và địa cầu, tôi thấy Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh trên thập giá trong tư thế khiến Chúa Cha khi muốn nhìn xuống địa cầu phải nhìn qua các thương tích của Chúa Giêsu. Và tôi hiểu rằng chính nhờ Chúa Giêsu mà Chúa Cha đã chúc lành cho trần gian.

 

61        Lạy Chúa Giêsu, con cám tạ Chúa vì ơn trọng đại này, đó là chính Chúa đã đoái thương chọn một linh mục giải tội cho con, và Chúa đã cho con biết ngài qua một thị kiến trước cả khi con được gặp ngài [cha Sopocko]. Khi đến xưng tội với cha Andrasz, tôi nghĩ mình sẽ được chuẩn chước khỏi những soi động nội tâm kia. Nào ngờ ngài trả lời ngài không thể miễn chước cho tôi: “Này chị, chị hãy cầu nguyện để có được một cha linh hướng”.

 

            Sau một lời cầu nguyện ngắn ngủi nhưng rất tha thiết, tôi được thấy cha Sopocko lần thứ hai trong nhà nguyện của chúng tôi, khoảng giữa toà giải tội và bàn thờ. Bấy giờ tôi đang ở Cracow. Hai lần thị kiến ấy đã làm phấn chấn linh hồn tôi, vì thế khi gặp ngài, tôi nhớ ra mình đã được thấy ngài trong các thị kiến, một lần tại Warsaw trong thời gian thử thứ ba của tôi, và một lần nữa tại Cracow. Lạy Chúa Giêsu, con xin cám tạ Chúa vì tặng ân trọng đại này! Và giờ đây, mỗi khi nghe ai than thở rằng họ không có cha giải tội, tức là cha linh hướng, nỗi sợ hãi lại bao trùm lấy con bởi vì con biết mình đã chịu quá nhiều thiệt hại khi chưa có nguồn trợ lực này. Thật dễ lầm đường khi không được ai hướng dẫn!

 

62        Ôi cuộc đời thật buồn tẻ và đơn điệu, nhưng lại có biết bao kho tàng quý báu! Khi nhìn mọi sự bằng con mắt đức tin, không có hai giờ đồng hồ nào giống hệt nhau, cảnh buồn tẻ và đơn điệu biến mất. Ơn thánh ban cho tôi trong giờ này sẽ không được lặp lại trong giờ sau. Điều ấy cũng có thể ban lại cho tôi, nhưng không phải cùng một ơn như trước. Thời gian trôi qua, không bao giờ trở lại. Những việc gồm chứa trong đó không bao giờ thay đổi nữa; được đóng lại bằng niêm ấn cho cõi đời đời.

 

63        (25) + Cha Sopocko ắt phải được Thiên Chúa hết lòng yêu thương. Tôi nói điều này vì trong một số lần, chính tôi nghiệm thấy Thiên Chúa đã bảo bọc ngài như thế nào. Khi nhìn thấy điều này, tôi hết sức vui mừng vì Thiên Chúa đã có những linh hồn ưu tuyển như thế.

 

                                    1929

 

Chuyến đi Canvê [33]

 

64        Khi chuyển đến Vilnius trong thời hạn hai tháng để thế cho một chị đi thử lần thứ ba [nữ tu Peter, làm bếp], tôi đã ở đó lâu hơn hai tháng một chút. Một ngày kia, Mẹ Bề Trên [Irene [34]], vì muốn cho tôi một niềm vui nhỏ, đã cho phép tôi cùng đi với một chị khác [35] đến Canvê - theo kiểu người ta nói - để “đi dạo”. Tôi rất sung sướng. Mặc dù đường không xa, nhưng Mẹ Bề Trên muốn chúng tôi đi thuyền. Tối hôm đó, Chúa Giêsu ngỏ ý: Cha muốn con ở nhà. Tôi thưa lại: “Lạy Chúa Giêsu, mọi sự đã xong xuôi để chúng con khởi hành vào sáng mai; con biết phải tính sao bây giờ?”. Chúa đáp: Chuyến đi này có hại cho linh hồn con. Tôi thưa lại: “Chúa có thể tìm được cách giải gỡ. Xin Chúa an bài mọi sự sao cho thánh ý Chúa được nên trọn”. Ngay lúc đó, chuông báo đến giờ ngủ. Tôi nhìn Chúa từ biệt rồi về phòng riêng.

 

            Hôm sau, thời tiết khá tốt, người chị em đồng hành với tôi rất vui mừng khi nghĩ đến cái thú chúng tôi được thưởng thức khi nhìn ngắm vạn vật. Nhưng về phần mình, tôi biết chắc chắn chúng tôi sẽ không đi được mặc dù cho đến giờ này xem ra vẫn chưa có gì trở ngại.

 

            Chúng tôi phải hiệp lễ sớm để lên đường sau khi cám ơn. Nhưng trong giờ hiệp lễ, thời tiết bỗng nhiên thay đổi. Những đám mây che kín bầu trời, rồi mưa như trút nước. Mọi người đều lấy làm lạ vì thời tiết thay đổi đột ngột.

 

            (26) Mẹ Bề Trên nói với tôi: “Này chị, tôi rất buồn vì chị không đi được!”. Tôi thưa lại: “Thưa Mẹ, chúng con không đi được có sao đâu vì thánh ý Chúa muốn chúng con ở nhà”. Tuy nhiên, không ai biết chính Chúa Giêsu đã tỏ ý muốn tôi ở nhà. Tôi dùng cả ngày hôm ấy để tĩnh tâm và nguyện gẫm, cám tạ Chúa đã giữ tôi ở nhà. Hôm đó, Chúa đã ban cho tôi rất nhiều an ủi trời cao.

 

65        Một lần kia, trong thời kỳ năm tập, Mẹ Giám Tập cử tôi đi công tác tại nhà bếp các học sinh, tôi rất áy náy vì không xoay xở nổi những chiếc nồi to tướng ở đó. Công việc khó khăn nhất đối với tôi là gạn nước khoai, và nhiều khi đổ nước, tôi đã làm đổ cả một nửa nồi khoai. Khi tôi trình bày điều này với Mẹ Giám Tập, Mẹ nói rằng lần này tôi sẽ quen và tập được kỹ năng cần thiết. Tuy vậy, công việc cũng chẳng dễ dàng hơn chút nào, vì càng ngày tôi càng yếu hơn. Thành ra tôi thường né tránh mỗi khi tới giờ gạn nước khoai. Các chị em thấy tôi tránh né công việc này rất lấy làm lạ. Họ không biết tôi rất sẵn lòng, nhưng không đủ sức làm được, chứ không phải ươn lười. Đến trưa, trong giờ hồi tâm, tôi phàn nàn với Chúa về sự yếu đuối của mình, và nghe được những lời này trong linh hồn: Từ hôm nay, con sẽ làm việc này một cách dễ dàng; Cha sẽ cho con được mạnh mẽ.

 

            Tối hôm đó, khi đến giờ gạn nước khoai, tôi tín thác vào lời Chúa và hăm hở đi làm việc ấy trước tiên. Tôi nhấc chiếc nồi một cách thoải mái và gạn nước ngon lành. Và khi mở nắp nồi cho khoai bốc hơi, tôi nhìn thấy trong đó có những đoá hồng đỏ thắm, xinh đẹp không tả xiết. Trước kia, tôi chưa từng nhìn thấy những bông hoa như thế bao giờ. Hết sức kinh ngạc và không hiểu nổi ý nghĩa việc này, tôi được nghe lời này trong lòng: Cha biến công việc khó nhọc của con trở nên những bó hoa xinh đẹp nhất, và hương thơm của chúng toả ngát đến ngai toà Cha. Từ đó về sau, tôi cố gắng gạn nước khoai, không những trong tuần lễ phiên mình, (27) mà còn giúp các chị khác khi đến phiên họ. Và không chỉ gạn nước khoai mà thôi, tôi còn cố gắng đi đầu trong việc giúp đỡ mọi công việc nặng nhọc khác, bởi vì tôi nghiệm thấy điều ấy làm Chúa rất hài lòng.

 

66        Ôi kho tàng vô tận của ý hướng ngay lành, điều làm cho mọi hoạt động của chúng ta trở nên trọn hảo và đẹp lòng Thiên Chúa!

 

            Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết con yếu đuối dường nào; vì vậy, xin Chúa hãy luôn ở bên con; hướng dẫn các hoạt động của con và toàn thể hữu thể của con, Chúa là Thầy Dạy tuyệt hảo duy nhất của con! Quả thật, lạy Chúa Giêsu, con hoảng sợ khi nhìn vào nỗi khốn nạn của mình, nhưng đồng thời, con cũng an tâm vì lòng lân ái của Chúa muôn đời vẫn thắng vượt nỗi khốn nạn của con. Tâm tình này bao phủ con trong quyền năng Chúa. Ôi niềm vui tuôn trào từ việc biết mình! Ôi Đấng là Chân Lý bất biến, lòng tín thành của Chúa bền vững thiên thu!

 

67        Sau ngày tuyên khấn lần đầu, tôi bị ngã bệnh [có lẽ bệnh lao phổi bộc phát], và dù được sự chăm sóc tận tình của các bề trên cũng như nỗ lực của các bác sĩ, tôi vẫn cảm thấy bệnh tình không hề thuyên giảm chút nào. Những lời dị nghị vọng đến tai tôi, ngụ ý rằng tôi giả vờ bệnh. Khi nghe biết điều đó, nỗi đau khổ của tôi tăng thêm gấp đôi và da diết suốt thời gian dài. Một ngày kia, tôi than thở với Chúa Giêsu rằng tôi đang trở nên gánh nặng cho các chị em. Chúa Giêsu trả lời: Không phải con sống cho chị em, nhưng là cho các linh hồn, và các linh hồn sẽ được hưởng nhờ lợi ích từ những đau khổ của con. Việc đau khổ triền miên của con sẽ đem lại cho họ ánh sáng và sức mạnh để chấp nhận thánh ý Cha.

 

68        Đối với tôi, đau khổ tê tái nhất là những kinh nguyện và những việc lành của tôi hình như đều không làm vui lòng Thiên Chúa. Tôi không dám ngước mắt lên trời. Điều đó làm tôi đau đớn trong các giờ đạo đức chung tại nhà nguyện đến độ một ngày kia sau giờ kinh, Mẹ Bề Trên [Raphael] vời tôi đến và nói: “Này chị, chị hãy xin Chúa ban ơn thánh và ủi an, bởi vì chính tôi thấy (28) và các chị em khác cũng cho tôi biết chỉ nhìn chị mà thôi cũng thấy tội nghiệp. Tôi thực sự không biết phải làm gì với chị bây giờ, chị ạ. Tôi truyền cho chị thôi đừng làm khổ bản thân một cách vô lý nữa”.

 

            Những lần bàn hỏi với Mẹ Bề Trên không làm tôi khuây khoả, cũng không làm sáng sủa được điều gì. Ngược lại, bóng tối che khuất Thiên Chúa càng dày đặc hơn. Tôi kêu cứu trong toà giải tội, nhưng cũng chẳng thấy gì. Một linh mục thánh thiện muốn giúp đỡ, nhưng tôi khổ thân đến độ không xác định được nỗi khổ của mình, và điều đó càng làm tôi cay cực hơn nữa. Một nỗi buồn đến chết xuyên thấu linh hồn tôi đến độ không sao giấu nổi và lộ ra trước mắt những người chung quanh. Tôi mất hết hy vọng. Bóng đêm mỗi lúc một tăm tối hơn. Vị linh mục giải tội nói rằng: “Này chị, tôi nhìn thấy những ơn thánh rất đặc biệt ở nơi chị, và tôi không lo lắng chút nào cho chị cả; tại sao chị tự làm khổ bản thân như thế?”. Nhưng lúc đó, tôi không hiểu ngài nói gì cả và hết sức kinh ngạc khi nghe phải đọc kinh Te Deum hoặc kinh Magnificat, hoặc phải chạy quanh vườn vào buổi tối, hoặc phải cười to mười lần để làm việc đền tội. Những việc đền tội này rất lạ kỳ đối với tôi; nhưng cả vị linh mục ấy cũng không thể giúp đỡ tôi được bao nhiêu. Rõ ràng, Thiên Chúa muốn tôi tôn vinh Người bằng đau khổ.

 

            Vị linh mục an ủi tôi khi bảo rằng trong hoàn cảnh hiện thời, tôi làm đẹp lòng Chúa hơn cả những khi được dạt dào ơn an ủi lớn lao. “Đó thật là một ơn vô cùng trọng đại, bởi vì trong tất cả những cực hình linh hồn chị đang trải qua, chị không hề làm mất lòng Thiên Chúa, mà còn gắng tập các nhân đức. Tôi nhìn vào linh hồn chị và thấy những chương trình vĩ đại cùng những ơn thánh đặc biệt của Chúa trong đó; và khi thấy điều này, tôi cám tạ Thiên Chúa”. Bất kể những điều ấy, linh hồn tôi vẫn trong tình trạng thảm sầu; và giữa những khổ hình không sao tả được, tôi cố gắng bắt chước người mù để tín thác vào sự hướng dẫn của Chúa, nắm thật chặt lấy tay Người, và không xa rời đức vâng lời một phút giây, đó là sự an toàn duy nhất của tôi trong cơn thử thách khắc nghiệt này.

 

69        (29) + Lạy Chúa Giêsu, Chân Lý hằng hữu, xin hãy củng cố những sức lực mỏng manh của con; Chúa ơi, Chúa có thể làm được mọi sự. Con biết nếu không có Chúa, mọi nỗ lực của con đều là vô ích. Lạy Chúa Giêsu, xin đừng ẩn nấp con nữa, vì con không thể sống được nếu thiếu Chúa. Xin hãy lắng nghe tiếng than van của hồn con. Lòng Thương Xót Chúa không cạn kiệt, lạy Chúa, xin dủ lòng thương đến nỗi khốn cùng của con. Lòng Thương Xót Chúa vượt quá trí hiểu của mọi thiên thần và loài người hợp lại; và như thế, mặc dù Chúa dường như không nghe tiếng con, nhưng con vẫn trọn niềm tín thác vào đại dương thương xót của Chúa, và con biết niềm cậy trông của con sẽ không bị dối lừa.

 

70        Chỉ một mình Chúa Giêsu mới biết mức độ gian truân và khó khăn chừng nào để chu toàn bổn phận trong lúc linh hồn chịu cay cực, sức lực bị yếu nhược, và tâm trí bị tăm tối. Trong cái lặng thinh của tâm hồn, tôi vẫn thưa lên: “Lạy Chúa Kitô, nguyện ước cho hoan lạc, danh dự, và vinh quang đều thuộc về Chúa, còn đau khổ là kỷ phần cho con. Con sẽ không chần chờ một bước trên đường theo Chúa, cho dù gai nhọn làm nhức nhối chân con”.

 

71        Tôi được gởi đến điều trị tại một tu viện của chúng tôi ở Plock, và tại đó, tôi được đặc ân trang hoàng nhà nguyện bằng những bông hoa. Đó là ở Biala. [36] Chị Thecla không tìm được thời giờ để làm việc này, thành ra tôi thường trang trí nhà nguyện một mình. Rồi một hôm, tôi cũng hái những đoá hồng đẹp nhất để trang trí phòng cho một người kia. Khi đi gần đến cổng vòm, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu đang đứng ở đó. Người dịu dàng hỏi tôi: Ái nữ của Cha ơi, con hái những đoá hoa này cho ai vậy? Cái nín thinh của tôi đã là câu trả lời cho Chúa, vì tôi nhận ra mình đã có một lưu luyến tinh tế với người này, [37]nhưng trước đó tôi không nhận ra. Bỗng nhiên, Chúa Giêsu biến đi. Vào lúc đó, tôi ném những đoá hoa xuống đất và đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, tâm hồn tôi tràn ngập tri ân vì ơn được biết mình.

 

            Ôi Thái Dương Thần Linh, trong ánh sáng của Chúa, linh hồn thấy được cả những hạt bụi làm phiền lòng Chúa.

 

72        (32) Lạy Chúa Giêsu, Chân Lý hằng hữu và Sự Sống của chúng con, con kêu lên Chúa và khẩn nài Lòng Thương Xót Chúa cho các tội nhân khốn cùng. Ôi Trái Tim rất dịu hiền, lân tuất, và thương xót vô bờ, con van xin Chúa cho các tội nhân đáng thương.

 

            Lạy Thánh Tâm cực thánh, nguồn mạch thương xót chiếu giãi những luồng sáng ân sủng tràn ngập trên toàn nhân loại, con van nài Chúa ban ánh sáng cho các tội nhân khốn cùng.

 

            Lạy Chúa Giêsu, xin hãy nhớ lại cuộc Khổ Nạn thảm thương của Chúa và đừng để các linh hồn đã được cứu chuộc bằng giá Máu cực trọng của Chúa mà phải hư mất.

 

            Lạy Chúa Giêsu, khi suy gẫm về giá chuộc quá đắt của Máu Thánh Chúa, con lại được vui mừng ngất ngây, vì chỉ một giọt mà thôi cũng quá đủ cho phần rỗi tất cả các tội nhân. Mặc dù tội lỗi là vực thẳm của sự độc dữ và vong ân, nhưng không bao giờ có thể sánh được với giá chuộc đã trả thay cho chúng con. Vì thế, ước chi mọi linh hồn hãy tín thác vào cuộc Khổ Nạn và trông cậy vào lượng thương xót của Chúa. Chúa không từ chối lòng thương với bất kỳ ai. Trời đất có thể đổi dời, nhưng lòng thương Chúa sẽ không bao giờ cạn kiệt. Chúa ơi! Một niềm hoan lạc mênh mang cháy lên trong tâm hồn con khi chiêm ngắm lòng nhân lành vô hạn của Chúa.

 

            Ôi Chúa Giêsu, con mong ước đem mọi tội nhân đến bên chân Chúa để họ cũng được tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa cho đến muôn đời.

 

73        Lạy Chúa Giêsu của con, mặc dù đêm đen thăm thẳm đang bủa vây con tư bề và những bóng mây mù đang che mất chân trời, nhưng con biết Mặt Trời không bao giờ đi khỏi. Lạy Chúa, dù con không thấu hiểu được Chúa và cũng không nắm vững những đường lối Chúa, nhưng con vẫn tín thác vào Lòng Thương xót Chúa. Lạy Chúa, nếu thánh ý Chúa muốn con sống trong tăm tối như vậy mãi mãi, nguyện Chúa được chúc tụng. Con chỉ xin Chúa một điều, lạy Chúa Giêsu: đó là đừng để con xúc phạm đến Chúa cách nào. Lạy Chúa Giêsu của con, một mình Chúa biết những thao thức và những đớn đau của lòng con. Con vui mừng vì có thể chịu khổ vì Chúa, mặc dù ít ỏi.

 

            Khi cảm thấy những đau khổ vượt quá sức mình, tôi đến nương náu nơi Chúa trong bí tích Thánh Thể, và thưa với Người trong thinh lặng sâu xa.

 

            (31)      Việc Xưng Tội của Một Học Sinh

 

74        Một ngày nọ, tôi cảm thấy bị thôi thúc phải lo liệu việc thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa và nhờ vẽ bức hình Chúa Thương Xót, và tôi không sao tìm được một chút bình an. Một cái gì đó bao trùm hữu thể tôi, và tôi sợ mình bị ảo tưởng. Tuy nhiên, những nghi ngờ này lúc nào cũng từ bên ngoài, bởi vì từ nơi sâu thẳm trong linh hồn, tôi cảm thấy chính Chúa là Đấng đang thấu nhập hữu thể tôi. Vị linh mục giải tội lúc đó cho tôi biết con người thường gặp ảo tưởng, và tôi nhận ra ngài có phần sợ giải tội cho tôi. Đây là một cực hình đối với tôi. Thấy mình nhận được quá ít trợ lực của người đời, tôi càng hướng về Chúa Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt vời. Một lần kia, vì quá nghi ngờ, không biết những lời tôi nghe được có phải xuất phát từ Chúa hay không, tôi thưa chuyện với Chúa Giêsu trong lòng, nhưng không thốt ra lời. Thình lình một sức mạnh nội tâm xâm chiếm tôi khiến tôi thưa lên: “Nếu Đấng đang thông hiệp với con và trao đổi với con thực sự là Thiên Chúa của con, con nài xin Chúa, lạy Chúa, hãy làm cho người học sinh nội trú này đi xưng tội ngay hôm nay; dấu chỉ này sẽ giúp con an lòng”. Ngay lúc đó, người thiếu nữ kia xin đi xưng tội.

 

            Mẹ phụ trách lớp ngạc nhiên vì sự thay đổi đột ngột nơi thiếu nữ kia, nhưng Mẹ cũng cho mời ngay một vị linh mục, và thiếu nữ này xưng tội với lòng sám hối thành thực. Ngay lúc ấy, tôi nghe được một tiếng nói trong lòng: Bây giờ, con có tin vào Cha hay chưa? Và một lần nữa, một sức mạnh lạ lùng lại chiếm đoạt linh hồn tôi, làm cho tôi mạnh mẽ và an lòng đến độ ngạc nhiên vì sao tôi đã nghi ngờ đến thế, dù chỉ một giây phút.

 

75        Nhưng các mối nghi nan này bao giờ cũng từ bên ngoài mà đến, đưa tôi đến chỗ khép kín với bản thân mỗi ngày một hơn. Trong một lần cáo mình, tôi cảm thấy vị linh mục có vẻ bất an nên không trình bày tâm hồn, nhưng chỉ xưng tội với ngài mà thôi. Một vị linh mục không bình an với bản thân thì làm sao rọi chiếu bình an cho một linh hồn khác được.

 

            Ôi các linh mục, các ngài là những ngọn nến soi chiếu linh hồn người ta, chớ gì ánh sáng của các ngài đừng bao giờ bị lu mờ. Lúc ấy, tôi hiểu thánh ý Chúa chưa muốn tôi thổ lộ tâm hồn hoàn toàn. Về sau, Chúa đã ban cho tôi ơn này.

 

76        (32) Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn tâm trí con, chiếm đoạt trọn vẹn hữu thể con, ấp ủ con trong nơi thẳm sâu của Trái Tim Chúa, và bảo vệ con trước những đợt tấn công của kẻ thù. Niềm hy vọng duy nhất của con là ở nơi Chúa. Xin Chúa hãy phán qua miệng con, để dù con là một sự xấu xa đích thực, cũng thấy mình được mạnh sức và khôn ngoan, hầu người ta nhận biết rằng công trình này là của Chúa và xuất phát từ Chúa.

 

Bóng Tối và Cám Dỗ

 

77        Tâm trí tôi trở nên mù mịt lạ kỳ; xem ra không một chân lý nào còn rõ ràng với tôi nữa. Khi người ta nói với tôi về Thiên Chúa, tâm hồn tôi nên như một tảng đá. Tôi không thể kín múc được từ [những lời] ấy một cảm tình yêu mến để dâng cho Chúa. Khi cố gắng bằng hành vi ý chí để sống mật thiết với Chúa, tôi cảm nghiệm những cực hình khủng khiếp, và dường như tôi đang làm Thiên Chúa thêm thịnh nộ. Tôi không thể nào nguyện gẫm được như đã quen trước kia. Tôi cảm thấy trong linh hồn một khoảng trống bao la và không thể lấy gì lấp đầy được. Tôi bắt đầu cảm thấy một cơn đói khát ngấu nghiến và mong mỏi Thiên Chúa, nhưng tôi nhìn thấy nỗi bất lực hoàn toàn của mình. Tôi cố gắng đọc chậm, từng câu một, và nguyện gẫm bằng cách đó, nhưng điều này cũng chẳng đi đến đâu. Tôi chẳng hiểu những điều tôi đọc.

 

            Vực thẳm khốn nạn của tôi lúc nào cũng hiện ra trước mắt. Mỗi lần vào nhà nguyện để làm việc thiêng liêng, tôi lại trải qua những cực hình và những cám dỗ ghê rợn hơn nữa. Hơn một lần, trong suốt thánh lễ, tôi đã chiến đấu chống lại các tư tưởng phạm thượng chực bộc phát khỏi môi miệng. Tôi cảm thấy ghét cay ghét đắng các bí tích, và như thể chẳng được ích lợi gì từ đó cả. Chỉ vì vâng lời cha giải tội nên tôi mới thường xuyên lãnh thụ các bí tích, và sự vâng phục tối mặt này là con đường duy nhất để tôi bước theo và là niềm hy vọng sống còn cuối cùng cho tôi. Cha giải tội đã giải thích cho tôi rằng những thử thách này là do Thiên Chúa gởi đến, và trong tình trạng của tôi, không những tôi không xúc phạm đến Chúa mà còn làm đẹp lòng Người. (33) Ngài nói: “Đây là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương và đặt nhiều tin tưởng nơi chị, bởi vì Người đang gởi cho chị những thử thách thế này”. Nhưng những lời ấy chẳng làm tôi nhẹ nhõm và dường như chẳng áp dụng được cho tôi chút nào.

 

            Một điều làm tôi ngạc nhiên: sự kiện thường xảy ra là những cực hình kinh khủng làm tôi hết sức đau khổ kia bỗng nhiên biến mất khi tôi vào toà giải tội; nhưng khi vừa rời toà, thì tất cả những cực hình ấy lại chộp bắt lấy tôi một cách hung bạo hơn trước. Khi ấy, tôi thường sấp mặt trước Thánh Thể và lặp đi lặp lại lời này: “Mặc dù Chúa giết con, con vẫn tín thác nơi Chúa!” [x. G 13,15]. Dường như tôi sẽ chết giữa những thống khổ này. Nhưng đối với tôi, tư tưởng khủng khiếp nhất là đinh ninh rằng mình đã bị Thiên Chúa loại bỏ. Thế rồi những tư tưởng khác ập đến với tôi: Tại sao phải cố gắng đắc thủ các nhân đức và làm những việc lành? Tại sao lại phải hành xác và huỷ mình? Khấn dòng, cầu nguyện, hy sinh và bỏ mình được ích gì? Tại sao lúc nào cũng phải hy sinh bản thân? Được ích gì - nếu như tôi đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ? Tại sao lại phải thực hiện những cố gắng này? Và ở đây, chỉ mình Thiên Chúa mới biết những gì đang diễn ra trong tâm hồn tôi.

 

78        Một lần kia, khi bị đè bẹp dưới những đau khổ ghê rợn này, tôi vào nhà nguyện và thân thưa với Chúa tận đáy lòng: “Xin Chúa hãy thực hiện những gì Chúa muốn nơi con, lạy Chúa Giêsu; con xin thờ phượng Chúa trong mọi sự. Nguyện thánh ý Chúa được nên trọn nơi con, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, con sẽ ca ngợi Lòng Thương Xót của Chúa”. Nhờ hành vi suy phục này, những cực hình khủng khiếp kia đã rời bỏ tôi. Bỗng nhiên, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu, Người nói với tôi: Cha luôn ngự trong trái tim con. Một niềm vui khôn xiết tràn ngập linh hồn tôi, và tình yêu Thiên Chúa bao la lại nung đốt tâm hồn tôi. Tôi thấy rằng Thiên Chúa không bao giờ thử thách quá sức chúng ta. Ô, tôi không sợ hãi gì cả, nếu Thiên Chúa gởi đau khổ lớn lao cho một linh hồn, thì Người sẽ nâng đỡ bằng một ân sủng còn lớn lao hơn, mặc dù chúng ta không nhận ra được điều ấy. Một hành vi tín thác trong những giờ phút ấy đem lại vinh quang rạng ngời cho Thiên Chúa hơn là tất cả những giờ cầu nguyện êm đềm khác trôi qua trong an ủi. Giờ đây, tôi thấy nếu Thiên Chúa muốn để một linh hồn trong bóng đêm, thì không sách vở nào, không cha giải tội nào có thể đem lại ánh sáng cho nó được.

 

79        (34) Lạy Mẹ Maria là Từ Mẫu và là Tôn Chủ của con, con xin dâng Mẹ linh hồn và thân xác, cuộc sống và cái chết cùng tất cả những gì sau đó của con. Con xin phó dâng mọi sự trong tay Mẹ. Ôi Hiền Mẫu của con, xin Mẹ bảo bọc linh hồn con dưới áo choàng khiết trinh của Mẹ, và ban ơn để con có trái tim, linh hồn và thân xác trắng trong.

 

            Xin hãy dùng sức mạnh của Mẹ mà bảo vệ con khỏi mọi kẻ thù, nhất là những người che đậy ác tâm của họ sau mặt nạ nhân đức. Ôi Bông Huệ khả ái, Mẹ là tấm gương cho con, ôi Từ Mẫu của con!

 

80        Lạy Chúa Giêsu, Thiên Chúa chịu giam cầm vì yêu! Khi con suy về tình yêu Chúa và Chúa đã huỷ mình vì con như thế nào, các giác quan của con hoá ra bất lực. Chúa đã che giấu vẻ uy linh cao vời của Chúa và hạ mình đến chỗ đớn hèn là con. Lạy Vua Vinh Hiển, dù Chúa che khuất vẻ đẹp thần linh, nhưng mắt linh hồn con vẫn xé toang được bức màn. Con thấy các ca đoàn thiên thần không ngừng tôn vinh, các quyền thần không dứt tiếng chúc tụng và tung hô: Thánh, Thánh, Thánh...

 

            Ôi, nào ai hiểu được khối tình yêu và Lòng Thương Xót vô tận của Chúa dành cho chúng con! Lạy Đấng chịu giam cầm vì yêu, con xin nhốt trái tim đớn hèn của con trong nhà tạm này để được tôn thờ Chúa suốt ngày đêm. Con biết không có gì ngăn trở việc tôn thờ này, mặc dù thân xác cách biệt, nhưng tâm hồn con luôn ở bên Chúa. Không gì có thể làm ngơi tình mến con dâng lên Chúa. Không còn một cản ngăn nào đối với con nữa. Lạy Chúa Giêsu của con, con sẽ an ủi Chúa về mọi vô ơn, lộng ngôn, nguội lạnh, thù hận và phạm thánh của các kẻ dữ. Lạy Chúa Giêsu, con muốn được toàn thiêu như một lễ vật tinh tuyền và tiêu tan trước toà Chúa ẩn thân. Con không ngừng kêu nài Chúa cho các linh hồn tội lỗi đáng thương.

 

81        Lạy Ba Ngôi Chí Thánh, Thiên Chúa Nhất Thể Bất Phân, nguyện Chúa được chúc tụng vì tặng ân và giao ước tuyệt vời này của Lòng Thương Xót. Lạy Chúa Giêsu của con, để đền thay những kẻ lộng ngôn, con sẽ nín lặng khi bị trách mắng bất công, và qua đó đền tạ phần nào cho Chúa. Trong linh hồn con, con vẫn hát dâng Chúa một khúc ca bất tận, không ai ngờ đến hoặc hiểu được điều này. Khúc ca của linh hồn con chỉ mình Chúa biết, lạy Đấng Tạo Hoá và Thiên Chúa của con!

 

82        (35) Con sẽ không để bị lôi cuốn vào cơn lốc công việc đến độ quên Chúa. Con sẽ tận dụng mọi giờ phút rảnh rỗi để quấn quít bên chân Thầy chí thánh ẩn ngự trong bí tích Thánh Thể.

 

            Người vẫn dạy dỗ cho tôi suốt từ những năm tháng thời ấu thơ của tôi.

 

83        Con hãy viết điều này: Trước khi đến trong tư cách Thẩm Phán chí công, Cha sẽ đến trong tư cách Vua Tình Thương. Trước ngày phán xét, một dấu chỉ trên trời sẽ được ban cho mọi người:

 

            Tất cả ánh sáng trên trời sẽ bị tắt đi, và bóng tối kinh khủng sẽ bao trùm toàn thể địa cầu. Bấy giờ, người ta sẽ nhìn thấy hình Thánh Giá trên bầu trời, và từ các thương tích mở ra trên tay và chân Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh sẽ có những luồng sáng chói chang chiếu toả địa cầu trong một thời gian. Điều này sẽ xảy ra trước ngày sau hết.

 

84        Lạy Máu và Nước đã trào ra từ Trái Tim Chúa Giêsu như suối nguồn thương xót chúng con, con tín thác nơi Chúa!

 

Vilnius, ngày 2 tháng 8 năm 1934

 

85        Vào thứ Sáu, sau khi hiệp lễ, thần trí tôi được đưa đến trước ngai Thiên Chúa. Ở đó, tôi nhìn thấy các quyền thần không dứt lời tán dương Thiên Chúa. Bên kia ngai toà, tôi nhìn thấy một vầng sáng mà các thụ tạo không thể đến gần, và ở đó chỉ có Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Trung Gian của chúng ta. Khi Chúa Giêsu bước vào vầng sáng ấy, tôi được nghe những lời này: Con hãy ghi lại ngay những gì nghe được: Cha là Thiên Chúa tự yếu tính, siêu vượt các trật tự hoặc các nhu cầu. Nếu Cha gọi các thụ tạo ra hiện hữu - đó là vì vực thẳm nhân lành của Cha. Ngay lúc ấy, tôi nhận ra mình đang quỳ trong nhà nguyện như trước, đúng lúc thánh lễ vừa kết thúc. Và tôi cũng đã ghi xong những lời này.

 

86        + [Một lần kia] khi tôi nhìn thấy cha giải tội của tôi [có lẽ cha Sopocko] phải chịu đau khổ vì công việc Chúa đang định thực hiện qua ngài, nỗi sợ hãi bao trùm lấy tôi một lúc và tôi thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, đây là công việc của Chúa, thế mà Chúa nỡ đối xử như vậy (36) với ngài hay sao? Con thấy hình như Chúa đang gây khó cho ngài trong khi Chúa lại ban lệnh cho ngài thực hiện”.

 

            Con hãy viết rằng ánh nhìn của Cha ngày đêm luôn dõi theo ngài, và Cha tha phép những gian nan này xảy đến là để tăng thêm công phúc cho ngài mà thôi. Cha ban thưởng không dựa vào thành quả, nhưng vào sự nhẫn nại và khó khăn người ta phải chịu vì Cha.

 

Vilnius, ngày 26 tháng 10 năm 1934

 

87        Thứ Sáu, lúc sáu giờ kém mười, khi cùng với một số học sinh của chúng tôi [38] từ ngoài vườn trở về dùng bữa tối, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu trên nhà nguyện của chúng tôi, giống như lúc Người hiện ra lần đầu với tôi và trong bức hình. Hai luồng sáng từ Trái Tim Chúa Giêsu chiếu giãi nhà nguyện và phòng y tế, và sau đó lan toả khắp thành phố và toàn thế giới. Hiện tượng này kéo dài chừng bốn phút, và sau đó biến đi. Một thiếu nữ trong nhóm cùng đi với tôi, đi sau những người khác một chút, cũng thấy những ánh sáng này, nhưng không được nhìn thấy Chúa Giêsu và không biết ánh sáng ấy từ đâu mà đến. Em quá xao xuyến nên đem kể cho các thiếu nữ khác. Họ nhao lên cười nhạo, cho là tưởng tượng hoặc là ánh sáng phản chiếu của một phi cơ bay qua. Nhưng em nằng nặc cả quyết chưa từng nhìn thấy những luồng sáng như thế bao giờ. Khi những thiếu nữ khác nói rằng có lẽ đó là ánh sáng của một đèn pha, em cho biết em quá biết ánh sáng đèn pha, còn ánh sáng này thì chưa bao giờ nhìn thấy.

 

            Sau bữa tối, thiếu nữ ấy đến bên tôi và kể lại em rất xúc động vì những luồng sáng đến nỗi không thể giữ kín và muốn nói cho mọi người cùng biết. Tuy nhiên, em không được nhìn thấy Chúa Giêsu. Em cứ kể cho tôi về những luồng sáng ấy khiến tôi khó xử vì không thể cho em biết rằng chính tôi đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Tôi cầu nguyện cho em và xin Chúa ban cho em những ân sủng cần thiết. Lòng tôi vui mừng vì Chúa Giêsu đã chủ động tỏ mình ra, cho dù trong trường hợp hành động như thế, Người đã gây phiền hà cho tôi. Nhưng dù sao, vì Chúa Giêsu, chúng ta có thể chịu đựng bất cứ điều gì.

 

88        (37) + Trong giờ chầu, tôi cảm thấy Thiên Chúa rất gần gũi bên mình. Một lúc sau, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria. Khi nhìn thấy hai Đấng, tôi được tràn ngập niềm vui và tôi hỏi Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, thánh ý Chúa thế nào về điều cha giải tội đã truyền cho con hỏi Chúa?”. Chúa Giêsu đáp: Thánh ý Cha là ngài nên ở lại đây và không nên tự miễn chước cho mình. Tôi hỏi Chúa Giêsu có thể ghi hàng chữ: “Cha là Vua Thương Xót”, nhưng Người không dùng lại chữ “Kitô”. Cha ước mong bức hình này được trưng bày công khai vào Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh. Chúa Nhật ấy sẽ là đại lễ kính Lòng Thương Xót của Cha. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, Cha tỏ ra cõi sâu khôn dò lòng nhân lành của Cha.

 

89        + Thật lạ lùng, mọi sự đều xảy ra đúng như Chúa đã yêu cầu. Thực vậy, hôm ấy vào Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh [tháng 4 năm 1935], lần đầu tiên bức hình đã được đông đảo các tín hữu công khai thờ kính. Suốt ba ngày, bức hình đã được trưng bày và nhận được sự sùng kính công khai. Vì được trưng bày ngay trên một cửa sổ tại Ostra Brama [đền thánh Đức Mẹ trên Cổng Phía Đông dẫn đến thành phố Vilnius], nên từ rất xa đã có thể nhìn thấy bức hình. Tại Ostra Brama, trong ba ngày ấy, nghi lễ bế mạc năm thánh Cứu Độ đang được cử hành, kỷ niệm 1900 cuộc Khổ nạn của Chúa Cứu Thế. Giờ đây, tôi nhìn thấy công cuộc cứu độ gắn liền với công cuộc thương xót mà Chúa đang kêu gọi.

 

90        Một ngày kia, trong lòng tôi nhìn thấy cha giải tội của tôi phải đau khổ rất nhiều: các đồng bạn sẽ lìa bỏ cha trong lúc mọi người đứng lên chống đối cha, còn sức khoẻ phần xác của cha lại kiệt quệ. Con nhìn thấy cha như một chùm nho được chủ vườn chọn hái và rồi ném vào máy ép đau khổ. Thưa cha, linh hồn của cha đôi lúc ngập ngụa những nghi nan về công cuộc này và về con.

 

            Thấy Chúa xem ra cũng chống lại cha, tôi hỏi sao Chúa lại xử với ngài như vậy, khác nào đặt các vật cản không cho ngài thực hiện những điều Chúa truyền cho ngài hoàn tất. Và Chúa phán với tôi: Cha xử với ngài như vậy để minh chứng công cuộc này là của Cha. Con hãy nói cho ngài (38) đừng sợ hãi; ánh nhìn của Cha ngày đêm luôn dõi theo ngài. Số hào quang làm nên triều thiên của ngài sẽ nhiều bằng số linh hồn được cứu vớt nhờ công cuộc này. Cha ban thưởng không dựa trên thành công, nhưng trên đau khổ vì công việc.

 

91        Lạy Chúa Giêsu của con, một mình Chúa biết những bách hại con đang phải chịu chỉ vì trung tín với Chúa và tuân theo những lệnh truyền của Chúa. Chúa là dũng lực của con; xin nâng đỡ để con có thể thực hiện những gì Chúa đòi hỏi. Tự mình con, con chỉ là hư vô, nhưng khi được Chúa phù trợ, mọi khó khăn không còn là gì đối với con nữa. Lạy Chúa, con có thể thấy rất rõ ràng từ khi linh hồn con lần đầu tiên được nhận biết Chúa, cuộc đời con đã là một cuộc chiến triền miên, ngày càng khốc liệt hơn.

 

            Mỗi sáng, trong giờ nguyện gẫm, con chuẩn bị cho một ngày chiến đấu. Việc hiệp lễ bảo đảm cho con rằng con sẽ chiến thắng; và quả đúng như vậy. Con sợ hãi ngày mà con sẽ không được hiệp lễ. Bánh của Những Người Mạnh đem đến cho con tất cả dũng lực cần thiết để dấn bước trong sứ mạng và can trường chu toàn những điều Chúa đòi hỏi. Can trường và sức mạnh trong con không phải của con, nhưng là của Đấng ngự trong con - đó là Chúa Thánh Thể.

 

            Lạy Chúa Giêsu của con, những hiểu lầm thật quá kinh hoàng; nhiều khi, nếu không nhờ Thánh Thể, chắc con không thể can đảm dấn bước trên đường Chúa đã vạch sẵn cho con.

 

92        Xỉ nhục là lương thực hằng ngày của tôi. Tôi biết tân nương sẽ phải chia sẻ mọi sự với tân lang; như vậy, chiếc áo phỉ báng của Người sẽ phủ lên thân tôi. Trong những lúc đầy đau khổ, tôi cố gắng nín lặng vì không tin vào lưỡi của mình, trong những lúc ấy, chiếc lưỡi có xu hướng biện minh cho bản thân, trong khi bổn phận nó là phải giúp tôi ca tụng Thiên Chúa về mọi phúc lành và ân huệ Người ban. Khi được rước Chúa Giêsu Thánh Thể, tôi tha thiết xin Người dủ lòng đoái thương chữa lành lưỡi tôi để tôi không còn xúc phạm đến Chúa và người lân cận. Tôi muốn lưỡi tôi không ngừng ca tụng Chúa. Những sai lỗi của chiếc lưỡi thật kinh hồn. Linh hồn sẽ không đạt đến sự thánh thiện nếu không canh phòng chiếc lưỡi của mình.

 

93        (39)      + Tóm Lược Giáo Lý Lời Khấn [39]

 

            H: [Hỏi] Lời khấn là gì?

 

            Đ: [Đáp] Lời khấn là một lời tự tình hứa với Chúa để thực hiện một hành vi trọn lành hơn.

 

            H: Lời khấn có hiệu lực bắt buộc trong một vấn đề thuộc đối tượng của một giới luật hay không?

 

            Đ: Có. Việc thực hiện một hành vi thuộc đối tượng giới luật mang một giá trị và công trạng kép; tuy nhiên, việc thiếu sót một hành vi như thế là một vi phạm và sự dữ kép, bởi vì khi lỗi phạm lời khấn, chúng ta phạm một tội vừa vi phạm giới luật, vừa vi phạm sự thánh.

 

            H: Tại sao các lời khấn bậc tu trì lại có giá trị như thế?

 

            Đ: Vì đó là nền tảng của nếp sống tu trì đã được Giáo Hội chuẩn nhận, trong đó, các phần tử liên kết với nhau trong một cộng đồng tu trì phải luôn phấn đấu đạt đến sự trọn lành bằng ba lời khấn thanh bần, thanh tịnh, tuân phục, và tuân giữ các quy luật của dòng.

 

            H: “Phấn đấu đạt đến sự trọn lành” nghĩa là gì?

 

            Đ: Phấn đấu đạt đến sự trọn lành không có nghĩa là đã đạt được sự hoàn thiện trong nếp sống tu trì, nhưng buộc chúng ta, với quy trách phạm tội, hằng ngày phải ra sức đạt đến sự trọn lành. Vì thế, một tu sĩ không muốn trở nên trọn lành là thiếu sót bổn phận chính yếu trong bậc sống của mình.

 

            H: Lời khấn “trọng” là gì?

 

            Đ: Lời khấn “trọng” mang tính tuyệt đối, vì thế, trong các trường hợp ngoại thường, chỉ mình Đức Thánh Cha mới có thể tháo chuẩn.

 

            H: Lời khấn “đơn” là gì?

 

            Đ: Lời khấn “đơn” không mang tính tuyệt đối, Toà Thánh vẫn tháo chuẩn và vô hiệu hoá những lời khấn trọn đời và những lời khấn hằng năm.

 

            (40) H: Đâu là sự dị biệt giữa lời khấn với nhân đức?

 

            Đ: Lời khấn liên quan đến những điều đòi buộc, với quy trách phạm tội; nhân đức vượt trên điều ấy và trợ giúp cho việc thực thi lời khấn; hơn nữa, khi vi phạm lời khấn là chúng ta đã sai lỗi và làm tổn hại nhân đức.

 

            H: Các lời khấn bậc tu trì đòi buộc chúng ta đến mức nào?

 

            Đ: Các lời khấn bậc tu trì đòi buộc chúng ta phải nỗ lực đắc thủ các nhân đức, hoàn toàn suy phục các bề trên và các quy luật có hiệu lực của dòng; như vậy; các tu sĩ hiến thân cho cộng đoàn, từ bỏ mọi quyền lợi và hoạt động của bản thân để hy sinh phụng sự Thiên Chúa.

 

Lời Khấn Thanh Bần

 

            Khấn thanh bần là tự nguyện từ bỏ quyền lợi của cải hoặc quyền sử dụng các của cải với mục đích làm hài lòng Thiên Chúa.

 

            H: Những đối tượng của lời khấn thanh bần là gì?

 

            Đ: Đó là tất cả của cải và những vật dụng liên quan đến cộng đoàn. Chúng ta không còn quyền trên bất cứ thứ gì đã được ban cho chúng ta, một khi đã được lãnh nhận, dù là vật dụng hay tiền bạc. Tất cả những của biếu tặng và quà cáp - dù chúng ta nhận được do lòng biết ơn hoặc vì một nguyên nhân nào khác - đều thuộc về quyền lợi của cộng đoàn. Chúng ta không thể sử dụng những lương tiền chúng ta nhận được do công việc hoặc trợ cấp mà không vi phạm lời khấn.

 

            H: Khi nào chúng ta lỗi hoặc vi phạm lời khấn nhưng liên quan đến giới răn thứ bảy?

 

            Đ: Chúng ta vi phạm khi không có phép mà thủ đắc bất cứ của gì thuộc về nhà dòng; khi không có phép, mà giữ lại của gì để chiếm dụng; và khi không được uỷ quyền, mà mua bán hoặc đổi chác những của cải thuộc về cộng đoàn. Chúng ta vi phạm khi sử dụng một vật không đúng với mục đích bề trên đã đề ra; khi cho hoặc nhận bất cứ của gì mà không có phép; khi vì chểnh mảng mà làm hư hại một vật gì; mang theo vật gì khi di chuyển từ nhà này sang nhà khác mà không có phép. Khi lời khấn bị vi phạm, tu sĩ (41) buộc phải bồi thường cho cộng đoàn.

 

Nhân Đức Thanh Bần

 

            Đây là một nhân đức Phúc Âm, đòi buộc linh hồn phải siêu thoát với những sự vật đời này; các tu sĩ vì đã tuyên khấn nên buộc phải tuân giữ nghiêm túc.

 

            H: Khi nào chúng ta phạm tội nghịch nhân đức thanh bần?

 

            Đ: Khi chúng ta ước ao điều gì trái nghịch với nhân đức này. Khi chúng ta dính bén với của cải và khi sử dụng những của dư thừa.

 

            H: Nhân đức thanh bần có bao nhiêu cấp độ và những cấp độ ấy là gì?

 

            Đ: Trong thực hành, nhân đức thanh bần của một tu sĩ có lời khấn gồm bốn cấp độ:

 

            - không dùng của gì nếu không có sự đồng ý của bề trên (chất liệu của lời khấn);

 

            - tránh dùng của cải dư thừa và bằng lòng với những vật dụng cần thiết (điều này liên quan đến nhân đức);

 

            - vui lòng với những vật dụng kém chất lượng liên quan đến nhà ở, y phục, thực phẩm, vv... và trong lòng cảm nghiệm được niềm vui; vui vì được sống trong cảnh nghèo túng cùng cực.

 

Lời Khấn Thanh Tịnh

 

            H: Lời khấn này đòi buộc chúng ta những gì?

 

            Đ: Lời khấn này đòi chúng ta phải khước từ hôn nhân và xa tránh tất cả những gì giới răn thứ sáu và giới răn thứ chín ngăn cấm.

 

            H: Một sai lỗi về nhân đức có phải cũng vi phạm lời khấn hay không?

 

            Đ: Mọi sai lỗi nghịch nhân đức thanh tịnh cũng đồng thời vi phạm lời khấn thanh tịnh, bởi vì ở đây không có sự khác biệt giữa lời khấn và nhân đức như trong trường hợp khó nghèo và vâng phục. (42)

 

            H: Mọi tư tưởng xấu có phải là tội không?

 

            Đ: Không, không phải mọi tư tưởng xấu đều là tội; tư tưởng xấu chỉ trở thành tội khi có sự ưng thuận hoàn toàn của ý chí và sự ưng thuận ấy đi liền sau sự suy xét của lý trí.

 

            H: Ngoài những tội lỗi nghịch đức thanh tịnh, còn điều gì cũng nguy hại cho nhân đức này nữa?

 

            Đ: Việc thiếu cẩn trọng phòng các giác quan, trí tưởng tượng, các cảm xúc, các tình cảm thân mật đều gây tổn hại cho nhân đức.

 

            H: Đâu là những phương thế để bảo toàn nhân đức này?

 

            Đ: Việc tưởng nghĩ đến sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ giúp vượt thắng và chống lại những cám dỗ trong lòng mà không sợ hãi. Về các chước cám dỗ bên ngoài, hãy tránh dịp. Nói chung có bảy phương thế chính yếu sau đây: cẩn phòng giác quan; tránh dịp tội; tránh ở nhưng không; mau chóng xua đuổi các cơn cám dỗ; xa tránh tất cả, nhất là những tình cảm riêng tư; sống tinh thần khổ chế; và bày tỏ tất cả các cám dỗ với cha giải tội.

 

            Ngoài ra, cũng còn năm phương thế khác giúp bảo toàn nhân đức này: khiêm tốn, có tinh thần cầu nguyện; nết na giữ con mắt; trung thành giữ luật; thành thực sùng kính Đức Trinh Nữ Maria.

 

Lời Khấn Vâng Phục

 

            Lời khấn vâng phục cao trọng hơn hai lời khấn kia. Quả thật, đó là một của lễ toàn thiêu. Lời khấn này còn cần thiết hơn nữa vì tạo lập và làm sinh động hội dòng.

 

            H: Lời khấn vâng phục đòi buộc chúng ta những gì?

 

            Đ: Với lời khấn tuân phục, tu sĩ hứa quyết với Thiên Chúa sẽ vâng phục các Bề Trên hợp pháp trong mọi sự các ngài đặt định theo luật dòng. Lời khấn tuân phục buộc các tu sĩ phải lệ thuộc vào bề trên theo luật định trong suốt đời và trong mọi công việc. Tu sĩ phạm tội trọng lỗi lời khấn tuân phục khi bất tuân mệnh lệnh được truyền (43) với hiệu lực đức tuân phục và hiệu lực của dòng.

 

Nhân Đức Tuân Phục

 

            Nhân đức tuân phục còn đi sâu hơn lời khấn; bao gồm luật dòng, các quy định, và cả lời khuyên của các bề trên.

 

            H: Phải chăng nhân đức tuân phục là điều thiết yếu đối với tu sĩ?

 

            Đ: Nhân đức tuân phục là điều thiết yếu đối với tu sĩ đến độ giả như họ làm những việc lành nhưng nghịch với đức tuân phục thì những việc này cũng là điều dữ và không có công trạng.

 

            H: Chúng ta có thể phạm tội trọng lỗi nhân đức tuân không?

 

            Đ: Chúng ta phạm tội trọng lỗi nhân đức tuân phục khi khinh thị quyền bính hoặc mệnh lệnh của bề trên, hoặc khi vì hành vi không tuân phục của ta mà làm hại cho cộng đoàn trên phương diện tinh thần hoặc vật chất.

 

            H: Những lỗi nào gây nguy hại cho lời khấn?

 

            Đ: Để lòng thành kiến hoặc nuôi ác cảm với bề trên - xầm xì hoặc chỉ trích, chậm chạp và chểnh mảng.

 

Cấp Độ Tuân Phục

 

            Chu toàn mau mắn và trọn vẹn - tức là vâng phục của ý chí, khi ý chí thuyết phục lý trí suy phục lời khuyên của bề trên. Thánh Inhaxiô đưa ra ba phương thế giúp tuân phục dễ dàng: luôn luôn nhìn nhận Thiên Chúa nơi bề trên của chúng ta, cho dù ngài là ai; hiểu ý lành cho mệnh lệnh hoặc lời khuyên của bề trên; chấp nhận mỗi mệnh lệnh như một lệnh truyền từ Chúa mà đến, không chất vấn hoặc xét nét. Phương thế tổng quát: khiêm tốn. Không có gì khó khăn đối với những người khiêm tốn.

 

94        (44) Lạy Thiên Chúa của con, xin đốt lửa tình yêu Chúa trong tâm hồn con để thần trí con không bị yếu nhược giữa những phong ba, đau khổ và thử thách. Chúa biết con yếu đuối nhường nào. Tình yêu có thể làm được mọi sự.

 

95                    + Hiểu Biết Chúa Hơn và Nỗi Sợ Hãi của Linh Hồn

 

            Lúc đầu, Thiên Chúa tỏ mình qua sự thánh thiện, đức công bình, và lòng nhân lành - tức là Lòng Thương Xót của Người. Linh hồn không nhận biết tất cả điều này ngay một lúc, nhưng từng chút một, như những tia chớp; tức là khi Thiên Chúa đến gần. Nhưng điều này không kéo dài lâu, bởi vì linh hồn không thể chịu nổi ánh sáng như thế. Trong giờ cầu nguyện, linh hồn cảm nhận được những tia chớp của ánh sáng này khiến nó không sao cầu nguyện được như trước kia. Linh hồn cố gắng hết sức để ép mình cầu nguyện như trước nhưng vô ích, nó hoàn toàn không còn khả năng để tiếp tục cầu nguyện như trước khi nhận được ánh sáng này. Ánh sáng này đã chạm đến linh hồn và sống động trong đó, không gì có thể dập tắt hay làm giảm đi được. Tia chớp tri thức Thiên Chúa này cuốn hút linh hồn và làm nó bừng cháy tình yêu Thiên Chúa.

 

            Nhưng tia chớp này đồng thời cũng làm cho linh hồn được biết mình; linh hồn thấy tất cả nội tâm mình trong một ánh sáng siêu việt, và nó chỗi dậy trong tỉnh thức và kinh hãi. Tuy nhiên, linh hồn không ở mãi dưới những ảnh hưởng của sự kinh hãi, nhưng bắt đầu tự thanh luyện, khiêm tốn và tự hạ trước nhan Thiên Chúa. Những ánh sáng này càng chói chang và thường xuyên hơn thì càng xuyên thấu linh hồn và linh hồn trở nên tinh sạch hơn. Tuy nhiên, nếu như linh hồn trung thành và can đảm đáp ứng những ơn thánh đầu tiên ấy, Thiên Chúa sẽ ban dư đầy an ủi và hiến mình cho linh hồn đến độ có thể cảm nhận được. Có thể nói có những giây phút linh hồn tham dự vào hoan hưởng ân tình thân mật với Thiên Chúa; linh hồn tin đã đạt đến mức hoàn thiện được tiền định cho mình, bởi lẽ những khuyết điểm và bất toàn của linh hồn đang ngủ yên, và điều này khiến linh hồn tưởng chúng không còn nữa. Không còn gì là khó khăn, linh hồn sẵn sàng làm mọi sự. Linh hồn bắt đầu gieo mình vào Thiên Chúa và cảm hưởng những hoan lạc thần linh. Linh hồn được ân sủng mang đi và không nghĩ gì đến thời gian thử thách và thanh tẩy sẽ đến. Và quả thực, tình trạng này không kéo dài lâu. Những thời khắc khác sẽ mau đến. Tuy nhiên, tôi phải thêm rằng linh hồn vẫn có thể đáp ứng trung thành với ơn Chúa nếu như có được một cha giải tội từng trải để linh hồn có thể thổ lộ mọi sự.

 

96        (45) + Những thử thách Thiên Chúa gởi đến cho một linh hồn được Người ưu ái đặc biệt. Những thử thách và bóng tối; Satan.

 

            Tình yêu linh hồn [đối với Thiên Chúa] vẫn chưa phải là thứ tình yêu mà Thiên Chúa muốn thấy. Linh hồn bỗng nhiên mất hết tri thức giác cảm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Những khuyết điểm và bất toàn đủ loại chỗi dậy; và linh hồn phải chiến đấu mãnh liệt để chống lại. Tất cả mọi sai lỗi ngóc đầu dậy, nhưng sự cảnh tỉnh của linh hồn thật lớn lao. Ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trước kia nhường chỗ cho tình trạng lạnh lẽo và khô khan thiêng liêng; linh hồn không còn cảm hưởng gì nữa đối với các việc thiêng liêng; không thể cầu nguyện, dù theo cách thế cũ, hay theo cách thế mà linh hồn vừa mới bắt đầu cầu nguyện. Linh hồn vùng vẫy hết cách nhưng không sao được thoả nguyện. Thiên Chúa đã ẩn mặt và linh hồn không tìm được an ủi nơi các thụ tạo, mà cũng chẳng thụ tạo nào tìm ra cách để an ủi linh hồn. Linh hồn khắc khoải khát mong Thiên Chúa nhưng chỉ thấy nỗi khốn cùng của mình; nó bắt đầu cảm nhận ra phép công thẳng của Thiên Chúa; dường như linh hồn đã đánh mất mọi ân huệ Thiên Chúa ban cho; tâm trí mịt mù, tăm tối phủ đầy; những nỗi cực hình khôn xiết đã bắt đầu. Linh hồn cố gắng giãi bày tình trạng của mình cho cha giải tội nhưng không được thông cảm, mà còn bị một sự áy náy ngày càng gia tăng tấn công dữ dội. Satan bắt đầu ra tay.

 

97        Đức tin chao đảo dưới ảnh hưởng này; cuộc chiến đấu thật kinh hoàng. Linh hồn cố gắng hết sức để bám chặt lấy Thiên Chúa bằng một hành vi ý chí. Được phép của Thiên Chúa, Satan càng lộng hành: đức cậy và đức mến bị thử thách. Những cám dỗ này thật ghê rợn. Có thể nói Thiên Chúa nâng đỡ linh hồn trong thầm kín. Tuy linh hồn không nhận ra, nhưng nếu không có điều ấy, có lẽ linh hồn không thể đứng vững; và Thiên Chúa quá biết Người có thể tha phép những gì xảy đến với một linh hồn. Linh hồn bị cám dỗ đừng tin tưởng các chân lý mặc khải và đừng chân thành với cha giải tội. Satan rỉ rón: “Hãy xem, có ai hiểu ngươi đâu; tại sao lại tỏ lộ tất cả chuyện này làm gì?”. Những lời ấy làm linh hồn kinh hãi cứ văng vẳng bên tai, và dường như chính linh hồn cũng đang thốt ra những lời ấy để chống lại Thiên Chúa. Linh hồn thấy điều không muốn thấy, nghe điều không muốn nghe. Và thật kinh khủng nếu như linh hồn không có một cha giải tội từng trải! Linh hồn một mình ì ạch vác tất cả gánh nặng. Tuy nhiên, linh hồn phải nỗ lực hết sức để tìm cho được một cha giải tội kinh nghiệm, vì họ có thể quỵ ngã dưới sức nặng và đã đến sát bờ vực thẳm. (46) Tất cả những thử thách này rất nặng nề và gian nan. Thiên Chúa không gởi cho các linh hồn chưa được tiếp nhận vào nghĩa tình thân mật với Người và nếm hưởng những hoan lạc thiêng liêng. Hơn nữa ở đây, Thiên Chúa có những chương trình riêng mà chúng ta không sao hiểu thấu. Thiên Chúa thường chuẩn bị linh hồn như thế cho các chương trình và công cuộc lớn lao của Người trong tương lai. Chúa muốn thử luyện linh hồn như một thứ vàng tinh ròng. Nhưng đây chưa phải là kết thúc cuộc thử thách; còn một cuộc thử thách vượt trên các thử thách khác; linh hồn bị Thiên Chúa ruồng rẫy.

 

+ Cuộc Thử Thách trên Các Thử Thách, Bị Ruồng Bỏ - Tuyệt Vọng

 

98        Khi linh hồn khải thắng những cuộc thử thách trước kia, mặc dù có thể vấp ngã đây đó, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng và khiêm tốn kêu cầu Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin thương cứu kẻo con chết mất!”. Và linh hồn vẫn phải tiếp tục chiến đấu.

 

            Tuy nhiên, đến lúc này, linh hồn còn bị chìm ngập giữa bóng đêm kinh hoàng. Linh hồn thấy nơi mình chỉ toàn tội lỗi. Nó cảm thấy hãi hùng, thấy đã bị Thiên Chúa loại bỏ hoàn toàn. Nó thấy mình là đối tượng bị Thiên Chúa ghét bỏ. Chỉ còn một bước chân nữa là linh hồn đến chỗ tuyệt vọng. Linh hồn cố gắng hết sức để tự vệ; ra sức khơi dậy niềm tin; nhưng lời cầu nguyện ấy biến nên một cực hình cho nó, dường như chỉ khiến cho Thiên Chúa thêm thịnh nộ. Linh hồn thấy mình chới với trên vách đá chót vót, sát bên bờ vực thẳm.

 

            Linh hồn được lôi cuốn đến với Chúa nhưng lại cảm thấy bị cự tuyệt. Tất cả mọi đau khổ và cực hình thế gian này chẳng là gì nếu sánh với cảm giác mà linh hồn đang bị đẩy vào; tức là bị Thiên Chúa loại bỏ. Không ai làm cho linh hồn được khuây khoả; nó hoàn toàn cô độc; không được ai chở che. Linh hồn ngước mắt về thiên đàng, nhưng đinh ninh thiên đàng không có chỗ cho mình - đối với nó, tất cả đều đã mất mát. Linh hồn ngày càng lún sâu hơn vào tăm tối này đến tối tăm kia, dường như vĩnh viễn đã đánh mất Thiên Chúa là Đấng trước kia nó đã từng thiết tha yêu mến. Ý nghĩ đó là một cực hình không lời tả xiết. Nhưng linh hồn không đầu hàng và cố gắng vươn tầm nhìn về thiên đàng, nhưng vô ích! Điều này làm cho nỗi cực hình càng thêm ghê rợn hơn nữa.

 

            (47) Nếu Thiên Chúa muốn giữ linh hồn trong cảnh tối tăm như thế thì không ai có thể đem lại ánh sáng cho nó được. Một cách sống động đầy kinh hoàng, linh hồn cảm thấy bị Thiên Chúa loại bỏ. Từ lòng nó phát ra những tiếng than não nề, thống thiết đến độ không một linh mục nào hiểu thấu, trừ phi chính ngài cũng từng trải qua thử thách như vậy. Trong thảm cảnh đó, thần dữ còn trút thêm thống khổ cho linh hồn và chế giễu: “Ngươi còn lì lượm trung thành nữa không? Phần thưởng cho ngươi đấy; ngươi nằm trong quyền lực của tao rồi!”. Nhưng Satan chỉ có thể chì chiết linh hồn đến mức độ Thiên Chúa cho phép mà thôi, vì Thiên Chúa biết chúng ta có thể chịu đựng đến đâu. Satan eo xèo: “Ngươi được những gì qua sự khổ chế và qua sự trung thành với luật dòng của ngươi nào? Tất cả những cố gắng ấy ích lợi gì đâu? Ngươi đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ rồi!”. Hai tiếng ruồng bỏ trở thành một mồi lửa xuyên qua mọi tế bào thần kinh, thấu tận xuyên tuỷ. Nó xuyên thấu toàn thể hữu thể. Cơn thử thánh lên đến cực điểm. Linh hồn không còn tìm sự trợ giúp ở đâu nữa. Linh hồn co rúm lại với chính mình và không còn nhìn thấy gì nữa; như thế đã chấp nhận cực hình bị ruồng bỏ. Đây là giờ khắc tôi không còn lời gì để nói. Đây là cơn hấp hối của linh hồn.

 

99        Lần đầu tiên khi sắp sửa vào thời khắc ấy, tôi đã nhờ đức vâng lời thánh thiện mà thoát được. Mẹ Giám Tập nhận thấy dáng vẻ không ổn của tôi nên truyền tôi đi xưng tội, nhưng vị linh mục không hiểu tôi, và tôi cũng không nghiệm được sự thanh thản nào cả. Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những vị linh mục kinh nghiệm!

 

            Khi tôi bày tỏ cho vị linh mục biết tôi đang trải qua những nỗi khổ hoả ngục, ngài nói ngài không hề lo lắng cho linh hồn tôi vì thấy đó là một ơn trọng Chúa ban. Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả, ngay một tia sáng leo lắt để soi sáng cho linh hồn tôi mà cũng chẳng có.

 

100      Khi đó, sức lực thể lý của tôi cũng bắt đầu kiệt quệ, tôi không chu toàn được các nhiệm vụ của mình nữa. Tôi cũng không thể giấu được những đau khổ. Mặc dù không thốt ra một lời than vãn, nhưng dáng vẻ đớn đau trên gương mặt tôi đã bộc lộ hết. Mẹ Bề Trên cho tôi biết các chị em đến nói với Mẹ rằng, khi thấy tôi trong nhà nguyện, họ đã xúc động vì thấy tôi thê thảm. Vâng, mặc dù cố gắng hết sức, nhưng linh hồn vẫn không thể che giấu được nỗi khổ ấy.

 

101      Lạy Chúa Giêsu, chỉ mình Chúa biết linh hồn bị đắm chìm giữa tăm tối rên xiết thế nào giữa nỗi cực hình, và dù vậy, vẫn khao khát Chúa như một bờ môi khô lả khát nước. Linh hồn tàn lụi héo hắt; chết mà không chết; có thể nói là không sao chết được. Tất cả cố gắng của linh hồn đều không đến đâu; nó bị đè dưới một bàn tay mạnh mẽ. (48) Giờ đây, linh hồn nằm dưới quyền lực Đấng Chí Công. Mọi cám dỗ bên ngoài đều ngưng lại; mọi vật chung quanh đều im tiếng. Khác nào xác chết không còn tiếp xúc với vạn vật chung quanh: trót cả linh hồn nằm trong bàn tay của Thiên Chúa Công Thẳng, Thiên Chúa Ba-Lần-Thánh, - và bị loại bỏ muôn đời! Đây là giờ phút tột cùng, và chỉ mình Thiên Chúa mới có thể thử thách linh hồn đến vậy, vì chỉ mình Người mới biết linh hồn có thể chịu đựng đến đâu.

 

102      Một lúc sau, một chị vào phòng và nhìn thấy tôi đã gần như chết. Chị hốt hoảng chạy tìm Mẹ Giám Tập, Mẹ đến và nhân danh đức vâng lời truyền cho tôi chỗi dậy khỏi mặt đất. Sức lực tôi liền phục hồi, tôi chỗi dậy, run rẩy. Mẹ Giám Tập nhận ra tình trạng linh hồn tôi và nói cho tôi biết về lòng nhân lành vô biên Thiên Chúa, Mẹ nói: “Này chị, chị đừng ngã lòng về sự gì cả. Tôi truyền điều này cho chị nhân danh đức vâng lời”. Sau đó, Mẹ còn nói thêm: “Này chị, bây giờ tôi thấy Thiên Chúa đang kêu gọi chị lên một cấp độ thánh thiện cao vời; Chúa muốn kéo chị đến gần bên Người, vì thế Người đã tha phép cho những điều này xảy đến với chị sớm sủa như vậy. Này chị, chị hãy trung thành với Thiên Chúa bởi vì đây là dấu cho thấy Người muốn chị có được một chỗ cao trọng trên thiên đàng”. Tuy nhiên, tôi chẳng hiểu gì về những lời ấy. (49) Khi vào nhà nguyện, tôi cảm thấy linh hồn như thể đã được giải thoát khoải mọi sự, như thể vừa mới từ bàn tay Chúa mà ra. Tôi nhận ra tính bất khả xâm phạm của linh hồn. Tôi cảm thấy mình là một đứa trẻ bé bỏng.

 

103      Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy Chúa trong lòng, Người phán với tôi: Hỡi ái nữ của Cha, đừng sợ, Cha ở với con. Ngay giây phút ấy, mọi tăm tối và cực hình đều biến mất, các giác quan tôi dạt dào niềm vui sướng khôn tả, [và] các tài năng của linh hồn tôi chứa chan ánh sáng.

 

104      Tôi muốn mói thêm, mặc dù linh hồn tôi đã ở trong những tia sáng tình yêu Thiên Chúa, nhưng các dấu vết cực hình quá khứ vẫn hằn lại trên thân xác tôi hai ngày nữa: mặt tái xanh như chết, cặp mắt thì đỏ ngầu. Chỉ mình Chúa Giêsu mới biết tôi đã chịu đựng những gì. Những điều tôi viết ra đây thật chẳng là gì so với thực tế. Tôi không thể diễn tả bằng ngôn từ; dường như tôi đã từ thế giới bên kia trở về. Tôi cảm thấy gớm ghét mọi thụ tạo; tôi nép sát vào Trái Tim Chúa như một con trẻ ôm bầu sữa mẹ. Giờ đây, tôi nhìn mọi sự đã khác xưa. Tắt một lời, tôi ý thức được những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong linh hồn tôi, và tôi nhờ đó mà sống được. Tôi rùng mình khi hồi tưởng cực hình đã qua. Có lẽ không sao tin nổi con người mà lại có thể chịu đựng đến thế nếu chính bản thân chưa từng trải nghiệm. Đây là một đau khổ thuần tuý tinh thần.

 

105      Tuy nhiên, giữa tất cả những đau khổ và chiến đấu, tôi vẫn không bỏ rước lễ. Có lần vì nghĩ không nên rước Chúa, trước giờ hiệp lễ, tôi đã đến gặp Mẹ Giám Tập và thưa rằng tôi không thể hiệp lễ, bởi thấy mình không nên làm thế. Nhưng Mẹ không ban phép cho tôi bỏ hiệp lễ, thành ra tôi cứ lên, và giờ đây tôi hiểu rằng nhờ đức vâng lời mà tôi đã được cứu thoát.

 

            Mẹ Giám Tập sau đó cho biết tôi đã vượt qua những thử thách một cách chóng vánh như thế “chỉ vì đã vâng lời, chị à; chính nhờ sức mạnh đức vâng lời mà chị đã thắng vượt điều này một cách can đảm như thế”. Quả thực, chính Chúa đã đưa tôi ra khỏi nỗi cực hình, nhưng sự trung thành với đức vâng phục của tôi đã làm đẹp lòng Người.

 

106      Mặc dù đó là những điều kinh hãi, nhưng linh hồn không nên quá khiếp sợ, bởi Thiên Chúa không bao giờ thử thách chúng ta quá sức chịu đựng. Đàng khác, cũng có thể Chúa không bao giờ gởi cho chúng ta những đau khổ ấy, nhưng tôi viết điều này bởi vì nếu Chúa vui lòng để một linh hồn trải qua (50) những đau khổ ấy, thì họ không nên sợ hãi vì điều này tuỳ thuộc vào chính bản thân họ nếu họ trung thành với Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ không làm hại linh hồn bởi chính Người là tình yêu, và chính vì tình yêu vô cùng ấy mà Người đã đưa linh hồn ra hiện hữu. Tuy nhiên, giữa cơn đau khổ, chính tôi cũng chẳng hiểu ra điều này.

 

107      Lạy Chúa của con, con đã biết mình không thuộc về thế gian; lạy Chúa, Chúa đã trào đổ cho linh hồn con ý thức sâu xa về điều này. Con được hiệp thông với cõi trời nhiều hơn với cõi đất, mặc dù con không xao lãng với những bổn phận của mình.

 

108      Trong những thời gian ấy, tôi không có cha linh hướng mà cũng không được hướng dẫn gì cả. Tôi khẩn nài Chúa, nhưng Người vẫn không ban cho tôi một vị linh hướng. Chính Chúa Giêsu là Thầy Dạy của tôi ngay từ tấm bé cho đến lúc này. Chúa đồng hành với tôi qua những sa mạc và mọi hiểm nguy. Tôi thấy rõ ràng chỉ một mình Chúa có thể dìu dắt tôi băng qua những hiểm nguy nhường ấy một cách an lành, linh hồn tôi không bị hoen ố và thắng vượt những trắc trở gian nan một cách khải hoàn. Ra khỏi [...]. Về sau, Chúa mới ban cho tôi một cha linh hướng.

 

109      Sau những đau khổ ấy, linh hồn thấy mình trong tình trạng hết sức tinh sạch và thân mật với Thiên Chúa. Nhưng tôi xin thêm rằng ngay trong thời gian cực hình ấy, tuy ở bên Thiên Chúa, nhưng linh hồn lại bị mù. Cái nhìn của linh hồn bị chìm trong tăm tối, Thiên Chúa vẫn ở gần gũi với linh hồn đau khổ, nhưng tất cả bí mật là ở chỗ linh hồn chẳng nhận biết điều này. Thực vậy, linh hồn thừa nhận không những Thiên Chúa đã ruồng bỏ nó, mà nó còn là đối tượng gớm ghét của Người. Con mắt của linh hồn đau khổ thật mù loà biết bao! Khi tiếp xúc với ánh sáng thần linh, linh hồn khẳng định ánh sáng ấy không hề hiện hữu chỉ vì ánh sáng quá chói chang ấy đã làm cho linh hồn bị quáng. Tuy vậy, về sau, tôi biết Thiên Chúa đã ở gần gũi với một linh hồn trong những giây phút như thế hơn bao giờ hết, bởi vì nếu chỉ được trợ lực bằng ân sủng thông thường, ắt hẳn linh hồn không thể chịu nổi những thử thách này. Quyền toàn năng và ân sủng ngoại thường của Chúa nhất định phải hoạt động ở đây, vì nếu không linh hồn có lẽ đã thất bại ngay từ đau khổ ban đầu.

 

110      Lạy Tôn Sư chí thánh, điều xảy ra trong linh hồn con là công việc của riêng Chúa! Lạy Chúa, Chúa đã không ngần ngại để linh hồn con đứng bên bờ vực thẳm hun hút, khiếp hãi, và rồi gọi con trở về bên Chúa. Đây là những mầu nhiệm khôn thấu của Chúa.

 

111      (51) Giữa những cực hình nội tâm này, tôi đã cáo mình cả những sai lỗi vụn vặt nhất, linh mục lấy làm lạ vì tôi không phạm các lỗi nặng nên nói với tôi: “Nếu giữa những đau khổ mà chị trung thành được với Thiên Chúa thế này, điều đó cho tôi thấy rõ là Thiên Chúa đang nâng đỡ chị bằng một hồng ân đặc biệt, và việc chị không hiểu chuyện này hoá ra là một điều tốt đấy, chị ạ”. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là cha giải tội cũng chẳng hiểu tôi và cũng chẳng giúp tôi nhẹ nhõm được trong những vấn đề này cho tới khi tôi gặp được cha Andrasz, và sau đó là cha Sopocko.

 

112      + Ít điều về việc xưng tội và các cha giải tội. Tôi sẽ chỉ nói về những gì bản thân đã trải qua và đã diễn ra trong linh hồn tôi. Trong những giờ phút ngoại thường này, có ba điều cản trở khiến linh hồn không thể kín múc được lợi ích từ việc xưng tội.

 

            Thứ nhất: Cha giải tội thiếu hiểu biết những đường lối ngoại thường và tỏ ra ngỡ ngàng khi một linh hồn cho ngài biết những mầu nhiệm trọng đại Chúa đang thực hiện nơi họ. Sự ngỡ ngàng của ngài khiến linh hồn nhạy cảm phải sợ hãi vì thấy cha giải tội lưỡng lự nói lên ý kiến, và một khi linh hồn nhận ra thái độ ấy, thì họ cảm thấy bất an. Sau khi xưng tội, họ còn nhiều nghi nan hơn trước vì thấy cha giải tội cố gắng trấn an họ trong khi chính ngài thì lại bất an. Hoặc giống như trường hợp đã từng xảy ra với tôi: một cha giải tội, vì không thấu đạt các mầu nhiệm của linh hồn, nên đã từ chối giải tội, và tỏ ra sợ hãi khi thấy linh hồn đến toà cáo giải.

 

            Một linh hồn trong tình trạng này làm sao có thể tìm được bình an trong toà cáo giải khi họ đã trở nên quá nhạy cảm với từng lời của vị linh mục? Theo thiển kiến của tôi, trong những thử thách đặc biệt Chúa gởi đến cho một linh hồn như vậy, nếu vị linh mục không hiểu được linh hồn thì nên hướng dẫn họ gặp một cha giải tội khác từng trải và khôn ngoan hơn. Nếu không, chính ngài phải tìm hiểu để cung cấp cho linh hồn ấy những gì họ cần, thay vì thẳng thừng từ chối không ban bí tích Xá Giải cho họ. Làm như thế là ngài xô linh hồn vào chỗ nguy hiểm trầm trọng; và không ít linh hồn đã từ bỏ con đường Chúa muốn họ phải theo. Đây là một vấn đề hết sức hệ trọng, vì bản thân tôi đã từng trải qua. Chính tôi đã bắt đầu chao đảo; mặc dù được những ân huệ đặc biệt Chúa ban, và dù chính Chúa đã trấn an, nhưng lúc nào tôi cũng muốn được một ấn tín từ phía Chúa Giêsu.

 

            (52) Thứ hai: Cha giải tội tỏ ra bất nhẫn và không cho linh hồn được giãi bày một cách thẳng thắn. Vì thế, linh hồn đành câm nín, không trình bày điều gì cả [mà đúng ra phải trình bày], và do đó không thu lượm được ích lợi. Tệ hơn nữa là khi cha giải tội, mặc dù thực sự không hiểu biết linh hồn, vẫn cứ thử thách họ. Thay vì giúp đỡ, vị linh mục lại làm hại linh hồn đương sự. Linh hồn nhận ra vị linh mục không hiểu biết họ, vì ngài không cho họ giãi trình cặn kẽ về những ân sủng cũng như nỗi khốn cùng của họ. Và như thế, việc thử thách hoá ra lệch hướng. Đối với một số thử thách mà tôi đã phải chịu, tôi chỉ còn nước phải phì cười.

 

            Tôi xin giải thích rõ ràng hơn sự việc này như sau: cha giải tội là thầy thuốc của linh hồn, nhưng một thầy thuốc không hiểu biết bản chất căn bệnh thì làm sao có thể kê đơn phù hợp cho được? Không bao giờ ngài có thể làm được. Vì một mặt, thuốc không sinh công hiệu như ý muốn, hoặc là thuốc sẽ quá mạnh và làm cho bệnh tình nặng thêm, và lắm khi - lạy Chúa - còn gây ra tử vong nữa. Tôi đang nói về kinh nghiệm bản thân, vì trong một số trường hợp, chính Chúa đã phải trực tiếp đỡ nâng tôi.

 

            Thứ ba: Cha giải tội nhiều khi coi thường những yếu tố nhỏ mọn. Trong đời sống thiêng liêng, không có gì là nhỏ mọn cả. Đôi khi một yếu tố xem ra tầm thường lại ẩn chứa một tiền đề đưa đến những hiệu quả quan trọng, và là tia sáng giúp cha giải tội hiểu biết thêm về linh hồn. Rất nhiều điều cơ bản về phương diện thiêng liêng tiềm ẩn dưới những điều nhỏ mọn.

 

            Một toà nhà nguy nga không bao giờ có thể vươn cao nếu chúng ta vất bỏ hết những viên gạch vô nghĩa. Thiên Chúa đòi hỏi các linh hồn phải rất tinh sạch, và do đó Người cho họ thấm thía sâu xa về nỗi khốn cùng của họ. Được ơn trên soi sáng, linh hồn biết được điều gì đẹp lòng và điều gì không đẹp lòng Thiên Chúa. Tội lỗi tuỳ thuộc vào mức độ hiểu biết và ánh sáng trong linh hồn. Các bất toàn cũng tương tự như thế. Mặc dù linh hồn biết chỉ có tội lỗi đúng nghĩa mới liên hệ đến nhiệm tích Xá Giải, tuy nhiên, những lỗi nhỏ mọn đối với một linh hồn muốn nên thánh cũng có một tầm quan trọng, và cha giải tội không được coi nhẹ điều này. Sự kiên nhẫn và hiền từ của cha giải tội sẽ mở ra cánh cửa dẫn đến những bí ẩn sâu xa nhất của một linh hồn. Linh hồn sẽ giãi bày cõi sâu thẳm của chính mình - có thể một cách vô thức - và cảm thấy được mạnh mẽ kiên cường hơn; họ chiến đấu can đảm hơn và cố gắng làm các việc tốt hơn vì biết sẽ phải tính sổ về những việc ấy.

 

            (53) Tôi xin đề cập thêm một điều nữa liên quan đến các cha giải tội. Đôi khi, các ngài cũng có bổn phận phải dùng đến thử thách để luyện lọc và để biết chắc ngài đang làm việc với rơm, với sắt, hay với vàng ròng. Ba loại linh hồn trên đây đều cần những hình thức huấn luyện riêng biệt. Cha giải tội phải có một phán đoán lành mạnh về mỗi linh hồn - đây là điều tuyệt đối cần thiết - để biết họ có thể chịu đựng đến đâu trong từng thời gian, từng hoàn cảnh, hay từng trạng huống đặc biệt. Đối với tôi, về sau này, qua nhiều kinh nghiệm (tiêu cực), tôi mới vỡ ra rằng các ngài đã không hiểu tôi, nên tôi không giãi bày linh hồn và để cho sự bình an của mình bị khuấy phá. Đến mãi về sau, tất cả mọi ân sủng mới được uỷ thác cho phán đoán của một cha giải tội đầy khôn ngoan, hiểu biết và kinh nghiệm. Giờ đây, tôi đã biết phải làm gì trong một số những trường hợp đặc biệt.

 

113      Một lần nữa, tôi muốn đề cập ba điều với linh hồn quyết tâm cố gắng nên trọn lành và thu lượm kết quả từ việc xưng tội.

 

            Điều thứ nhất - hết sức thành thực và cởi mở. Ngay cả một cha giải tội thánh thiện và khôn ngoan nhất cũng không thể miễn cưỡng đổ vào linh hồn những điều ngài muốn nếu nó không thành thực và cởi mở. Một linh hồn thiếu thành thực và che đậy sẽ liều gặp những nguy hiểm trong đời sống thiêng liêng, và chính Chúa Giêsu cũng không ban mình theo một mức độ cao vời cho linh hồn như thế, bởi vì Người biết nó cũng chẳng được ích lợi gì từ những ân sủng đặc biệt này.

 

            Điều thứ hai - khiêm nhượng. Một linh hồn không hưởng được lợi ích tương đáng từ bí tích Giải Tội nếu không khiêm nhượng. Tính kiêu ngạo cầm giữ linh hồn trong cảnh tối tăm. Linh hồn không biết cách thế, mà cũng chẳng muốn tìm hiểu cho biết tường tận những vực thẳm khốn cùng của mình. Họ đeo một chiếc mặt nạ và tránh tất cả những gì lột mặt nạ của mình.

 

            Điều thứ ba - vâng phục. Một linh hồn bất tuân sẽ không chiến thắng cho dù Chúa Giêsu đích thân ngồi giải tội cho họ. Cha giải tội từng trải nhất cũng chẳng ích lợi gì cho một linh hồn như thế. Linh hồn bất tuân liều gặp những nguy cơ lớn lao; họ không tiến bộ trên đường trọn lành, mà cũng chẳng thành công trong đời sống thiêng liêng. Thiên Chúa rộng ban những ân sủng của Người trên linh hồn, nhưng bắt buộc phải là linh hồn vâng phục.

 

114      (54) + Ôi, êm ái thay bài thánh ca của linh hồn giữa đau khổ! Toàn thể thiên đàng sung sướng nơi linh hồn này, nhất là khi họ đang được Thiên Chúa thử thách. Họ hát lên như than vãn nỗi niềm khát mong Thiên Chúa của mình. Vẻ đẹp của họ thật cao khiết vì phát xuất từ Thiên Chúa. Linh hồn dò dẫm băng qua miền rừng rậm của cuộc đời, bị đả thương vì tình yêu Thiên Chúa. Nhưng họ chỉ chạm một chân xuống đất mà thôi.

 

115      + Khi vượt qua những thử thách này, linh hồn sẽ khiêm nhượng thẳm sâu. Sự tinh sạch của họ thật đáng quý. Có thể nói linh hồn biết mà không cần suy tư về những gì phải làm và phải chịu đựng trong từng giây phút. Họ cảm nhận được cả cái chạm khẽ nhất của ân sủng và rất trung thành với Thiên Chúa. Họ nhận ra Thiên Chúa từ đằng xa và lúc nào cũng hoan hỉ trong Người. Họ nhận ra Thiên Chúa rất nhanh chóng nơi các linh hồn khác, và nói chung là trong cảnh vực sống của mình. Linh hồn này đã được chính Thiên Chúa thanh luyện. Thiên Chúa, Đấng Thuần Thần, đưa linh hồn vào cuộc sống thuần tuý thiêng liêng. Chính Thiên Chúa chuẩn bị và thanh luyện linh hồn trước tiên; tức là làm cho họ có khả năng hiệp thông mật thiết với Người. Linh hồn, trong trạng thái an nghỉ của tình yêu, hiệp thông trong tinh thần với Thiên Chúa. Họ thưa chuyện với Thiên Chúa mà không cần diễn tả qua các giác quan. Thiên Chúa ban tràn đầy ánh sáng cho họ.

 

            Tâm trí được soi sáng nhìn thấy rõ ràng và phân biệt được những mức độ khác nhau trong đời sống thiêng liêng. Tâm trí nhận ra [tình trạng ấy] khi sự kết hợp với Thiên Chúa còn bất toàn: nơi đâu các giác quan còn dính dáng và tâm trí còn liên kết với các giác quan - chắc chắn đã được nâng cao và đặc biệt - thì nơi ấy vẫn chưa hoàn hảo. Có một cấp độ kết hợp với Thiên Chúa cao hơn và hoàn hảo hơn; đó là sự kết hợp trí năng. Ở đây, linh hồn an toàn hơn vì không vướng phải những ảo tưởng; đời sống tinh thần tinh tuyền hơn và sâu lắng hơn. Trong một cuộc sống mà các giác quan còn dính dáng thì vẫn còn nguy cơ ảo tưởng. Sự thận trọng phải có một vai trò quan trọng, cho linh hồn và cả cho cha giải tội. Rồi sẽ có những thời gian Thiên Chúa đưa linh hồn đến một tình trạng thiêng liêng thuần tuý. Các giác quan đều mù mịt và dường như đã chết. Linh hồn được gắn bó mật thiết với Thiên Chúa; ngụp lặn trong Thiên Tính; tri thức của nó được sung thực và hoàn hảo, chứ không phải rời rạc như trước kia, nhưng trọn vẹn và tuyệt đối. Linh hồn vui mừng ở điều này. Nhưng tôi muốn nói thêm nữa về những giờ phút thử thách; trong những giờ phút ấy, cha giải tội phải nhẫn nại với linh hồn như thế. Nhưng chính linh hồn cũng phải nhẫn nại với chính mình hơn nữa.

 

116      (55) Lạy Chúa Giêsu của con, Chúa biết linh hồn con trải qua những gì khi hồi tưởng về những nỗi khổ này. Con thường ngạc nhiên vì sao các thiên thần và các thánh lại cứ điềm nhiên khi thấy một linh hồn đau khổ đến thế. Tuy nhiên, các ngài dành cho chúng ta một tình yêu đặc biệt trong những giờ phút ấy. Linh hồn tôi thường than van cùng Thiên Chúa như một đứa trẻ kêu khóc ầm ĩ khi được mẹ lau mặt cho nhưng lại không nhận ra bà. Lạy Chúa Giêsu của con, nguyện chúc danh dự và vinh quang đều thuộc về Chúa trong những thử thách tình yêu này! Vĩ đại và bao la thay lòng xót thương của Chúa. Tất cả những gì Chúa đã định cho linh hồn con, lạy Chúa, đều thấm đẫm lượng thương xót của Chúa.

 

117      Tôi cũng sẽ đề cập ở đây rằng những ai đang sống với một người như thế không nên gây thêm cho họ những đau khổ bên ngoài nữa; quả thật, khi chén của linh hồn đã đầy, chỉ cần thêm một giọt nhỏ cũng là quá nhiều, và chén đắng sẽ tràn. Và ai sẽ phải trả lẽ cho một linh hồn như thế? Chúng ta ý tứ đừng gia thêm đau khổ cho người khác, bởi vì như thế là mất lòng Chúa. Nếu chị em hay bề trên nào đã biết, hoặc thậm chí còn nghi ngờ, về một linh hồn đang đau khổ vì thử thách như thế, mà còn gây thêm đau khổ cho họ thì phạm tội nặng nề, chính Thiên Chúa sẽ đòi họ phải trả lẽ cho một linh hồn như thế. Ở đây, tôi không nói đến các trường hợp tự bản tính là tội, nhưng về những điều không phải là tội. Chúng ta hãy cảnh giác đừng chất thêm gánh nặng cho một linh hồn như thế. Đây là một lỗi nặng và thường gặp trong đời sống tu trì; tức là khi thấy một linh hồn đau khổ, chúng ta luôn luôn muốn chất thêm đau khổ cho họ. Tôi không nói mọi người, nhưng cũng có một số người hành xử như thế. Chúng ta tự tiện đưa ra đủ thứ xét đoán, và cứ lặp đi lặp lại những lời ấy trong lúc lẽ ra nên im lặng thì tốt hơn.

 

118      Cái lưỡi là một cơ phận nhỏ bé, nhưng lại làm những điều lớn lao. Một tu sĩ không giữ thinh lặng thì chẳng bao giờ đạt đến thánh thiện; tức là không bao giờ nên thánh. Tu sĩ ấy đừng tự làm “loãng” mình - trừ khi chính Thánh Thần Thiên Chúa qua tu sĩ ấy mà lên tiếng, chỉ khi ấy, tu sĩ không được câm nín. Nhưng để nghe được tiếng Chúa, người ta phải giữ tĩnh lặng trong linh hồn và thinh lặng bên ngoài; không phải sự thinh lặng ủ dột, nhưng là sự tĩnh lặng nội tâm; tức là việc tưởng nhớ đến Chúa. Người ta có thể nói rất nhiều mà không phá vỡ sự tĩnh lặng, và ngược lại, có thể nói rất ít mà vẫn thường xuyên phá vỡ sự tĩnh lặng. Ôi, sự thiệt hại do việc phá thinh lặng gây ra thật không sao bù đắp được! (56) Chúng ta gây ra rất nhiều thiệt hại cho người lân cận, và thậm chí cho cả bản thân chúng ta.

 

            Theo thiển ý và theo kinh nghiệm của tôi, luật giữ thinh lặng phải giữ vị trí hàng đầu. Thiên Chúa không ban mình cho một linh hồn lắm miệng, họ như một con ong đực trong một tổ, ồn ào mọi nơi mà không chịu hút mật. Một linh hồn lắm miệng sẽ rỗng tuếch nội tâm. Họ thiếu cả những nhân đức thiết yếu và sự thân mật với Thiên Chúa. Một đời sống nội tâm sâu xa, một cuộc sống bình an, và một nếp sống tĩnh lặng là những nơi có Thiên Chúa ngự trị là một vấn đề không cần bàn luận thêm nữa. Một linh hồn náo động, quấy phá sự tĩnh lặng của người khác, là một linh hồn không bao giờ nếm hưởng được sự ngọt ngào của sự tĩnh lặng nội tâm. Tôi đã thấy nhiều linh hồn dưới những tầng sâu hoả ngục vì chỉ không giữ thinh lặng; họ cho tôi biết như thế khi tôi hỏi về nguyên nhân trầm luân của họ. Đây là linh hồn của các tu sĩ. Lạy Chúa tôi, thật đớn đau khi nghĩ rằng lẽ ra họ đã được lên thiên đàng, mà còn là những vị thánh nữa! Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương xót!

 

119      Tôi run giùng khi nghĩ đến phải trả lẽ về cái lưỡi của mình. Có sự sống mà cũng có sự chết ở nơi cái lưỡi. Đôi khi chúng ta giết người bằng lưỡi: Chúng ta là những kẻ giết người thật sự. Thế mà chúng ta vẫn coi đó là chuyện nhỏ hay sao? Tôi thực sự không hiểu nổi những lương tâm như thế. Tôi biết một chị kia khi nghe biết người ta xì xèo về một điều nọ của mình, chị liền ngã bệnh trầm trọng. Chị đã mất rất nhiều máu và khóc lóc rất nhiều, đưa đến hậu quả vô cùng thê thảm. Không phải lưỡi gươm, mà là cái lưỡi đã gây nên tất cả điều ấy. Lạy Chúa Giêsu thinh lặng của con, xin thương xót chúng con!

 

120      Tôi đã nói loanh quanh về đề tài thinh lặng. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn bàn đến, nhưng là cuộc sống của linh hồn với Thiên Chúa và việc đáp ứng ân sủng. Một khi đã được thanh luyện và giao tiếp thân mật với Thiên Chúa, linh hồn bắt đầu vận dụng tất cả sức lực trong mình để bước theo Người. Tuy vậy, linh hồn không thể tự sức làm được việc gì. Một mình Thiên Chúa liệu định mọi sự. Linh hồn biết và ý thức được điều đó. Họ vẫn còn trong chốn lưu đày và quá hiểu vẫn còn những ngày mây mù mưa bão, nhưng giờ đây, ắt hẳn linh hồn phải nhìn sự vật một cách khác hẳn trước kia. Linh hồn không tìm sự an tâm trong bình an giả tạo, nhưng sẵn sàng để chiến đấu. Linh hồn biết mình xuất thân từ dòng tộc chinh chiến. Giờ đây, linh hồn đã ý thức hơn về mọi sự. Linh hồn biết mình thuộc về dòng dõi vương giả nên lưu tâm đến tất cả những gì cao trọng và thánh thiện.

 

121      (57) + Sau những cuộc thanh luyện qua lửa ấy, Chúa sẽ trào đổ một thác ân sủng xuống cho linh hồn. Linh hồn hoan hưởng sự kết hợp thân mật với Thiên Chúa. Họ được nhiều thị kiến, cả xác thể lẫn trí năng, nghe được nhiều tiếng nói siêu nhiên và đôi khi cả những mệnh lệnh rõ ràng. Mặc dù được những ân sủng này, nhưng linh hồn vẫn thấy chưa đủ. Thực vậy, xét ra cũng là kết quả ơn Chúa. Linh hồn thấy mình thiếu thốn hơn trước vì lúc này phải đương đầu với nhiều nguy hiểm và dễ dàng trở thành miếng mồi cho các ảo tưởng. Linh hồn phải nài xin Chúa ban cho một vị linh hướng; nhưng không phải chỉ cầu nguyện suông, mà còn phải gắng hết sức tìm cho được một vị hướng dẫn chuyên môn trong những vấn đề này, như một viên chỉ huy phải biết rõ những con đường dẫn quân ra trận. Một linh hồn kết hợp với Chúa phải được trang bị sẵn sàng cho những trận chiến dữ dội và hết sức gian truân.

 

            + Chúa sẽ ngự đến với linh hồn một cách đặc biệt sau những thanh luyện và nước mắt, nhưng linh hồn không phải lúc nào cũng hợp tác với ơn Chúa. Không phải vì linh hồn không sẵn lòng hợp tác, nhưng vì gặp quá nhiều khó khăn cả trong lẫn ngoài đến độ thực sự phải coi là một phép lạ nếu giữ được linh hồn trên những đỉnh cao ấy. Trong vấn đề này, linh hồn tuyệt đối cần phải có một vị linh hướng.

 

            Người ta gieo hoài nghi vào linh hồn tôi, và chính tôi đôi lúc cũng hoảng sợ khi nghĩ rằng mình dù sao cũng là một con người ngu xuẩn, không hiểu biết bao nhiêu, nhất là về các vấn đề thiêng liêng. Khi những nỗi nghi ngờ gia tăng, tôi đã đi tìm ánh sáng nơi cha giải tội hoặc các vị bề trên. Nhưng tôi đã không đạt được điều mình trông đợi.

 

122      Khi tôi thổ lộ vấn đề cho các bề trên, một vị [có lẽ Mẹ Michael hoặc Mẹ Mary Joseph] đã hiểu biết linh hồn tôi và con đường Chúa muốn tôi đi. Tôi nghe theo lời khuyên của Mẹ và đã tiến bộ rất nhanh trên con đường trọn lành, nhưng việc này chẳng được bao lâu. Khi giãi bày linh hồn một cách tường tận hơn, tôi đã không đạt được điều mình mong ước; dường như vị bề trên cho rằng những ân huệ [mà tôi là đối tượng] ấy là điều hoang tưởng, thành ra tôi chẳng nhận thêm được sự trợ giúp nào nữa. Mẹ nói với tôi rằng không thể có chuyện Thiên Chúa kết tình nghĩa thiết với các thụ tạo của Người như thế: “Này chị, tôi sợ cho chị đấy; biết đâu đây không phải là một hình thức ảo tưởng nào đó! Tốt hơn chị nên tìm lời khuyên của một linh mục”. Nhưng cha giải tội cũng chẳng hiểu tôi, ngài nói: “Chị ơi, chị nên bàn hỏi những vấn đề này với các bề trên của chị thì hơn”. Thế là tôi đi từ các bề trên đến cha giải tội, rồi lại đi từ cha giải tội vòng về với các bề trên, thế mà cũng chẳng tìm được sự bình an. Những hồng ân linh thánh lại trở thành những đau khổ lớn lao cho tôi. Hơn một lần, tôi đã thẳng thắn bộc bạch cùng Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, con sợ Chúa, có lẽ Chúa không phải là một ông ma đấy chứ?”. Lúc nào Chúa Giêsu cũng trấn an, nhưng tôi vẫn cứ hoài nghi. Tuy nhiên thật lạ lùng: tôi càng hoài nghi, Chúa Giêsu càng ban cho tôi nhiều bằng chứng cho thấy những việc này do Chúa mà ra.

 

123      + Khi thấy các bề trên không làm cho tâm trí tôi được thanh thản, tôi đã quyết định không nói gì về các vấn đề thuần tuý nội tâm này nữa. Bên ngoài, tôi cố gắng - như một nữ tu tốt lành - trình bày mọi sự cho bề trên, nhưng về nhu cầu tâm hồn tôi chỉ nói trong toà cáo giải. Dựa trên nhiều nguyên nhân rất xác thực, tôi biết rằng một người nữ không được mời gọi để phân định những mầu nhiệm thế này. Tôi đã để mình phải chịu nhiều đau khổ không cần thiết. Trong suốt một thời gian dài, tôi bị coi như một kẻ bị quỷ ám, bị nhìn bằng ánh mắt thương hại, và bề trên đã thực thi nhiều biện pháp phòng ngừa đối với tôi. Tin đồn đến tai tôi là các chị em đã coi tôi là một kẻ như thế. Và bầu trời vẫn còn u ám quanh tôi. Tôi bắt đầu lảng tránh các ơn này, nhưng điều ấy vượt quá sức tôi. Bỗng nhiên, tôi bị bao phủ trong tình trạng tịnh hiệp - ngược với ý tôi - tôi đã được chìm đắm trong Thiên Chúa, và Người đã giữ tôi trong sự lệ thuộc hoàn toàn vào Người.

 

124      Trong những thời gian đầu, linh hồn tôi lúc nào cũng có phần lo sợ, nhưng về sau, được tràn ngập một niềm bình an và sức mạnh lạ lùng.

 

125      + Tất cả những điều này vẫn có thể chịu đựng nổi. Nhưng khi Chúa truyền tôi phải vẽ bức hình ấy, người ta bắt đầu công khai nói và coi tôi là một người cuồng loạn, bị hoang tưởng, và những lời đồn thổi ấy ngày càng rõ hơn. Một chị đã đến nói riêng với tôi. Chị gợi chuyện bằng những lời thương lại: “Này chị, tôi nghe người ta nói chị là một người hoang tưởng, và chị có nhiều thị kiến. Người chị em đáng thương của tôi ơi, chị hãy giữ mình trong vấn đề này”. (59) Chị ấy rất chân tình, thành thực kể cho tôi nghe những gì chị đã biết được. Nhưng hằng ngày tôi vẫn phải nghe những chuyện như thế. Một mình Chúa biết phải mệt mỏi thế nào.

 

126      Tuy nhiên, tôi quyết tâm chịu đựng tất cả trong im lặng và không giải thích gì khi được hỏi. Một số người cảm thấy khó chịu vì sự nín lặng của tôi, nhất là những người tọc mạch. Một số khác chín chắn hơn đã nói: “Chị Faustina ắt phải rất thân mật với Chúa mới có sức chịu nhiều đau khổ như vậy”. Dường như tôi phải đương đầu với hai nhóm qua toà. Tôi ráng sức giữ thinh lặng trong ngoài, không nói gì về mình, ngay cả khi một số chị em đến hỏi thẳng. Cặp môi tôi được niêm lại. Tôi chịu đựng như một chú chim bồ câu, không hề than vãn. Nhưng một số chị em dường như thấy hứng thú trong việc làm khổ tôi theo khả năng của họ. Sự nhẫn nhục của tôi chọc tức họ. Nhưng Thiên Chúa đã cho tôi nhiều sức mạnh nội tâm để chịu đựng một cách bình lặng.

 

127      + Biết rằng không thể tìm được ai trợ giúp trong những giờ phút như thế này, tôi bắt đầu cầu nguyện và xin Chúa ban cho một cha giải tội. Ước mong duy nhất của tôi là có một vị linh mục nào đó nói với tôi thế này: “Chị hãy an lòng, chị đang đi đúng đường”, hoặc “Chị hãy vứt hết những thứ này đi vì chúng không xuất phát từ Chúa”. Nhưng tôi không sao tìm được một linh mục vững tin đủ để nhân danh Chúa mà cho tôi một ý kiến như thế. Và thế là sự phập phồng vẫn cứ còn mãi. Lạy Chúa Giêsu, nếu thánh ý Chúa muốn con sống mãi trong sự phấp phỏng này, nguyện thánh danh Chúa được chúc tụng! Lạy Chúa, con nài xin Chúa hướng dẫn linh hồn con và ở với con, vì con chỉ là hư vô.

 

128      Thế là tôi phải chịu xét đoán tư bề. Không có gì nơi tôi thoát được sự xét đoán của chị em. Nhưng giờ đây, dường như sau khi đã chán chê, họ bắt đầu để tôi yên. Linh hồn thê thảm của tôi tìm được một chút nghỉ ngơi, và tôi biết Chúa vẫn ở rất gần bên tôi trong những giờ phút bách hại như thế. Cuộc [đình chiến] này chỉ tạm ngưng một thời gian ngắn. Một trận cuồng phong khác lại nổi lên. Và lúc này, đối với họ, những sự ngờ vực trước kia đã trở thành những sự kiện có thật, và một lần nữa, tôi lại phải nghe những bài ca cũ. Có lẽ Chúa muốn như thế. Nhưng thật lạ lùng, ngay cả bề ngoài tôi cũng bắt đầu cảm thấy những sự thất bại (60) đủ thứ. Việc này kéo thêm nhiều thứ đau khổ đủ loại ập xuống trên tôi mà chỉ mình Chúa biết. Nhưng tôi cố gắng hết sức để chu toàn mọi việc với ý hướng thật ngay lành. Giờ đây, tôi có thể thấy mình đang bị theo dõi mọi nơi như một tên trộm; trong nhà nguyện; trong lúc đang chu toàn các bổn phận; trong phòng riêng. [40] Tôi biết hiện giờ, ngoài sự hiện diện của Thiên Chúa, tôi còn ở trước sự hiện diện nhân loại nữa. Và tôi phải nói, hơn một lần, sự hiện diện nhân loại này đã làm tôi hết sức khó chịu. Có những lúc tôi phải tự hỏi không biết có nên cởi đồ để tắm rửa hay không. Thực vậy, ngay cả chiếc giường đáng thương của tôi cũng nhiều lần bị lục lọi. [41] Hơn một lần, tôi đã phải nực cười vì biết họ thậm chí cũng không chịu để yên cho chiếc giường của tôi. Một chị cho tôi biết tối nào chị cũng đến phòng tôi để xem tôi ở trên giường như thế nào.

 

            Tuy nhiên, bề trên vẫn là bề trên. Dù các ngài làm tôi nhục nhã và lắm khi còn gây cho tôi đủ loại hoài nghi, nhưng các ngài luôn ban cho phép tôi làm theo những điều Chúa truyền. Mặc dù không theo cách tôi xin, nhưng bằng một cách khác, các ngài đã làm trọn những yêu sách của Chúa và ban phép cho tôi thực hiện tất cả việc khổ hạnh và hãm mình mà Chúa yêu cầu.

 

            Một ngày kia, một vị bề trên [có lẽ Mẹ Jane] đã nổi cơn tam bành và làm tôi nhục nhã đến độ nghĩ mình không thể chịu nổi. Mẹ nói rằng: “Cái chị dở hơi, đồ thị kiến điên khùng, xéo khỏi cái phòng này ngay; đừng có mà nói vớ vẩn, chị kia!”. Mẹ tiếp tục trút xuống đầu tôi mọi thứ có thể nghĩ ra. Tôi về phòng riêng, gục mặt trước tượng thánh giá, rồi ngước nhìn lên Chúa Giêsu mà không sao thốt lên được nửa lời. Tuy nhiên, tôi giấu mọi chuyện không cho ai biết và giả bộ như không có gì xảy ra giữa chúng tôi.

 

129      Satan luôn luôn lợi dụng những giờ phút như thế; những tư tưởng chán chường bắt đầu nổi lên - đây là phần thưởng cho ngươi về sự trung thành và thực tâm của ngươi đấy. Làm sao có thể chân thành trong khi lại bị hiểu lầm như thế? Lạy Chúa Giêsu, lạy Chúa Giêsu, con không thể tiếp tục được nữa. Tôi lại ngã gục xuống đất dưới sức nặng, toát đẫm mồ hôi, và nỗi sợ hãi bắt đầu lấn lướt. Trong lòng, tôi không còn một ai để nương tựa. Đột nhiên, tôi nghe được một tiếng nói trong linh hồn: Đừng sợ; Cha ở với con. Và một ánh sáng soi chiếu tâm trí tôi, tôi đã hiểu rằng không nên đầu hàng trước những phiền sầu như thế. Tôi được đầy tràn sức mạnh và ra khỏi phòng với lòng can đảm mới mẻ để chịu đựng đau khổ.

 

130      (61) Tuy nhiên, tôi bắt đầu dở chứng phần nào lơ đểnh. Tôi không còn chú tâm đến những soi động nội tâm và tìm cách giải khuây. Nhưng bất chấp sự ồn ào và lơ đểnh ấy, tôi vẫn thấy những gì đang xảy ra trong linh hồn. Tiếng Chúa rất rõ ràng và không gì có thể bót nghẹt. Tôi bắt đầu lẩn tránh các cuộc gặp gỡ với Chúa trong linh hồn vì không muốn trở thành miếng mồi cho những ảo tưởng. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, Thiên Chúa vẫn đeo bám tôi bằng các ân huệ của Người; và thực sự tôi cảm nghiệm đắp đổi giữa cực hình với niềm vui. Ở đây, tôi không đề cập đến những thị kiến và ân sủng tràn trề Chúa đã ban cho tôi trong thời gian này, vì đã trình bày ở một nơi khác. [42]

 

131      Nhưng tôi chỉ đề cập ở đây những đau khổ đã lên đến tột cùng, và quyết định chấm dứt các mối nghi nan này trước khi vĩnh thệ. Trong suốt thời gian thử luyện, tôi cầu xin ơn soi sáng cho vị linh mục mà tôi sẽ giãi trình cặn kẽ tâm hồn. Tôi đã xin Chúa đích thân giúp đỡ và ban cho tôi ơn có thể trình bày hết mọi bí nhiệm giữa tôi với Người, và cho dù vị linh mục quyết định thế nào đi nữa, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận như từ Chúa Giêsu. Phán quyết của ngài về tôi thế nào không thành vấn đề, tất cả những gì tôi ước ao chỉ là sự thật và một câu trả lời dứt khoát cho các vấn đề. Tôi phó trót mình trong tay Chúa và [tất cả] những gì hồn tôi ước muốn chỉ là sự thật. Tôi không thể tiếp tục sống mãi trong tình trạng hoài nghi, mặc dù tận thâm tâm, tôi biết chắc những điều này là từ Chúa mà đến, và tôi sẵn sàng hiến mạng sống cho điều này. Tuy nhiên, tôi đặt ý kiến cha giải tội lên trên hết, quyết tâm làm theo điều ngài cho là tốt nhất và hành động theo lời khuyên của ngài. Tôi trông đợi giờ phút quyết định cho chiều hướng hoạt động trong quãng đời còn lại của mình. Tôi biết mọi sự sẽ tuỳ thuộc vào điều này. Những gì ngài nói với tôi có phù hợp hay đối nghịch hoàn toàn với những soi động của tôi đi nữa không thành vấn đề; điều này không còn là vấn đề đối với tôi nữa. Tôi chỉ muốn biết và muốn bước theo sự thật mà thôi.

 

            Lạy Chúa Giêsu, Chúa có thể giúp con! Từ giây phút này, con đã làm lại từ đầu. Con giấu tất cả mọi ân sủng trong linh hồn con và chờ đợi vị được Chúa gởi đến cho con.

 

            Trong lòng không chút nghi ngờ, tôi đã xin Chúa đoái thương trợ giúp trong giờ phút này, và một ơn can đảm đã ban xuống cho linh hồn tôi.

 

132      (62) Một lần nữa, tôi phải nói rằng có một số cha giải tội xem có vẻ là những vị linh hướng thực thụ, nhưng chỉ khi nào mọi việc đều suôn sẻ. Khi linh hồn thấy có nhu cầu nhiều hơn thì các ngài liền lúng túng, hoặc là không thể hoặc là không muốn hiểu biết về linh hồn này. Các ngài muốn tống khứ linh hồn ấy càng sớm càng tốt. Nhưng nếu cứ khiêm nhượng, linh hồn sẽ luôn luôn tìm được ích lợi bằng cách này hay cách khác. Đôi khi, chính Thiên Chúa cũng chiếu giãi một tia sáng vào những nơi kín nhiệm trong linh hồn vì sự khiêm nhượng và đức tin của họ. Cha giải tội cũng thỉnh thoảng nói ra một điều gì đó mà ngài không có chủ ý hoặc chính ngài cũng không ý thức. Ôi, chớ gì linh hồn hãy tin đó là những lời của chính Chúa Giêsu! Mặc dù chúng ta nên tin rằng mọi lời trong toà cáo giải là lời của Chúa, nhưng điều tôi vừa đề cập ở trên là điều trực tiếp phát xuất từ Chúa. Linh hồn nhận ra vị linh mục không tự tin đủ nên mới thốt ra lời ngài không muốn nói. Đây là cách Chúa tưởng thưởng cho lòng tin.

 

            Chính tôi đã nhiều lần kinh nghiệm điều này. Có một vị linh mục rất uyên bác và đáng kính [có lẽ cha Wilkowski, linh mục giải tội cho các nữ tu tại Plock], đôi khi tôi tình cờ xưng tội với ngài trong toà cáo giải, lúc nào ngài cũng nghiêm khắc và chống đối các vấn đề [tôi kể cho ngài]. Nhưng có một lần nọ, ngài nói với tôi: “Này chị, chị hãy nhớ rằng nếu Thiên Chúa đang đòi hỏi chị điều này, thì chị không nên chống lại với Người. Đôi khi, Thiên Chúa muốn được chúc tụng chỉ bằng cách này mà thôi. Chị hãy an lòng; điều gì Thiên Chúa đã khởi sự, Người sẽ hoàn tất. Nhưng tôi nói với chị điều này: Hãy trung thành với Thiên Chúa và hãy khiêm nhượng. Một lần nữa: là hãy khiêm nhượng. Chị hãy nhớ cho kỹ những điều tôi nói với chị hôm nay”. Tôi cảm thấy hoan hỉ và tưởng rằng vị linh mục này có lẽ đã hiểu được tôi. Nhưng hoá ra sau đó tôi không bao giờ gặp ngài trong toà cáo giải nữa.

 

133      + Một lần kia, một vị bề trên có tuổi [có lẽ Mẹ Jane [43]] triệu tôi đến và trút xuống đầu tôi như thể những cơn lôi đình đến nỗi tôi không còn biết trời trăng gì nữa. Nhưng sau một lúc, tôi hiểu ra đó là về vấn đề mà tôi không kiểm soát được. Mẹ nói với tôi: “Chị kia, vứt ra khỏi đầu chị ngay, Chúa Giêsu mà lại tâm tình như thế với một kẻ bất toàn khốn nạn như chị đấy à! Chị hãy nhớ chỉ có các linh hồn thánh thiện mới được Chúa Giêsu kết thân như vậy mà thôi!”. Tôi công nhận Mẹ có lý vì thực sự tôi chỉ là một kẻ hư đốn, nhưng tôi vẫn tín thác vào lượng từ bi của Chúa. Khi gặp Chúa, tôi sấp mình và thân thưa: “Lạy Chúa Giêsu, hình như Chúa không kết giao thân mật với những phường xấu xa như con”. Hỡi ái nữ của Cha, hãy an lòng, chính qua sự khốn cùng như thế mà Cha muốn biểu hiện sức mạnh Lòng Thương Xót của Cha. Tôi hiểu ra vị bề trên này chỉ muốn huấn nhục cho tôi một trận [nhớ đời] mà thôi.

 

134      (63) + Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thử thách con quá nhiều trong cuộc đời ngắn ngủi của con! Con đã hiểu ra được nhiều, nhưng dù vậy, điều ấy vẫn làm cho con ngỡ ngàng. Ôi, phó thác toàn thân cho Thiên Chúa và để Người toàn quyền tự do hành động trong linh hồn ta thật là điều tốt lành biết bao!

 

135      Trong thời gian thử lần thứ ba, Chúa đã cho tôi hiểu rằng tôi nên hiến thân để Người có thể sử dụng tôi theo ý Người muốn. Tôi sẽ đến trước thánh nhan như một của lễ hiến tế. Lúc đầu, tôi hết sức kinh hoảng vì thấy mình quá khốn nạn và biết rõ trường hợp của mình. Một lần nữa tôi lại thưa Chúa: “Con là chính sự khốn nạn làm sao có thể trở nên của lễ đền bồi cho người khác?”. Nhưng Chúa Giêsu đáp: Hôm nay, con không hiểu điều này. Ngày mai, trong giờ chầu của con, Cha sẽ cho con hiểu. Trái tim tôi run rẩy, linh hồn tôi cũng thế, vì những lời Chúa đi sâu vào hồn tôi. Lời của Thiên Chúa đang sống động.

 

            Đến giờ đi chầu, trong lòng, tôi cảm thấy mình đã tiến vào thánh điện Thiên Chúa hằng sống, uy nghi Người cao cả vô biên. Chúa đã tỏ cho tôi biết ngay những bậc thần thánh trong sạch nhất cũng chẳng là gì trước thánh nhan Người. Mặc dù tôi không thấy gì bên ngoài, nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa bao trùm lấy tôi. Ngay lúc đó, trí năng tôi được soi sáng một cách lạ thường. Một thị kiến đi qua con mắt linh hồn tôi giống như thị kiến của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Lúc đầu là các đau khổ thể lý và mọi hoàn cảnh chung quanh làm gia tăng thêm; rồi đến tất cả những đau khổ tinh thần và những đau khổ không ai biết đến. Mọi sự đều hiện ra trong cuộc thị kiến; những nghi ngờ, hiểu lầm, mất thanh danh. Ở đây tôi chỉ tóm lược, nhưng lúc bấy giờ tôi được biết rõ ràng đến nỗi những gì tôi phải trải qua sau này đều không có gì khác biệt với những điều tôi được nhận thức lúc ấy. Tên tôi sẽ là: “hy sinh”.

 

            Khi thị kiến chấm dứt, vầng trán của tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh. Chúa Giêsu cho biết rằng cho dù tôi không chấp nhận điều ấy, tôi vẫn được rỗi linh hồn; Chúa cũng không giảm bớt những ân sủng và vẫn tiếp tục mối tương giao mật thiết với tôi như trước để dù tôi không sẵn lòng thực hiện hy sinh này đi nữa thì lòng quảng đại của Thiên Chúa cũng không vì thế mà giảm bớt.

 

136      Và Chúa cho tôi biết toàn bộ mầu nhiệm ấy tuỳ thuộc vào tôi, với các tài năng của tôi được sử dụng hoàn toàn trong sự tự do chấp nhận hy sinh. Toàn bộ sức mạnh và giá trị trước uy nhan Chúa đều hệ ở hành vị tự do và ý thức này. Cho dù trong những điều tôi đã hiến thân chấp nhận không một điều nào xảy ra đi nữa, thì trước mặt Chúa, tất cả đều giống như đã được hoàn tất (64) rồi vậy.

 

            Lúc đó, tôi nhận ra mình đang đi vào sự kết hiệp với Đấng Uy Quyền vô cùng. Tôi cảm thấy Thiên Chúa đang chờ đợi lời đáp, chờ đợi sự đồng thuận của tôi. Lúc đó, linh hồn tôi được chìm ngập trong Chúa và tôi thưa: “Xin hãy dùng con như Chúa muốn, con xin phó mình cho thánh ý Chúa. Vì từ hôm nay, thánh ý Chúa sẽ là lương thực cho con, nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ trung thành với những mệnh lệnh của Chúa. Xin Chúa hãy sử dụng con tuỳ ý Chúa. Ôi lạy Chúa, con nài xin Chúa hãy ở với con trong mọi giây phút cuộc đời”.

 

137      Sự hiện diện của Thiên Chúa bỗng thấu nhập tôi, sau khi tôi đã chấp nhận hy sinh với tất cả tâm hồn và ý chí. Linh hồn tôi được nhập lút trong Thiên Chúa và chan chứa hạnh phúc đến độ không thể nào viết ra được dù chỉ một phần nhỏ nhất. Tôi cảm nhận sự Uy Nghi của Người đang bao phủ tôi. Tôi được tan chảy nên một với Thiên Chúa một cách ngoại thường. Tôi biết Thiên Chúa rất hài lòng với tôi, và ngược lại, linh hồn tôi cũng được đắm đuối trong Người. Ý thức mình được hiệp nhất với Thiên Chúa, tôi cảm thấy được yêu thương đặc biệt, và đáp lại, tôi cũng yêu mến Người bằng tất cả linh hồn. Một mầu nhiệm lớn lao đã diễn ra trong giờ chầu ấy, một mầu nhiệm giữa Thiên Chúa và tôi. Tôi dường như được chết vì tình yêu [khi bắt gặp] trong ánh nhìn của Người. Tôi hàn huyên rất nhiều với Chúa, tuy không thốt nên lời. Và Chúa phán với tôi: Con là niềm hoan lạc của Trái Tim Cha; từ này trở đi, mỗi hành vi của con, dù nhỏ bé nhất, cũng sẽ là một niềm hoan lạc cho mắt Cha, bất cứ con làm điều gì. Trong giây phút ấy, tôi cảm thấy được biến đổi hoàn toàn, thân xác trần gian của tôi vẫn còn như cũ, nhưng linh hồn của tôi đã ra khác; nơi đó, Thiên Chúa giờ đây đang sống với tất cả niềm hoan lạc của Người. Đây không phải là một cảm giác, nhưng là một thực tại có ý thức mà không gì có thể làm phôi pha đi được.

 

138      Một mầu nhiệm vĩ đại đã được thực hiện giữa Thiên Chúa và tôi. Ơn can đảm và sức mạnh vẫn lưu lại trong linh hồn tôi. Khi giờ chầu kết thúc, tôi ra về và bình tĩnh đương đầu với tất cả những gì trước kia làm tôi sợ hãi. Tôi vừa bước tới hành lang, một đau khổ xỉ nhục kinh khủng đã chờ ở đó. Tôi chấp nhận với lòng suy phục thánh ý cao cả và yêu mến nép vào Trái Tim Chúa Giêsu để Người biết tôi đã sẵn sàng, và vì đó nên tôi đã hiến thân.

 

            Đau khổ dường như từ lòng đất trồi lên. Đến Mẹ Margaret cũng ngạc nhiên. Đối với người khác, nhiều điều trôi qua êm đềm, vì quả thật chẳng có gì đáng lưu tâm; nhưng trong trường hợp của tôi, không có gì trôi qua êm đềm; mỗi lời nói đều bị mổ xẻ, mỗi bước đi đều bị dòm ngó. Một chị nói với tôi: “Này chị, chị hãy sẵn sàng (65) để đón nhận một thánh giá nhỏ từ tay Mẹ Bề Trên. Em cảm thấy tội nghiệp cho chị”. Nhưng đối với tôi, tận thâm tâm tôi vui mừng vì điều đó và đã sẵn sàng từ lâu. Khi nhìn thấy lòng can đảm của tôi, chị ấy rất ngạc nhiên. Giờ đây, tôi hiểu ra một linh hồn tự sức mình chẳng thể làm được gì cả, nhưng với Chúa, nó có thể làm được mọi sự. Hãy nhìn những gì ơn Chúa có thể thực hiện. Con số các linh hồn luôn luôn tỉnh thức với các ơn Chúa rất ít ỏi, con số các linh hồn trung thành với các ơn soi động ấy lại còn ít ỏi hơn nữa.

 

139      Một linh hồn dù trung thành với Thiên Chúa cũng không thể xác minh được những soi động của mình; họ phải đặt chúng dưới sự kiểm soát của một linh mục khôn ngoan sáng suốt; và vẫn phải nghi ngờ cho đến khi nào hoàn toàn chắc chắn mới thôi. Linh hồn không nên dựa vào tư kiến mà tin vào các soi động này và tất cả những ơn cao cả khác nữa, bởi vì như thế, họ có thể liều mình chịu nhiều tổn thiệt.

 

            Mặc dù một linh hồn có thể phân biệt được tức khắc những soi động giả tạo với những soi động từ Thiên Chúa, tuy nhiên, họ vẫn phải cẩn trọng vì có nhiều điềm thiếu chắc chắn. Thiên Chúa thoả lòng và vui mừng khi thấy một linh hồn chỉ vì Người mà cẩn trọng với chính Người; vì linh hồn yêu mến Thiên Chúa, nên họ cần phải thận trọng, cân nhắc, và tìm sự trợ giúp để đảm bảo rằng chính Thiên Chúa là Đấng hành động trong họ. Và một khi cha giải tội khôn ngoan đã xác định điều này, linh hồn sẽ được bình an và phó mình cho Chúa theo những đường lối của Người; tức là theo các chỉ dẫn của cha giải tội.

 

140      Tình yêu tinh ròng có khả năng làm được nhiều điều vĩ đại và không bị quỵ ngã trước khó khăn hoặc chống đối. Giữa những gian truân trắc trở, tình yêu mãnh liệt thế nào, thì trong đời sống nhọc nhằn và ảm đạm hằng ngày nó cũng kiên trung như thế. Tình yêu biết chỉ có một điều cần thiết để làm thoả lòng Thiên Chúa: đó là làm những việc nhỏ mọn nhất vì tình yêu - tình yêu, và luôn luôn là tình yêu.

 

            Tình yêu tinh ròng không bao giờ sai lầm. Ánh sáng của nó phong phú lạ lùng. Tình yêu không làm điều gì để Thiên Chúa phiền lòng, rất khéo léo trong việc làm những điều vui lòng Thiên Chúa, và không ai bằng tình yêu ở điểm này. Tình yêu vui sướng khi được huỷ mình và cháy lên như một lễ vật tinh tuyền. Tình yêu càng hiến thân, càng hạnh phúc. Hơn nữa, không ai có thể cảm nhận những nguy hiểm từ đằng xa cho bằng tình yêu; nó biết cách nhận diện và cũng biết cách đương đầu.

 

141      (66) + Các đau khổ của tôi sắp sửa chấm dứt. Chúa ban cho tôi sự trợ giúp như Người đã hứa. Tôi có thể nhận ra điều này qua hai vị linh mục: đó là cha Andrasz và cha Sopocko. Trong tuần tĩnh tâm trước khi vĩnh thệ, [44] lần đầu tiên tôi được hoàn toàn bình an [nhờ cha Andrasz [45]], và sau đó, tôi cũng được cha Sopocko hướng dẫn cùng một đường lối như vậy. Thế là lời Chúa hứa đã được ứng nghiệm.

 

142      Khi bình an trở lại và được dạy cho biết đi theo những nẻo đường của Chúa, thần trí tôi đã vui mừng trong Chúa và dường như tôi đang chạy chứ không phải đi nữa. Đôi cánh tôi dang rộng để bay, bay vút thẳng vào chính nguồn nóng mặt trời và không chịu đáp xuống cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa, và linh hồn tôi mãi mãi được mất hút trong Người. Tôi đã phó mình hoàn toàn cho hoạt động của ân sủng. Thiên Chúa cúi sát xuống với linh hồn tôi. Tôi không thối lui cũng không chống cưỡng, nhưng mất hút trong Chúa là kho tàng duy nhất của tôi. Tôi được nên một với Người. Vực ngăn cách giữa chúng tôi, giữa Đấng Tạo Hoá và thụ tạo, dường như biến mất. Trong suốt mấy ngày, linh hồn tôi ở trong tình trạng xuất thần liên lỉ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không rời tôi một phút giây. Linh hồn tôi ở trong sự hợp nhất yêu đương liên lỉ với Chúa. Nhưng điều này không mảy may làm gián đoạn việc chu toàn các phận vụ của tôi. Tôi cảm thấy được biến đổi trong tình yêu; tôi bị bốc cháy, nhưng không bị thiêu rụi. Tôi không ngừng mất hút trong Chúa; Chúa lôi kéo tôi đến với Người một cách mạnh mẽ và mãnh liệt đến độ nhiều khi tôi không ý thức mình còn trên trần gian. Tôi đã cản trở và sợ hãi ơn thánh Chúa trong một thời gian dài, và giờ đây chính Thiên Chúa, qua cha Andrasz, đã cất đi tất cả những khó khăn. Linh hồn tôi đã được điều hướng về Mặt Trời và tươi nở dưới những tia sáng của một mình Người; tôi không còn hiểu gì khác nữa... [câu văn bị cắt ngang ở đây, và khởi đầu một tư tưởng hoàn toàn mới ngay ở hàng kế tiếp].

 

143      + Tôi đã phung phí rất nhiều ơn Chúa vì lúc nào cũng sợ bị ảo tưởng. Thiên Chúa đã lôi cuốn tôi đến với Người mạnh mẽ và tôi không có sức cưỡng lại trong những lúc bỗng nhiên được ngập lút trong Người. Vào những lúc ấy, Chúa Giêsu đổ tràn cho tôi một niềm an bình lớn lao đến độ về sau, dù cố gắng ưu tư tôi cũng không sao làm được. Và lúc đó, tôi đã nghe những lời này trong tâm hồn: Để con được vững tâm rằng chính Cha là người yêu sách con tất cả những điều này, Cha sẽ cho con một niềm bình an sâu thẳm, (67) cho dù con muốn cảm nghiệm phiền não và sợ hãi, hôm nay con cũng không có sức mà làm như vậy, nhưng tình yêu sẽ ngập lút linh hồn con đến độ quên cả bản thân.

 

144      Sau đó, Chúa Giêsu đã ban cho tôi một linh mục nữa [cha Sopocko] và lệnh cho tôi phải giãi bày tâm hồn với ngài. Lúc đầu tôi hơi ngần ngại, nhưng lời quở trách của Chúa Giêsu đã giúp tôi khiêm nhượng sâu thẳm trong tâm hồn. Dưới sự hướng dẫn của ngài, linh hồn tôi tiến bộ rất nhanh trong tình yêu, và nhiều ước vọng của Chúa đã được thực hiện bên ngoài. [46] Không ít lần tôi đã kinh ngạc trước sự cứu độ và lòng khiêm nhượng sâu xa của ngài.

 

145      Ôi, linh hồn tôi khốn nạn biết bao vì đã phí phạm quá nhiều ơn Chúa! Tôi đã lạc xa Chúa nhưng Người vẫn đeo bám tôi với nhiều ân sủng. Rất nhiều lần tôi đã cảm nghiệm được ơn Chúa giữa những lúc bất ngờ nhất. Từ khi Chúa ban cho tôi một cha linh hướng, tôi đã trung thành với ơn thánh hơn. Nhờ cha linh hướng và sự lưu tâm của ngài dành cho linh hồn tôi, tôi đã biết được ý nghĩa của linh hướng và Chúa Giêsu quan tâm thế nào đến việc ấy. Chúa trách tôi về các lỗi phạm rất nhỏ mọn và nhấn mạnh rằng chính Người thẩm định vấn đề tôi phải trình bày với cha giải tội; và [Người còn nói] thêm rằng... Bất kỳ sự đối nghịch nào với cha giải tội cũng phạm đến chính Cha.

 

            Dưới sự hướng dẫn của ngài, linh hồn tôi bắt đầu nghiệm được sự trầm lặng và bình an sâu xa, tôi nhiều lần được nghe trong tâm hồn những lời này: Con hãy tự củng cố để chiến đấu.

 

            + Chúa Giêsu thường tỏ cho tôi biết những gì Người không ưa thích trong linh hồn tôi, và hơn một lần Người đã quở trách về những điều xem ra có vẻ nhỏ mọn nhưng thực sự lại rất hệ trọng. Chúa đã cảnh cáo và thử thách tôi như một người thầy. Suốt nhiều năm, Người đích thân giáo dục tôi cho đến khi ban cho tôi một vị linh hướng. Trước kia, chính Chúa giải thích cho tôi những điều tôi không hiểu, còn bây giờ, Người bảo tôi hãy hỏi cha giải tội về mọi sự, Chúa thường phán: Cha sẽ trả lời cho con qua miệng lưỡi ngài. Con hãy an tâm. (68) Khi trình bày vấn đề với cha linh hướng, tôi chưa bao giờ nhận được một câu trả lời trái ngược với điều Chúa muốn về tôi. Chúa Giêsu có lúc cũng yêu cầu tôi một điều chưa ai từng biết, nhưng sau đó, khi tôi quỳ trong toà cáo giải, cha giải tội cũng truyền cho tôi một điều giống hệt như thế - tuy nhiên, điều này chỉ xảy ra hiếm hoạ mà thôi.

 

            + Khi một linh hồn nhận được nhiều ánh sáng và soi động trong một thời gian dài, và khi các nhà giải tội đã xác định được nguồn gốc những soi động này và làm cho linh hồn vững tâm; nếu tình yêu của linh hồn mãnh liệt, Chúa Giêsu lúc này tỏ cho linh hồn biết đến giờ phải đem ra thực hiện những gì họ đã lãnh nhận. Linh hồn nhận thấy Thiên Chúa đang tín nhiệm họ và điều này củng cố họ rất nhiều. Linh hồn biết rằng để trung thành, họ phải đương đầu với khó khăn tư bề, nhưng họ vẫn tin tưởng vào Chúa và nhờ niềm tin tưởng ấy mà đạt đến chỗ Thiên Chúa mời gọi. Những khó khăn không làm linh hồn kinh hãi; nhưng có thể nói đó là lương thực hằng ngày của họ. Những đau khổ không làm linh hồn khiếp sợ hoặc hoảng hốt, vì một chiến binh thường xuyên xông pha trận tuyến không hề hoảng sợ trước tiếng gầm thét của đại bác. Không những không hoảng sợ, linh hồn còn lắng tai để xác định kẻ thù từ đâu xông đánh để tiêu diệt chúng. Linh hồn không hành động mù quáng, nhưng xem xét và suy tính mọi sự kỹ lưỡng. Linh hồn không tự tín, nhưng cầu nguyện sốt sắng và tìm lời khuyên của những chiến binh kinh nghiệm và khôn ngoan hơn. Mỗi khi hành động như thế, linh hồn hầu như bao giờ cũng chiến thắng.

 

            Có những cuộc tấn công mà linh hồn không có thời giờ suy nghĩ hoặc tìm hỏi ý kiến; khi ấy linh hồn phải xông vào cuộc chiến sống còn. Nhiều khi không cần đáp lại lời nào, linh hồn cứ việc chạy đến nương ẩn nơi thương tích Trái Tim Chúa Giêsu là ích lợi nhất. Do chính hành vi này của linh hồn mà quân thù bị đánh bại.

 

            Trong thời gian bình an cũng như trong thời gian chiến đấu, linh hồn vẫn không ngừng cố gắng. Linh hồn phải nỗ lực và hết mình phấn đấu; nếu không, sẽ không có cơ hội để chiến thắng. Tôi coi thời gian bình an là thời gian để chuẩn bị cho chiến thắng. Linh hồn phải luôn tỉnh thức, tỉnh thức, tỉnh thức. Linh hồn suy nghĩ như thế sẽ nhận được nhiều ánh sáng. Một linh hồn vô ăn vô lo sẽ liều gặp nguy cơ thất bại và cũng đừng ngạc nhiên khi bị sa ngã.

 

            Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng Hướng Dẫn của linh hồn, ai chịu để cho Chúa huấn luyện là người khôn ngoan biết bao! Nhưng để được Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động trong linh hồn, cần phải có sự bình an và tịnh tâm.

 

146      (69) Cầu nguyện. Nhờ các hình thức cầu nguyện, linh hồn tự vũ trang cho cuộc chiến. Cho bất cứ tình trạng nào, linh hồn cũng phải cố gắng. Một linh hồn trong sạch và xinh đẹp cũng phải cầu nguyện, nếu không sẽ đánh mất vẻ đẹp của mình; một linh hồn gắng đạt đến sự trong sạch cũng phải cầu nguyện, nếu không sẽ không bao giờ đạt được; một linh hồn mới hoán cải cũng phải cầu nguyện, nếu không sẽ sa ngã trở lại; một linh hồn đắm chìm trong tội lỗi cũng phải cầu nguyện để có sức chỗi dậy. Không linh hồn nào không buộc phải cầu nguyện, bởi vì mọi ân sủng đều đến với linh hồn qua cầu nguyện.

 

147      Tôi nhớ mình đã nhận được rất nhiều ánh sáng trong nửa giờ chầu sấp mình trước Thánh Thể mỗi ngày trong mùa Chay. Lúc đó, tôi được biết mình và biết Chúa nhiều hơn. Tuy được phép bề trên, nhưng tôi cũng gặp nhiều trở ngại trong việc cầu nguyện như thế. Ước chi linh hồn hãy biết rằng để cầu nguyện và trung thành trong việc cầu nguyện, người ta phải vũ trang với lòng nhẫn nại và can trường để đương đầu với các khó khăn trong ngoài. Những khó khăn bên trong là sự chán nản, khô khan, nặng lòng nặng trí, và những cám dỗ. Những khó khăn bên ngoài là sự trọng kính của tha nhân và thời giờ; chúng ta phải giữ thời giờ đã dành cho việc cầu nguyện. Đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi: khi không cầu nguyện vào giờ dành riêng, nếu để về sau, tôi sẽ không thể cầu nguyện vì phải chu toàn các việc bổn phận; hoặc giả như xoay xở được để cầu nguyện, thì tôi cũng làm hết sức khó khăn, bởi vì đầu óc cứ suy nghĩ đến việc bổn phận. Tôi cũng nghiệm thấy sự khó khăn này, đó là khi linh hồn đã cầu nguyện sốt sắng và kết thúc trong tình trạng trầm lặng sâu xa, nhiều người chống lại tình trạng trầm lặng ấy; vì thế, linh hồn phải nhẫn nại để trung thành với việc cầu nguyện. Điều thường xảy ra với tôi là khi được đắm đuối trong Chúa, tôi đã gặt hái từ việc cầu nguyện được nhiều kết quả và sự hiện diện của Thiên Chúa đồng hành với tôi suốt ngày. Và lúc làm việc sẽ có nhiều trầm lặng, nhiều chính xác và nỗ lực hơn trong phận sự, điều này xảy ra vào khi tôi chịu nhiều khiển trách nhất vì lơ đểnh trong phận sự và thờ ơ với mọi sự; bởi vì các linh hồn ít tịnh tâm cũng muốn người khác nên giống họ, và thường trở thành [nguồn] ân hận cho họ.

 

148      (70) + Một linh hồn cao thượng và tinh tế, dù giản dị nhất, nhưng vẫn là một linh hồn rất khôn ngoan tế nhị, họ nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi sự, tìm được Người ở mọi nơi và biết cách tìm thấy Người ngay trong những điều kín nhiệm nhất. Linh hồn thấy mọi sự đều quan trọng, quý trọng mọi sự, và tạ ơn Thiên Chúa trong mọi sự. Họ tìm được lợi ích cho linh hồn trong mọi sự và dâng mọi vinh quang về Thiên Chúa. Linh hồn đặt trót niềm tín thác vào Thiên Chúa và không xao xuyến khi đến thời gian thử thách. Linh hồn biết Thiên Chúa luôn luôn là một Hiền Phụ tốt lành, và họ coi thường ý kiến trần gian. Linh hồn trung thành tuân theo ngay cả hơi thở khẽ nhất của Chúa Thánh Thần; vui mừng với Vị Khách Hiền Lương, và bám chặt lấy Người như một em bé với mẹ hiền. Nơi nào các linh hồn khác không còn lối đi và sợ hãi, thì linh hồn này vượt qua dễ dàng, không hề sợ hãi.

 

149      Khi muốn ở gần gũi và hướng dẫn một linh hồn, Chúa sẽ loại bỏ tất cả những gì bề ngoài. Khi ngã bệnh và được đưa đến phòng y tế, tôi thấy khó chịu. Chỉ có hai chị em chúng tôi ở đó. Các chị em trong dòng đến thăm chị N. trong khi chẳng ai đoái hoài đến tôi. Quả thật, chỉ có một phòng y tế, nhưng mỗi người lại có gian riêng của mình. Những đêm mùa đông thật đằng đẵng, chị N. có điện và ống nghe đài phát thanh, trong khi tôi không thể dọn bài nguyện ngắm vì thiếu điện.

 

            Gần hai tuần lễ như thế trôi qua, một buổi tối kia, tôi thở than với Chúa vì quá đau khổ và không thể dọn bài nguyện gẫm vì thiếu điện. Chúa nói rằng Người sẽ đến vào buổi tối và dạy tôi những chủ điểm cho bài nguyện gẫm hôm sau. Những chủ điểm này xoay quanh cuộc Thương Khó của Người. Chúa phán với tôi: Con hãy suy về những đau khổ của Cha trước toà Philatô. Và như thế, từng chủ điểm một, tôi suy ngắm về cuộc Thương Khó của Chúa suốt một tuần lễ. Từ lúc đó, một niềm vui lớn lao đến với linh hồn tôi, và tôi không còn mong đợi ai đến thăm hoặc chờ ánh điện nữa; Chúa Giêsu đã quá đủ cho tôi trong mọi sự. Các bề trên thực sự rất quan tâm đến các bệnh nhân, nhưng Chúa lại muốn tôi cảm thấy bị bỏ rơi. Vị Tôn Sư tuyệt vời này đã loại bỏ mọi thụ tạo để mình Người có thể hoạt động. Không ít lần tôi đã trải qua những đau khổ và cay cực như thế, đến nỗi Mẹ M. [có lẽ Mẹ Margaret] đã nói với tôi: “Này chị, trên đường đi của chị, những đau khổ trồi lên từ lòng đất. Tôi nhìn chị (71) như một người bị đóng đinh. Nhưng tôi thấy Chúa Giêsu có nhúng tay trong vụ này. Chị hãy trung thành với Người”.

 

150      + Tôi muốn ghi lại một giấc mơ của tôi về thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Khi còn trong thời gian nhà tập, lúc gặp phải một số khó khăn mà tôi không biết làm cách nào để vượt qua. Đó là những khó khăn nội tâm nhưng lại liên quan đến các gian nan bên ngoài. Tôi làm những tuần cửu nhật kính các vị thánh, nhưng tình hình càng lúc càng khó khăn hơn. Những đau khổ làm tôi tan nát đến độ không biết làm thế nào để sống còn, nhưng bỗng nhiên tôi loé lên một tư tưởng là cầu nguyện với thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Tôi bắt dầu một tuần cửu nhật kính thánh nữ, bởi vì trước khi vào dòng, tôi đã có lòng sùng kính ngài đặc biệt. Sau đó, tôi có phần thờ ơ với lòng sùng kính này, nhưng vì có nhu cầu, tôi lại bắt đầu cầu nguyện với ngài một cách sốt sắng. Đến ngày thứ năm trong tuần cửu nhật, tôi chiêm bao gặp được thánh nữ Têrêsa như thể ngài còn sống trên trần gian. Chị thánh giấu không cho tôi biết ngài là một vị thánh và lên tiếng an ủi , bảo tôi đừng lo âu về vấn đề này, nhưng hãy tín thác hơn vào Thiên Chúa. Thánh nữ nói: “Chị cũng đã chịu đau khổ nhiều”. Nhưng tôi không hết lòng tin tưởng vào thánh nữ và đáp lại: “Hình như em thấy chị có đau khổ gì đâu”. Nhưng thánh nữ xác quyết chắc chắn rằng chị thánh đã trải qua rất nhiều đau khổ: “Này em, em hãy biết rằng ba ngày nữa, sự khó sẽ đến hồi kết cuộc hạnh phúc”. Vì tôi chưa sẵn lòng tin tưởng, thánh nữ mới tỏ cho tôi biết ngài là một vị thánh. Lúc ấy, niềm vui lớn lao tràn ngập linh hồn tôi, và tôi nói với chị thánh: “Chị là một vị thánh à?”. Thánh nữ đáp: “Đúng vậy, chị là một vị thánh. Em hãy tin rằng vấn đề này rồi sẽ được giải quyết trong ba ngày nữa”. Và tôi nói: “Chị Têrêsa đáng yêu ơi, chị hãy cho em biết em có được lên thiên đàng không?”. Thánh nữ đáp: “Có, em sẽ được lên thiên đàng”. “Em có trở thành một vị thánh không?”. Thánh nữ lại đáp: “Có, em sẽ trở thành một vị thánh”. “Nhưng này chị Têrêsa Nhỏ ơi, em có sẽ trở thành một vị thánh được nâng lên bàn thờ như chị không?”. Chị thánh trả lời: “Có, em cũng sẽ là một vị thánh giống như chị, nhưng em phải tín thác vào Chúa Giêsu”. Khi đó, tôi hỏi ba mẹ tôi sẽ được lên thiên đàng không, sẽ [câu này bỏ dở] (72) và chị thánh đáp là có. Tôi còn hỏi thêm: “Các anh chị em của em có được lên thiên đàng không?”. Thánh nữ không trả lời dứt khoát nhưng bảo tôi cầu nguyện nhiều cho họ. Tôi đã hiểu ra họ cần nhiều lời cầu nguyện.

 

            Đây là một giấc mơ. Và như châm ngôn nói, những giấc mơ là những ảo ảnh; Thiên Chúa là đức tin. Tuy nhiên, ba ngày sau, sự khó đã được giải quyết một cách xuôi xắn như thánh nữ đã tiên báo. Và mọi chuyện trong việc này xảy ra đúng như những gì thánh nữ đã nói trước. Tuy là một giấc mơ, nhưng là một giấc mơ ý nghĩa

 

XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV

PHẦN II: số 151-300

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Chủ nhật - 25/06/2017 21:46

    

 

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA Phấn II: số 151-300

 

151      + Một lần kia, lúc tôi đang ở trong nhà bếp với chị N., [1] chị có phần khó chịu đối với tôi, và như một hình phạt, chị ra lệnh cho tôi phải ngồi trên bàn trong lúc chị vất vả tiếp tục làm các việc lau chùi, rửa ráy. Đang khi tôi ngồi như vậy, các chị khác đi qua và rất ngạc nhiên khi thấy tôi ngồi trên bàn và mỗi người bình luận một câu. Chị này bảo rằng tôi là đồ lười, chị khác thì nói: “Thứ kỳ cục!”. Lúc đó, tôi mới là một thỉnh sinh. Các chị khác lại nói: “Chị ta rồi sẽ ra thứ nữ tu gì đây?”. Tuy nhiên, tôi vẫn không xuống khỏi bàn vì chị N. nhân danh đức vâng lời [2] ra lệnh cho tôi ngồi như thế đến khi nào chị cho xuống mới thôi. Thực vậy, chỉ mình Chúa biết việc ấy đòi phải có bao nhiêu hành vi bỏ mình. Tôi tưởng mình xấu hổ mà chết mất. Thiên Chúa vẫn thường để những điều như thế xảy ra để huấn luyện con người nội tâm của tôi, nhưng Người cũng bù đắp nỗi nhục nhã ấy bằng một an ủi lớn lao. Trong giờ chầu phép lành hôm ấy, tôi được nhìn thấy Chúa trong vẻ đẹp đẽ vô cùng. Chúa Giêsu nhìn tôi một cách từ ái và phán: Ái nữ của Cha, con đừng sợ đau khổ; Cha ở với con.

 

152      Một lần kia, tôi phải trực đêm, [3] tâm trí hết sức ưu tư về việc vẽ bức hình, tôi không biết phải theo đường nào vì lúc nào người ta cũng ra sức thuyết phục tôi rằng tất cả điều ấy chỉ là ảo tưởng. Đàng khác, một vị linh mục lại nói có lẽ Thiên Chúa muốn được thờ phượng qua bức hình này và do đó, tôi phải gắng liệu mà nhờ vẽ. Trong lúc đó, linh hồn tôi cực kỳ uể oải. Khi vào nhà nguyện nhỏ, tôi gục đầu sát vào nhà tạm, gõ cửa và (73) thân thưa: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhìn đến những khó khăn kinh khủng về việc vẽ bức hình mà con đang phải gánh chịu”. Và tôi nghe một tiếng nói từ nhà tạm: Ái nữ của Cha, những đau khổ của con sẽ không còn lâu nữa đâu.

 

153      Một ngày kia, tôi nhìn thấy hai con đường. Một con đường thênh thang, đầy cát mịn và hoa lá, tràn đầy lạc thú, tiếng nhạc, và mọi trò tiêu khiển. Người ta đi lại trên con đường ấy, múa hát và vui vẻ. Họ đã đi đến cùng đường mà không biết. Và ở cuối con đường này là một vực thẳm kinh khủng; tức là hoả ngục. Các linh hồn sa xuống đó một cách mù quáng; họ đi thế nào thì sa xuống đó như vậy. Và con số ấy rất đông, không thể đếm xuể. Tôi còn nhìn thấy một con đường nữa, đúng ra là một nẻo hẹp, rải rác đầy gai góc và đá sỏi; những người đi trên con đường này khóc lóc vì đủ loại đau thương ập xuống trên họ. Một số người ngã xuống trên đá sỏi, nhưng lập tức đứng dậy và tiếp tục đi. Ở cuối con đường này là một khu vườn lộng lẫy chan chứa mọi hạnh phúc, và tất cả các linh hồn này đều được vào nơi ấy. Ngay lúc đó, họ quên hết mọi đau thương của mình.

 

154      Một lần kia, khi có một giờ chầu tại tu viện các nữ tu dòng Thánh Gia, [4] chiều tối, tôi cùng với một chị khác đi sang đó. Ngay khi tôi vừa vào nhà nguyện, sự hiện diện của Chúa ngập tràn linh hồn tôi. Tôi thầm thĩ cầu nguyện như thường lệ. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy Chúa và Người phán với tôi: Con hãy biết nếu con thờ ơ với việc vẽ bức hình và toàn bộ công cuộc của Lòng Thương Xót, con sẽ phải trả lẽ vì rất đông các linh hồn trong ngày phán xét. Sau những lời của Chúa, một nỗi sợ hãi tràn ngập linh hồn tôi, và sự kinh hoàng chộp bắt tôi. Tôi cố gắng hết sức nhưng không sao trấn tĩnh được. Những lời này vang vọng bên tai tôi: như vậy, trong ngày phán xét, không những tôi phải trả lẽ về bản thân, mà còn về các linh hồn khác nữa. Những lời này xé nát tâm hồn tôi. Khi về đến nhà, tôi đến với Chúa Giêsu Nhỏ, [5] sấp mình xuống trước Thánh Thể và thân thưa với Chúa: “Con sẽ làm hết sức mình, nhưng nài xin Chúa luôn luôn ở với con và ban sức mạnh cho con thực thi thánh ý Chúa; vì Chúa có thể làm được mọi sự, trong khi tự sức mình, con không làm được gì”.

 

155      (75) + Điều xảy ra là ít lâu nay, nhiều lúc trong linh hồn tôi cảm nghiệm có một linh hồn nào đó đang cầu nguyện cho tôi; và tương tự, tôi cũng cảm thấy trong linh hồn có một linh hồn nào đó cần tôi cầu nguyện, mặc dù họ không ngỏ lời với tôi về điều ấy. Đó là một cảm giác bồn chồn, như thể có ai đó đang gọi tôi; và khi tôi cầu nguyện, tôi được bình an trở lại.

 

156      + Một lần kia, tôi khao khát được rước Chúa, nhưng vì một nghi nan, nên tôi không hiệp lễ. Tôi rất khổ não vì điều này. Dường như tâm hồn tôi vỡ ra vì nỗi đau đớn. Khi tôi bắt đầu làm việc, tâm hồn tôi tràn ngập nỗi cay đắng, Chúa Giêsu thình lình đứng bên cạnh tôi và phán: Ái nữ của Cha, con đừng bỏ hiệp lễ trừ khi biết rõ sự sa ngã của con thật nghiêm trọng; ngoài ra, đừng để nỗi nghi nan nào cản ngăn con hiệp nhất với Cha trong mầu nhiệm tình yêu của Cha. Những lỗi nhỏ mọn của con sẽ biến mất trong tình yêu Cha như một mẩu rơm được ném giữa hoả lò khổng lồ. Con hãy biết rằng con làm cho Cha đau khổ rất nhiều khi không tiếp nhận Cha trong giờ hiệp lễ.

 

157      + Vào buổi tối, khi vào nhà nguyện nhỏ, tôi nghe những lời này trong linh hồn: Ái nữ của Cha ơi, con hãy suy nghĩ về những lời này: “Trong cơn xao xuyến bồi hồi, Người cầu nguyện càng khẩn thiết hơn” (Lc 22,44). Khi tôi bắt đầu suy kỹ hơn về những lời này, rất nhiều ánh sáng đã tràn vào linh hồn tôi. Tôi biết chúng ta cần phải kiên bền trong cầu nguyện, và thường thì phần rỗi chúng ta tuỳ thuộc vào lời cầu nguyện khó khăn ấy.

 

158      + Khi tôi ở Kiekrz [1930] để thay cho một chị [6] tại đó trong một thời gian ngắn, vào buổi chiều, tôi đi dạo trong vườn và dừng lại bên bờ hồ; tôi đứng đó một hồi lâu nhìn ngắm cảnh vật chung quanh. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu bên cạnh, và Người âu yếm nói với tôi: Tất cả đây Cha đã tạo dựng cho con, hỡi Bạn Tình của Cha; con hãy biết rằng mọi vẻ đẹp này chẳng là gì nếu sánh với những gì Cha đã chuẩn bị cho con trong cõi đời đời. Linh hồn tôi tràn ngập an ủi đến nỗi tôi lưu lại đó cho đến tận chiều tối, nhưng với tôi dường như chỉ là một thoáng giây phút ngắn ngủi. Hôm ấy là ngày rảnh rỗi tôi được dành làm ngày tĩnh tâm, [7] (75) thành ra tôi được tự do cầu nguyện. Ôi, Thiên Chúa nhân lành vô cùng đeo đuổi chúng ta một cách từ ái biết bao! Điều thường xảy ra là Thiên Chúa đã ban cho tôi những hồng ân lớn lao nhất vào những lúc bất ngờ nhất.

 

159      + Ôi Bánh Thánh vì con chịu giam hãm trong chén vàng,

 

            Ước chi băng qua hoang mạc lưu đày lớn rộng này

 

            Mà con vẫn trong sạch, nguyên tuyền, và vô tì vết;

 

            Ôi, xin ban cho con ơn ấy nhờ quyền năng tình yêu Chúa

 

            Để điều này trở thành sự thật.

 

            Ôi Bánh Thánh, xin nhận lấy linh hồn con làm nơi cư ngụ,

 

            Ôi tình yêu thương tinh ròng nhất của Trái Tim Chúa!

 

            Xin đẩy lùi bóng tối bằng sự rạng ngời của Chúa.

 

                Xin đừng từ chối ơn thánh Chúa cho một linh hồn khiêm nhượng.

 

            Ôi Bánh Thánh, niềm hoan lạc của cả thiên đàng,

 

            Mặc dù vẻ đẹp của Chúa bị che khuất

 

            Và được gói gọn trong một miếng bánh nhỏ,

 

            Nhưng đức tin mãnh liệt vẫn xé được bức màn.

 

Về đầu trang

 

160      + Ngày thập tự chinh, [8] ngày mồng 5 trong tháng, tình cờ trùng vào ngày thứ Sáu tuần Thánh. Đây là ngày tôi được chầu Chúa Giêsu. Bổn phận của tôi là đền tạ mọi xúc phạm và các hành vi bất kính với Chúa, hôm nay cũng phải cầu nguyện để đừng xảy ra một tội phạm thánh nào. Hôm nay, linh hồn tôi bừng cháy một tình yêu đặc biệt đối với Thánh Thể. Dường như tôi đã được biến thành một ngọn lửa cháy phừng. Lúc tôi sắp rước lễ, một Bánh Thánh thứ hai sà xuống tay áo vị linh mục khiến tôi không biết phải rước Bánh Thánh nào. Tôi ngần ngừ một lúc, linh mục khó chịu dùng tay ra dấu bảo tôi rước lễ. Khi tôi rước Bánh Thánh linh mục trao cho, Bánh Thánh kia lại sà vào tay tôi. Vị linh mục đi theo rào quanh bàn thờ tiếp tục cho hiệp lễ, đang lúc đó, tôi giữ Chúa Giêsu trong bàn tay. Khi linh mục trở lại gần đến, tôi nâng Bánh Thánh lên để ngài đặt vào chén thánh, bởi vì tôi đã rước Bánh Thánh thứ nhất và chưa nuốt xong nên không sao nói cho ngài biết Bánh Thánh kia đã sà xuống trước. Đang lúc cầm Bánh Thánh trong tay, (76) tôi cảm nghiệm một tình yêu mãnh liệt đến nỗi suốt ngày hôm ấy không thể ăn uống được và các giác quan chưa trở lại bình thường. Tôi được nghe những lời này từ Bánh Thánh: Cha ước ao được ngự nơi bàn tay, chứ không phải chỉ trong tâm hồn con mà thôi. Lúc đó, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng. Nhưng khi vị linh mục đến gần lần kế tiếp, tôi chỉ còn thấy Bánh Thánh mà thôi.

 

161      Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Vô Nhiễm,

 

            Trái Tim Mẹ như pha lê tinh tuyền,

 

            Mẹ là sức mạnh của con, ôi mũi neo kiên vững!

 

            Mẹ là khiên thuẫn, bảo vệ cho con tim yếu đuối này.

 

            Lạy Mẹ Maria, Mẹ tinh tuyền, tinh tuyền khôn sánh;

 

            Vừa là Trinh Nữ, vừa là Hiền Mẫu,

 

            Mẹ xinh đẹp như vầng dương, không chút bợn nhơ,

 

            Và linh hồn Mẹ thật không gì sánh được.

 

            Vẻ đẹp của Mẹ làm ngây ngất ánh mắt Đấng Ba-Lần-Thánh.

 

            Người đã xuống thế, lìa bỏ ngai cửu trùng vĩnh cửu,

 

            Và mặc lấy Thịt Máu của Trái Tim Mẹ

 

            Nằm gọn trong Lòng Đồng Trinh của Mẹ suốt chín tháng trời.

 

            Lạy Mẹ Đồng Trinh, tinh tuyền hơn mọi bông huệ,

 

            Trái Tim Mẹ là nhà tạm đầu tiên nơi trần thế cho Chúa Giêsu.

 

            Chỉ vì không đâu thẳm sâu hơn lòng khiêm nhượng của Mẹ

 

            Mẹ được nâng cao trên mọi ca đoàn thiên thần và toàn thể các thánh.

 

            Lạy Mẹ Maria, Từ Mẫu ngọt ngào của con,

 

            Con dâng lên Mẹ hồn xác, và trái tim nghèo khó của con.

 

            Mẹ hãy là người bảo vệ cuộc đời con,

 

            Nhất là trong giờ lâm tử, trong cuộc chiến cuối cùng của con.

 

162      (77) J.M.J. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa

 

Ngày 1 tháng 1 năm 1937

 

            Biểu đồ kiểm soát nội tâm. Điều dốc lòng đặc biệt - kết hợp với Chúa Kitô Nhân Lành. Thực hành: thinh lặng nội tâm, giữ trọn luật thinh lặng.

 

Lương Tâm

 

Tháng Giêng:  Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 41, sa ngã 4.

 

                        Lời than thở: Nhưng Chúa Giêsu vẫn im lặng.

 

Tháng Hai:      Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 36, sa ngã 3.

 

                        Lời than thở: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa.

 

Tháng Ba:                   Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 51, sa ngã 2.

 

                        Lời than thở: Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho tim con cháy lên tình mến.

 

Tháng Tư:                   Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 61, sa ngã 4.

 

                        Lời than thở: Với Chúa, tôi có thể làm được mọi sự.

 

Tháng Năm:    Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 92, sa ngã 3.

 

                        Lời than thở: Sức mạnh của tôi là ở nơi Danh Chúa.

 

Tháng Sáu:      Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 64, sa ngã 1.

 

                        Lời than thở: Tất cả cho Chúa Giêsu.

 

Tháng Bảy:      Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 62, sa ngã 8.

 

                        Lời than thở: Lạy Chúa Giêsu, xin hãy nghỉ ngơi trong lòng con.

 

Tháng Tám:    Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 88, sa ngã 7.

 

                        Lời than thở: Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết...

 

Tháng Chín:    Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 99, sa ngã 1.

 

            Lời than thở: Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giấu con trong Trái Tim Chúa.

 

Tháng Mười:   Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng 41, sa ngã 3.

 

                        Lời than thở: Lạy Mẹ Maria, xin hợp nhất con với Chúa Giêsu.

 

Tháng Mười Một:       Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng, sa ngã.

 

                        Lời than thở: Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương xót!

 

Tháng Mười Hai:       Thiên Chúa và linh hồn; thinh lặng.

 

                        Chiến thắng, sa ngã.

 

                        Lời than thở: Xin chúc tụng Bánh Thánh sống động!

 

163      (78)                  Năm 1937

 

Những Viopệc Tổng Quát

 

            + Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh! Bao nhiêu lần hít thở, bao nhiêu lần nhịp tim đập, bao nhiêu lần dòng máu luân chuyển trong cơ thể con là bấy nhiêu ngàn lần con muốn tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa.

 

            + Lạy Chúa, con muốn hoàn toàn được biến đổi trong Lòng Thương Xót của Chúa và trở nên hình ảnh sống động của Chúa! Ước gì tình thương khôn dò, ưu phẩm vĩ đại nhất trong các ưu phẩm của Chúa, trào thông qua trái tim và linh hồn con mà đến với người lân cận của con.

 

            Xin giúp con, lạy Chúa, cho mắt con biết xót thương để con không bao giờ nghi ngờ hay xét đoán theo bề ngoài, nhưng chỉ tìm kiếm những vẻ đẹp nơi linh hồn những người chung quanh, và đến để trợ giúp họ.

 

            Xin giúp con, lạy Chúa, cho tai con biết xót thương để con biết lắng nghe những nhu cầu của người lân cận và đừng lãnh đạm trước những đau đớn và than van của họ.

 

            Xin giúp con, lạy Chúa, cho lưỡi con biết xót thương để con không bao giờ nói lời tiêu cực về người lân cận, nhưng biết an ủi và tha thứ cho mọi người.

 

            Xin giúp con, lạy Chúa, cho tay con biết xót thương và đầy tràn những việc tốt lành để con chỉ biết mưu ích cho người lân cận, và gánh vác những việc khó khăn nhọc nhằn hơn.

 

            Xin giúp con, lạy Chúa, cho chân con biết xót thương để con biết thắng vượt nỗi mệt nhọc và chán nản của bản thân mà mau mắn giúp đỡ người lân cận. Nghỉ ngơi thực sự của con là phục vụ người khác.

 

            Xin giúp con, lạy Chúa, cho tim con biết xót thương để con biết cảm nghiệm mọi nỗi tân toan của người lân cận. Con sẽ không khước từ trái tim trước bất cứ ai. Con sẽ thành tâm cả với những người mà con biết sẽ phụ lòng thành của con. Con sẽ tự khoá mình trong Trái Tim hay thương của Chúa. Con sẽ gánh chịu khốn khó của mình trong thinh lặng. Lạy Chúa, chớ gì Lòng Thương Xót Chúa hãy ngự trị nơi con.

 

            + Chính Chúa truyền cho con phải thực hành ba cấp độ xót thương. Thứ nhất: hành vi xót thương, thuộc bất cứ hình thức nào. Thứ hai: ngôn từ xót thương - nếu không thể thực hiện hành vi xót thương, con sẽ giúp đỡ bằng lời nói. Thứ ba: cầu nguyện - nếu không thể tỏ lòng xót thương bằng việc làm hay lời nói, con vẫn luôn có thể thực hiện được bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện của con sẽ đến được cả những nơi con không sao đến được bằng thân xác.

 

            Ôi! Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con trong Chúa vì Chúa có thể làm được mọi sự.

 

[bốn trang để trắng] [9]

 

164      (83) +J.M.J                  Warsaw, 1933

 

Kỳ Thử Trước Vĩnh Thệ [10]

 

            Khi biết sắp sửa được vào kỳ thử, tim tôi rộn ràng niềm vui vì nghĩ đến hồng ân bao la, tức là được vĩnh thệ. Tôi đến trước Thánh Thể và khi đắm mình trong lời kinh tạ ơn, tôi đã được nghe những lời sau đây trong tâm hồn: Con nhỏ của Cha, con là niềm vui của Cha, là niềm an ủi của Trái Tim Cha. Cha ban cho con những hồng ân nhiều tuỳ sức con có thể lãnh nhận. Mỗi khi muốn Cha được hạnh phúc, con hãy nói cho thế giới biết về Lòng Thương Xót bao la khôn dò của Cha.

 

165      Một vài tuần lễ trước, tôi đã được nghe biết về kỳ thử, tôi ghé vào nhà nguyện một lúc và Chúa Giêsu phán bảo tôi: Lúc này các bề trên đang quyết định cho nữ tu nào sẽ được tuyên khấn trọn đời. Không phải mọi nữ tu đều được lãnh nhận hồng ân này, nhưng đó là vì lỗi của họ. Ai không lợi dụng những ơn nhỏ sẽ không được lãnh nhận những ơn lớn. Còn với con, hỡi con nhỏ của Cha, hồng ân này sẽ được ban cho con. Linh hồn tôi choáng ngợp trong ngạc nhiên sướng vui, vì trước đây ít ngày một chị đã đến nói với tôi: “Này chị, chị sẽ không được dự kỳ thử thứ ba này đâu. Chính tôi sẽ liệu cho chị không được nhận vĩnh thệ đâu”. Tôi không nói gì với chị ấy, nhưng cảm thấy một nỗi đau đớn khủng khiếp, tuy nhiên, tôi cố gắng giấu kín hết sức.

 

            Ôi Chúa Giêsu, những đường lối của Chúa thật diệu kỳ biết bao!

 

            Giờ đây, tôi đã thấy con người tự sức chẳng thể làm được gì vì tôi đã được dự kỳ thử - như Chúa Giêsu đã báo cho biết.

 

166      Trong cầu nguyện, tôi luôn tìm được ánh sáng và sức mạnh cho tâm trí mặc dù có những giờ phút thật rầy rà và đau đớn, đôi khi khó mà tưởng tượng được những điều này lại có thể xảy ra trong một tu viện. Thật lạ kỳ, Thiên Chúa nhiều khi lại tha phép cho xảy ra, nhưng luôn luôn để làm sáng tỏ hoặc vun trồng nhân đức nơi một linh hồn. Đó là nguyên nhân của những cuộc thử thách.

 

167      (84) Hôm nay [tháng 11 năm 1932], tôi đã đến Warsaw để dự kỳ thử thứ ba. Sau khi gặp gỡ thân mật các bề trên yêu quý, tôi ghé vào nhà nguyện nhỏ một lúc. Bỗng nhiên, sự hiện diện của Chúa chiếm đoạt linh hồn tôi, và tôi được nghe những lời này: Ái nữ của Cha ơi, Cha ước mong trái tim con sẽ được đào luyện theo gương Trái Tim từ ái của Cha. Con phải được thấm nhuần Lòng Thương Xót của Cha.

 

Mẹ Giám Tập [Margaret] yêu quý

 

            Liền hỏi tôi đã tham dự tuần tĩnh tâm năm nay chưa, và tôi thưa lại - chưa. “Thế thì trước tiên chị phải tĩnh tâm ít là ba ngày”.

 

            Xin cám tạ Chúa, tại Walendow [11] đang tổ chức tuần tĩnh tâm tám ngày và tôi có thể tham dự. Nhưng những khó khăn lại nổi lên về việc tôi tham dự cuộc tĩnh tâm ấy. Một chị kia ra sức chống đối việc tôi tham dự và [dường như] tôi không được đi nữa. Sau bữa tối, tôi lên nhà nguyện để chầu năm phút. Thình lình tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu, Người phán với tôi: Ái nữ của Cha ơi, Cha đang chuẩn bị nhiều ơn thánh cho con lãnh nhận trong tuần tĩnh tâm sẽ bắt đầu vào ngày mai. Tôi thưa lại: “Lạy Chúa Giêsu, cuộc tĩnh tâm đã khai mạc rồi nhưng con không được đi”. Chúa phán với tôi: Con hãy sẵn sàng, bởi vì ngày mai con sẽ bắt đầu tĩnh tâm. Về việc đi của con, Cha sẽ sắp đặt với các bề trên. Và ngay lúc ấy, Chúa Giêsu liền biến đi.

 

            Tôi bắt đầu tự hỏi không biết việc ấy xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó một lúc, tôi vứt bỏ những tư tưởng ấy và chuyên chú cầu nguyện, nài xin Chúa Thánh Thần ban ánh sáng để thấy được tất cả nỗi đớn hèn của mình. Một lúc sau, tôi rời nhà nguyện nhỏ đi lo các việc phận sự. Ngay lúc ấy, Mẹ Tổng Quyền [Michael] gọi tôi lại và nói: “Này chị, hôm nay chị sẽ đi Walendow với Mẹ Valeria để ngày mai có thể bắt đầu tĩnh tâm ngay. May là Mẹ Valeria tình cờ ở đây và chị em có thể đi với nhau được rồi”. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ, tôi đã có mặt ở Walendow. Trong lòng tôi hồi tưởng và nhận ra chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể an bài các việc như vậy mà thôi.

 

168      (85) Khi người chị em đã mạnh mẽ chống đối việc tôi tham dự tĩnh tâm nhìn thấy tôi, chị tỏ vẻ ngạc nhiên và bất mãn. Không để ý đến điều ấy, tôi chào chị một cách thân ái rồi đi viếng Chúa để tìm biết phải sống tuần tĩnh tâm này thế nào.

 

169      Cuộc chuyện vãn giữa Chúa và tôi trước cuộc tĩnh tâm. Chúa Giêsu cho tôi biết cuộc tĩnh tâm này hơi khác với những lần tĩnh tâm khác. Con hãy cố gắng duy trì sự bình an sâu xa về những cuộc tiếp xúc giữa con với Cha. Cha sẽ cất hết mọi nghi nan trong vấn đề này. Cha biết con an tâm khi Cha đang nói với con, nhưng ngay khi Cha ngưng nói, con lại bắt đầu moi tìm những hoài nghi. Nhưng Cha muốn con biết rằng Cha sẽ củng cố linh hồn con đến độ dù con muốn ưu tư đi nữa, điều đó cũng không tuỳ ở sức con. Như một bằng chứng cho thấy chính Cha đang nói với con đây, vào ngày thứ hai trong tuần tĩnh tâm, con hãy đến xưng tội với vị linh mục giảng phòng; con hãy đến gặp ngài ngay sau giờ giảng và trình bày cho ngài mọi nghi nan của con về Cha. Cha sẽ trả lời cho con qua môi miệng của ngài, và sau đó những nỗi sợ hãi của con sẽ tan biến. Trong tuần tĩnh tâm này, con hãy giữ thinh lặng thật kỹ lưỡng như thể không có sự gì chung quanh. Con hãy nói với Cha và với cha giải tội của con; và chỉ xin các bề trên của con các việc hãm mình mà thôi. Tôi cảm nhận được một niềm vui mênh mang vì Chúa đã tỏ lòng nhân ái đối với tôi và đã hạ xuống vì tôi.

 

170      Ngày thứ nhất trong tuần tĩnh tâm. Tôi cố gắng vào nhà nguyện trước tiên vào buổi sáng hôm ấy; trước giờ nguyện ngắm, tôi dùng ít phút để cầu nguyện với Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ. Tôi tha thiết nài nỉ Mẹ Thiên Chúa xin cho tôi ơn trung thành với những soi động nội tâm và trung thành thực thi thánh ý Chúa, cho dù thế nào đi nữa. Tôi bắt đầu tuần tĩnh tâm bằng một lòng can đảm rất đặc biệt.

 

171      (86) Chiến đấu để giữ thinh lặng. Như thường lệ, chị em từ những tu viện các nơi kéo về dự tĩnh tâm. Một chị đã lâu không gặp đã đến phòng và bảo có ít điều muốn nói với tôi. Tôi không đáp lại, và khi thấy tôi không muốn phá thinh lặng, chị liền nói: “Tôi không ngờ chị lại kỳ cục đến thế đấy chị ạ”. Rồi chị ấy bỏ đi thẳng. Tôi quá hiểu chị ấy chẳng có chuyện gì ngoài việc muốn thoả tính tự ái tò mò mà thôi. Lạy Chúa, xin gìn giữ con trong sự trung thành.

 

172      Cha [12] giảng phòng từ Mỹ đến. Ngài mới đến Ba Lan một thời gian ngắn, và tình cờ ngài giảng tĩnh tâm cho chúng tôi lần này. Từ con người của ngài toát ra một sức sống nội tâm sâu xa. Dáng vẻ của ngài minh chứng cho sự vĩ đại tinh thần ấy. Nét khổ chế và trầm lặng nổi bật nơi vị linh mục này. Nhưng dù vậy, tôi vẫn cảm thấy khó khăn để trình bày với ngài về tâm hồn và những hồng ân tôi đã lãnh nhận; bao giờ tôi cũng dễ xưng thú tội lỗi, nhưng về các hồng ân, thực sự tôi phải cố gắng hết mình, và rốt cuộc tôi cũng chẳng nói gì được cả.

 

173      Những cám dỗ của Satan trong tuần tĩnh tâm. Tôi cảm thấy một nỗi sợ hãi kỳ lạ vì lo lắng vị linh mục sẽ không hiểu hoặc không có thời giờ để nghe tất cả những điều tôi trình bày. Tôi phải nói tất cả điều này cho ngài cách nào đây? Nếu là cha Bukowski, tôi có thể trình bày dễ dàng hơn, còn cha dòng Tên này, tôi mới gặp lần đầu... Lúc ấy, tôi nhớ lại lời cha Bukowski đã khuyên dạy, ít ra tôi cũng phải ghi lại ít điều vắn tắt về những ơn soi sáng Chúa ban trong tuần tĩnh tâm và trình bày ngắn gọn cho ngài về những ơn soi sáng ấy. Lạy Chúa tôi, một ngày rưỡi đã trôi qua êm đềm, và giờ đây, cuộc chiến sống còn đang khởi đầu. Nửa tiếng nữa giờ giảng phòng sẽ bắt đầu, và sau đó tôi sẽ đi xưng tội. Satan ra sức thuyết phục tôi tin rằng nếu các bề trên đã bảo đời sống nội tâm của tôi chỉ là một ảo tưởng, vậy cớ gì tôi lại phải bàn hỏi (87) và làm phiền đến cha giải tội?

 

            Mẹ X. [có lẽ Mẹ Jane] đã chẳng bảo rằng Chúa Giêsu không hề kết thân với những linh hồn khốn nạn như ngươi hay sao? Cha giải tội cũng sẽ nói với ngươi giống hệt như thế thôi. Tại sao lại phải kể lể hết cho ngài? Những điều này đâu phải là tội, mà Mẹ X. cũng đã cho ngươi biết tất cả cuộc kết thân với Chúa Giêsu chỉ là mơ màng và thuần tuý cuồng loạn mà thôi. Vậy tại sao phải kể cho cha giải tội làm gì? Tốt hơn, ngươi hãy vứt quách cái điều như những ảo tưởng này đi là xong. Hãy xem, vì chúng mà ngươi đã chịu biết bao xỉ nhục, và còn bao nhiêu nữa đang chờ đợi, tất cả chị em đều biết ngươi là đứa cuồng loạn.

 

            Với tất cả sức mạnh của linh hồn, tôi đã kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu!”.

 

174      Vào lúc ấy, vị linh mục đi vào và bắt đầu giảng. Ngài giảng rất ngắn gọn như đang có gì vội vã. Sau bài giảng, ngài đi thẳng vào toà giải tội. Nhìn thấy không có ai vào xưng tội, tôi bật dậy khỏi bàn quỳ và loáng một cái đã ở trong toà cáo giải. Không còn thời giờ để cân nhắc gì nữa. Thay vì kể với cha giải tội những hoài nghi đã gieo rắc trong tôi về các lần tiếp xúc với Chúa Giêsu, tôi lại bắt đầu trình bày với ngài những cám dỗ tôi vừa mới nói đến ở trên. Cha giải tội hiểu ra ngay tình trạng của tôi và nói: “Này chị, chị nghi ngờ Chúa Giêsu chỉ vì Người đối xử với chị quá nhân lành. Được, này chị, chị hãy hoàn toàn an tâm. Chúa Giêsu là Thầy của chị, việc giao tiếp giữa chị với Người không phải là mơ màng, cuồng loạn, hoặc ảo tưởng đâu. Chị hãy biết chị đang đi đúng đường. Hãy cố gắng trung thành với những ân sủng này; chị không được tự tiện trốn tránh đâu. Này chị, chị không cần phải nói cho các bề trên của chị về những ân sủng nội tâm này, trừ khi chính Chúa Giêsu truyền rõ ràng phải làm như vậy, và ngay cả khi ấy, chị cũng nên bàn hỏi với cha giải tội trước đã. Nhưng nếu Chúa Giêsu đòi hỏi điều gì bên ngoài, trong trường hợp này, sau khi bàn hỏi với cha giải tội, chị hãy thực hiện điều Chúa truyền, cho dù điều ấy đòi chị phải trả giá đắt đi nữa. Đàng khác, chị cũng phải trình bày cho cha giải tội tất cả mọi sự. Tuyệt đối không còn con đường nào khác cho chị đâu, chị ạ. Chị hãy cầu nguyện (88) để có được một cha linh hướng, nếu không, chị sẽ phí phạm những ân huệ lớn lao của Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa, chị hãy an tâm; chị đang đi đúng đường. Đừng để ý gì khác, hãy cứ luôn luôn trung thành với Chúa Giêsu, mặc kệ người ta nói gì về chị. Chính các linh hồn khốn cùng mới được Chúa Giêsu kết thân mật thiết như thế. Chị càng hạ mình, Chúa Giêsu càng kết hợp với chị hơn nữa”.

 

175      Khi tôi rời toà cáo giải, niềm vui khôn tả dạt dào linh hồn, thành ra tôi phải rúc vào một chỗ kín đáo trong vườn để lánh các chị em và để tâm hồn được tràn trải với Chúa. Sự hiện diện của Chúa thấu nhập tôi; lập tức toàn thể cái hư vô của tôi được đắm đuối trong Người; đồng thời tôi cảm thấy - đúng hơn là nhận thức rõ ràng - Ba Ngôi Thiên Chúa đang ẩn ngự trong tôi. Tôi hoan hưởng một niềm an bình trong linh hồn đến nỗi phải ngạc nhiên vì sao trước đó tôi lại có nhiều nghi ngại đến thế.

 

176      + Quyết định: Trung thành với các soi động bên trong, cho dù không biết sẽ phải trả giá đến đâu. Tôi không được tự ý làm một điều gì mà không bàn hỏi trước với cha giải tội.

 

177      + Tuyên lại lời khấn dòng. Ban sáng, ngay từ lúc tỉnh giấc, thần trí tôi đã hoàn toàn đắm chìm trong Thiên Chúa, giữa đại dương tình ái. Tôi nghiệm thấy hoàn toàn được ngập lút trong Người. Trong giờ thánh lễ, tình yêu Chúa của tôi lên đến cực điểm. Sau khi tuyên lại lời khấn và hiệp lễ, tôi chợt nhìn thấy Chúa Giêsu, Người phán bảo tôi một cách âu yếm: Ái nữ của Cha ơi, con hãy nhìn ngắm Trái Tim nhân lành của Cha. Khi chiêm ngắm Thánh Tâm cực trọng, tôi cũng được thấy cả những luồng sáng như được vẽ trong bức hình, cùng với Máu và Nước từ đó trào ra, và tôi đã hiểu Lòng Thương Xót Chúa bao la dường nào. Chúa Giêsu lại phán bảo tôi một cách dịu dàng: Hỡi ái nữ của Cha, con hãy nói cho các linh mục về Lòng Thương Xót khôn lường của Cha. Những ngọn lửa thương xót đang bừng cháy trong Cha - kêu gào đòi được phung phát; Cha muốn trào đổ mãi cho các linh hồn; trái lại, các linh hồn lại không muốn tin vào lòng nhân lành của Cha. Bỗng nhiên Chúa Giêsu biến đi. Nhưng suốt ngày, thần trí tôi cứ đắm đuối (89) trong sự hiện diện như sờ được của Chúa, mặc dù có tiếng râm ran trò chuyện thường xảy ra sau cuộc tĩnh tâm. Nhưng điều ấy không làm phiền tôi chút nào. Thần trí tôi ở trong Chúa, mặc dù bên ngoài tôi tham gia vào các cuộc chuyện trò, thậm chí còn đi thăm Derdy [13] nữa.

 

178      Hôm nay, chúng tôi bắt đầu kỳ thử thứ ba. Cả ba chị em chúng tôi gặp nhau tại phòng Mẹ Margaret, bởi vì các chị khác cũng đang chuẩn bị kỳ thử của họ tại nhà tập viện. Mẹ Margaret khai mạc bằng một kinh nguyện, giải thích cho chúng tôi biết kỳ thử thứ ba gồm những gì, và sau đó Mẹ nói về hồng ân vĩnh thệ lớn lao như thế nào. Bỗng nhiên, tôi oà lên khóc. Lập tức mọi ơn Chúa ban đều hiện về trước mắt linh hồn, tôi thấy mình quá nhơ nhớp và tệ bạc với Chúa. Các chị em lên tiếng quở trách: “Sao chị lại khóc rống lên thế?. Nhưng Mẹ Margaret đến bênh vực tôi, Mẹ nói không có gì phải ngạc nhiên cả.

 

            Vào cuối giờ, tôi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, và như một kẻ xấu xa đốn mạt nhất, tôi khẩn nài Lòng Thương Xót Chúa, xin Người chữa lành và thanh tẩy linh hồn tội nghiệp của tôi. Lúc đó tôi được nghe những lời này: Ái nữ của Cha ơi, tất cả những khốn nạn của con đã được tiêu tan trong ngọn lửa tình yêu của Cha, như một nhánh cây nhỏ được ném vào lò lửa hừng hực. Bằng cách hạ mình như vậy, con kín múc cho mình và cho các linh hồn khác tất cả biển nguồn xót thương của Cha. Tôi thưa lại: “Lạy Chúa Giêsu, xin uốn nắn trái tim khốn nạn của con theo niềm hoan lạc thần linh của Chúa”.

 

179      Trong suốt kỳ thử thứ ba, nhiệm vụ của tôi là giúp chị phụ trách nhà may. [14] Nhiệm vụ này đã cho tôi nhiều dịp thực tập nhân đức. Đôi khi tôi phải đưa đồ đến cho một số chị em những ba lần, thế mà họ vẫn chưa vừa lòng. Nhưng tôi cũng nhận ra nhân đức cao vời của một số chị, các chị này lúc nào cũng chỉ xin (90) những đồ kém nhất của ban may. Tôi thán phục tinh thần khiêm tốn và khổ chế của các chị.

 

Về đầu trang

 

180         + Trong mùa Vọng, một nỗi niềm khao khát Chúa mãnh liệt chỗi dậy trong linh hồn tôi. Thần trí tôi bay vút về Chúa với tất cả sức mạnh. Trong thời gian đó, Chúa đã ban cho tôi rất nhiều ánh sáng để hiểu biết các ưu phẩm của Người.

 

            Ưu phẩm thứ nhất Chúa đã cho tôi biết đó là sự thánh thiện của Người. Sự thánh thiện của Chúa thật cao vời đến độ mọi quyền thần và dũng thần đều run giùng trước thánh nhan Người. Các thiên thần tinh sạch nhất còn phải che mặt và mất hút trong niềm khâm sùng bất tận, các ngài đồng thanh diễn tả hình thức tôn sùng cao trọng nhất, đó là lời tung hô Thánh, Thánh, Thánh. Sự thánh thiện Thiên Chúa được trào đổ trên Giáo Hội của Người và mọi linh hồn sống trong đó, nhưng không phải cùng một mức độ như nhau. Có những linh hồn hoàn toàn được Thiên Chúa thấu nhập, và cũng có những linh hồn gần như chỉ thoi thóp.

 

            Tri thức thứ hai Chúa ban cho tôi liên quan đến đức công bình của Người. Đức công bình của Chúa thật vĩ đại và thấu tận cốt lõi các vật, mọi vật hiện ra trước thánh nhan Chúa trong sự thật trần trụi và không gì có thể chống lại Người.

 

            Ưu phẩm thứ ba là tình yêu và Lòng Thương Xót. Tôi hiểu rằng tình yêu và Lòng Thương Xót là ưu phẩm cao trọng nhất. Ưu phẩm này liên kết các thụ tạo với Đấng Tạo Hoá. Tình yêu hải hà và lòng xót thương thẳm sâu đã được biểu hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể và công trình Cứu Độ [nhân loại], và chính ở đây, tôi đã nhìn ra lòng xót thương là ưu phẩm lớn lao nhất trong mọi ưu phẩm của Thiên Chúa.

 

181      Hôm nay, tôi lau phòng cùng với một chị khác. Mặc dù tôi cố gắng hết sức cẩn thận, nhưng chị ấy lúc nào cũng bám theo léo nhéo: “Chị còn để sót mẩu bụi chỗ này, mảng đất chỗ kia”. Mỗi lần chị kêu rêu, tôi đành phải lau đi lau lại một chỗ đến cả chục lần (91) cho vừa ý chị. Không phải công việc, nhưng là kiểu nói và những eo xèo quá đáng của chị đã làm cho tôi mệt nhoài. Hôm ấy, tôi chịu tử đạo suốt ngày với chị ấy mà vẫn chưa đủ, thành ra chị đã đến gặp Mẹ Bề Trên và phàn nàn: “Mẹ ơi, cái chị bất cẩn này là ai mà không biết làm việc nhanh nhẹn gì cả?”. Ngày hôm sau, tôi cũng làm việc ấy, nhưng cố gắng không chữa mình. Khi chị ấy bắt đầu dồn đuổi tôi, tôi nghĩ: “Lạy Chúa Giêsu, người ta có thể trở thành một vị tử đạo âm thầm; không phải công việc làm cho mệt, nhưng là hình thức tử đạo này đây”.

 

182      Tôi biết một số người có năng khiếu đặc biệt làm khổ người khác. Họ thử thách bạn hết sức có thể. Linh hồn đáng thương nào sa vào tay họ chẳng thể gì cho vừa ý họ; dù cố gắng hết mình nhưng vẫn bị họ chỉ trích thậm tệ.

 

+ Vọng Giáng Sinh

 

            Hôm nay, tôi được kết hợp mật thiết với Mẹ Thiên Chúa. Tôi sống lại những tâm tình của Mẹ. Vào buổi tối, trước nghi thức bẻ bánh, tôi vào nhà nguyện để bẻ bánh trong tâm trí với những người thân yêu, và tôi xin Mẹ Thiên Chúa ban nhiều ơn lành cho họ. Thần trí tôi đắm chìm trong Chúa. Trong thánh lễ Nửa Đêm [“Pasterka” hoặc lễ Mục Đồng], tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng trong Bánh Thánh, và linh hồn tôi chìm đắm trong Người. Dù là một Hài Nhi thơ ấu, nhưng vẻ oai nghi của Chúa xuyên thấu linh hồn tôi. Tôi được thấm nhuần tận những chiều sâu hữu thể nhờ mầu nhiệm này, đó là sự tự hạ tuyệt vời, sự huỷ mình không sao tưởng tượng được của Thiên Chúa. Những tâm tình này toả đọng sống động trong linh hồn tôi suốt mùa lễ mừng. Ôi, chúng ta không bao giờ hiểu thấu sự tự hạ tột cùng này của Thiên Chúa; càng nghĩ về điều ấy, [tư tưởng để ngỏ].

 

183      Một sáng kia, sau khi hiệp lễ, tôi được nghe lời này: Cha ước mong con cùng đi với Cha đến thăm các bệnh nhân. Tôi thưa lại rất sẵn sàng, nhưng sau một lúc suy nghĩ, tôi bắt đầu thắc mắc không biết mình làm điều ấy như thế nào; các trợ sĩ [15] không được cùng đi với Thánh Thể. Luôn luôn phải là các chị giáo. (92) Tôi thầm nghĩ: Chúa Giêsu thế nào cũng tìm ra một cách. Ngay sau đó, Mẹ Raphael nhắn tôi đến và nói: “Này chị, chị sẽ đi theo Chúa Giêsu khi linh mục đi viếng các bệnh nhân”. Trong suốt thời kỳ thử, tôi được cầm đèn đi bên cạnh Chúa và, như một hiệp sĩ của Chúa Giêsu, tôi luôn cố gắng thắt lưng bằng một chiếc đai sắt, [16] bởi vì đồng hành cùng Đức Vua mà mặc y phục thường ngày thật là bất xứng. Và tôi dâng việc khổ chế ấy cầu cho các bệnh nhân.

 

184      + Giờ thánh. Trong giờ này, tôi cố gắng suy gẫm về cuộc Thương Khó Chúa. Nhưng linh hồn tôi tràn ngập niềm vui, và bỗng nhiên, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng. Vẻ oai nghi của Người xuyên thấu đến độ tôi phải thưa lên: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa còn quá nhỏ bé, nhưng con biết Chúa là Đấng Tạo Hoá và là Thiên Chúa của con”. Chúa Giêsu đáp lại: Cha đúng là như vậy, và Cha vẫn đồng hành bên con như một con trẻ cốt để dạy con bài học khiêm nhượng và đơn sơ.

 

            Tôi góp nhặt tất cả những đau khổ và khó khăn của mình kết thành một bó hoa để dâng lên Chúa Giêsu trong ngày đính ước vĩnh viễn của chúng tôi. Không còn gì là khó khăn đối với tôi nữa khi nhớ rằng đó sẽ là bằng chứng tình yêu để tôi dâng cho Đấng Kết Ước với tôi.

 

185      + Im lặng vì Chúa Giêsu. Tôi cố gắng giữ thinh lặng vì Chúa Giêsu. Giữa sự ồn ào huyên náo, Chúa Giêsu bao giờ cũng tìm được chỗ tĩnh lặng trong tâm hồn tôi, mặc dù điều đó đòi tôi phải trả giá đắt. Nhưng có gì là quá đáng đối với Chúa Giêsu, Đấng mà tôi yêu mến với tất cả mãnh lực của trái tim mình?

 

186      + Hôm nay Chúa Giêsu phán với tôi: Cha ước mong con hãy hiểu biết sâu xa hơn nữa về lòng yêu thương các linh hồn đang nung nấu trong Trái Tim Cha, và con sẽ hiểu được điều đó khi suy ngắm về cuộc Khổ Nạn của Cha. Con hãy nhân danh các tội nhân mà kêu nài Lòng Thương Xót của Cha; Cha ước mong cho họ (93) được cứu rỗi. Khi con nhân danh một tội nhân nào đó đọc lời kinh này trong tâm tình thống hối và tin tưởng, Cha sẽ ban cho họ ơn hoán cải. Lời kinh ấy như thế này:

 

187      “Kính lạy Máu và Nước đã trào tuôn từ Trái Tim Chúa Giêsu như nguồn mạch thương xót chúng con, con tín thác nơi Chúa”.

 

188      Trong những ngày cuối của lễ hội, khi đang làm giờ thánh, tôi đã nhìn thấy Chúa Giêsu quá tang thương lúc chịu đánh đòn. Ôi thật là một cực hình không sao tưởng tượng nổi! Chúa Giêsu đã chịu đau đớn khủng khiếp biết bao lúc bị đánh đòn! Hỡi các tội nhân khốn cùng, trong ngày phán xét, các người sẽ đối diện như thế nào đây với Chúa Giêsu, Đấng mà các người hiện đang hành hạ tàn nhẫn? Máu Chúa trào chảy xuống đất, và một vài chỗ thịt của Người cũng bắt đầu rơi tơi tả. Tôi nhìn thấy một vài chỗ xương trần trên lưng Chúa. Chúa Giêsu hiền lành khe khẽ rên rỉ và thở dài.

 

189      Vào một dịp kia, Chúa Giêsu cho tôi biết một linh hồn trung thành giữ luật dòng rất làm đẹp lòng Người. Linh hồn sẽ được nhận một phần thưởng lớn lao nhờ việc giữ luật hơn là nhờ các việc sám hối và khổ chế khắc nghiệt nhất. Các việc sau này chỉ được thưởng nếu được thực hiện dựa theo luật dòng, nhưng sẽ không vượt qua luật dòng được.

 

190      Một lần kia, trong giờ chầu, Chúa yêu cầu tôi hãy hiến thân cho Người như một của lễ bằng cách chịu đựng đau khổ để đền bồi tội lỗi của thế giới nói chung, mà còn vì những xúc phạm cụ thể trong nhà này. Tôi liền thưa: “Vâng được; con xin sẵn sàng”. Bấy giờ Chúa Giêsu cho tôi nhìn thấy những gì tôi sắp sửa chịu, và trong một giây phút, tất cả sự đau khổ hiện lên trước mắt tôi. Lúc đầu, những ý hướng của tôi không được người ta chấp nhận; rồi sẽ có đủ thứ nghi nan, ngờ vực, xỉ nhục và chống đối. Tôi không sao kể hết ra được. (94) Mọi thứ này lù lù trước mắt tôi như một cơn giông đen ngòm, sấm chớp sẵn sàng giáng xuống bất cứ lúc nào, chỉ còn chờ sự đồng thuận của tôi. Bản tính tự nhiên của tôi run giùng khiếp hãi một lúc. Thế rồi, chuông báo bữa tối vang lên. Tôi rời nhà nguyện vẫn còn lẩy bẩy và thiếu dứt khoát. Nhưng hy sinh ấy vẫn luôn ở trước mắt tôi, vì tôi chưa quyết định đón nhận mà cũng chưa từ chối với Chúa. Tôi muốn đặt mình hoàn toàn trong thánh ý Chúa. Nếu Chúa Giêsu đích thân trao hy sinh ấy cho tôi, tôi sẵn sàng đón nhận. Nhưng Chúa Giêsu cho tôi biết chính tôi phải đồng ý một cách tự do và chấp nhận một cách ý thức, còn không, hy sinh ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Toàn bộ hiệu năng của hy sinh ấy được gồm chứa trong hành vi tự do của tôi trước mặt Chúa. Nhưng đồng thời, Chúa Giêsu cũng cho tôi hiểu sự quyết định hoàn toàn trong năng lực của tôi. Tôi có thể chấp nhận hay không chấp nhận hy sinh ấy. Bấy giờ, tôi liền thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận mọi sự Chúa muốn gởi đến cho con; con tín thác vào lòng nhân lành của Chúa”. Lúc đó, tôi cảm thấy mình đã tôn vinh Thiên Chúa rất nhiều nhờ hành vi này. Nhưng tôi cũng trang bị cho mình lòng nhẫn nại. Ngay khi vừa rời nhà nguyện, tôi đã phải đối đầu với thực tế. Tôi không muốn kể lể chi tiết ra đây, nhưng tôi phải gồng hết sức để chịu đựng. Giả như chỉ thêm một giọt nữa mà thôi có lẽ tôi đã không sao chịu đựng nổi.

 

191      + Một buổi sáng, tôi được nghe những lời này trong linh hồn: Con hãy đến với Mẹ Tổng Quyền [Michael] và cho Mẹ biết rằng điều này làm mất lòng Cha trong nhà đó nhà đó. Tôi không thể đề cập đến điều ấy hoặc tu viện ấy, nhưng tôi đã cho Mẹ Tổng Quyền biết, mặc dù điều ấy đòi tôi trả giá rất nhiều.

 

192      Một lần kia, tôi gánh chịu thay một cơn cám dỗ kinh hồn mà một học sinh của chúng tôi tại nhà Warsaw đang phải chịu đựng. Đó là cơn cám dỗ muốn tự vẫn. Tôi đã chịu đau khổ suốt bảy ngày; và sau bảy ngày ấy, Chúa Giêsu đã ban cho thiếu nữ ấy ơn thánh cần thiết, và đau khổ của tôi cũng chấm dứt. Đó thật là một đau khổ kinh hoàng. Tôi thường gánh chịu những cực hình của học sinh chúng tôi. Chúa Giêsu và cả cha giải tội cũng ban phép cho tôi làm điều ấy.

 

193      (95) Trái tim tôi là một nơi thường trú cho Chúa Giêsu. Không ai ngoài Chúa Giêsu có thể đến đó. Chính nhờ Chúa Giêsu mà tôi tìm được sức mạnh để đương đầu với những khó khăn và chống đối. Tôi muốn được biến đổi trong Chúa Giêsu để có thể hiến thân hoàn toàn cho các linh hồn. Không có Chúa Giêsu, tôi sẽ không thể đến gần các linh hồn, bởi vì tôi quá biết bản thân mình là gì. Tôi hấp thụ Thiên Chúa vào mình để ban phát Người cho các linh hồn.

 

Về đầu trang

194                              + Ngày 27 tháng 3.

 

            Tôi khát mong được chiến đấu, được chịu gian khổ và huỷ mình cho công cuộc cứu rỗi các linh hồn. Và dù những cố gắng này có làm tôi giảm thọ cũng chẳng hề gì; đời sống tôi không còn thuộc về tôi nữa, nhưng thuộc về Cộng Đoàn. Tôi muốn trở nên hữu ích cho toàn thể Giáo Hội bằng việc trung thành với Cộng Đoàn của tôi.

 

195      Ôi Chúa Giêsu, hôm nay linh hồn con vì đau khổ mà ra như tăm tối, không có lấy một tia sáng. Giông tố đang gầm thét mà Chúa Giêsu vẫn ngủ say. Ôi Tôn Sư của con, con sẽ không đánh thức Chúa; con sẽ không làm gián đoạn giấc ngủ an lành của Chúa đâu. Con tin Chúa ban sức mạnh cho con mà con không biết.

 

            Ôi Bánh Hằng Sống! con thờ lạy Chúa giữa cơn khô hạn tàn khốc của linh hồn con trong suốt những giờ lâu dài. Ôi Chúa Giêsu, Tình Yêu thuần khiết! Con không cần những an ủi ; con được bổ dưỡng nhờ thánh ý Chúa. Ôi Đấng Toàn Năng! Thánh ý Chúa là cùng đích hiện hữu của con. Dường như cả thế giới này đều phục vụ và tuỳ thuộc vào con. Lạy Chúa, Chúa hiểu linh hồn con và tất cả những khát vọng của con.

 

            Lạy Chúa Giêsu, khi không thể hát cho Chúa nghe khúc ca yêu đương, con sẽ nhìn ngắm các vị luyến thần ca hát, những đấng được Chúa đặc biệt sủng ái. Con ước ao cùng được đắm đuối trong Chúa như các ngài. Không gì ngăn trở được tình yêu như thế, bởi vì không sức mạnh nào khuất phục được nó. Tình yêu như ánh chớp chiếu soi bóng tối, (96) nhưng không ở trong bóng tối. Ôi Tôn Sư của con, xin uốn nắn linh hồn con theo thánh ý Chúa và những chương trình đời đời của Chúa!

 

196      Một chị kia dường như coi việc dùng mọi cách để thử thách nhân đức của tôi là nhiệm vụ của chị ấy. Một ngày kia, chị ấy chặn tôi tại hành lang và gây sự, bảo rằng chị không có cớ gì để quở trách, nhưng truyền cho tôi phải đứng nửa tiếng, đối diện với nhà nguyện nhỏ, [17] chờ Mẹ Bề Trên sẽ đi qua sau giờ giải trí, [18] rồi trình với Mẹ một số lỗi mà chị bắt tôi phải nói. Mặc dù không thấy chút gì những điều này nơi linh hồn, nhưng tôi vẫn vâng lời đứng chờ Mẹ Bề Trên đúng nửa tiếng đồng hồ. Mỗi chị em đi ngang qua đều nhìn tôi mỉm cười. Khi tôi cáo lỗi với Mẹ Bề Trên [Raphael], Mẹ bảo tôi vào toà xưng tội. Khi tôi cáo mình, vị linh mục lập tức thấy có điều gì không phát xuất từ linh hồn tôi và tôi cũng chẳng biết gì về những điều ấy. Ngài rất đỗi ngạc nhiên vì chị kia đã lộng quyền ban ra những mệnh lệnh như thế.

 

197      Ôi Giáo Hội của Chúa, Từ Mẫu tuyệt vời, chỉ mình Mẹ mới có thể nuôi dưỡng và làm cho một linh hồn lớn lên. Ôi, vĩ đại thay khối tình yêu và lòng trọng kính của tôi dành cho Giáo Hội, người mẹ tốt nhất trong mọi người mẹ!

 

198      Vào một dịp kia, Chúa phán với tôi: Ái nữ của Cha ơi, lòng tin và tình yêu của con đã kềm chế phép công thẳng của Cha, Cha không thể giáng phạt bởi vì con ngăn cản Cha. Ôi, lớn lao thay thế lực của một linh hồn đầy lòng tin tưởng!

 

199      Khi nghĩ đến hồng ân vĩnh thệ và Đấng muốn kết ước cùng tôi, tôi đã chìm đắm suốt nhiều giờ trong tư tưởng về Người.

 

            Làm sao có thể như thế: Chúa là Thiên Chúa, còn con - chỉ là thụ tạo của Chúa. Chúa, Vua Bất Tử; còn con, một kẻ hành khất đớn hèn! Nhưng giờ đây tất cả đều đã rõ ràng đối với con; (97) lạy Chúa, lạy Chúa Giêsu, ân sủng và tình yêu Chúa sẽ lấp đầy vực thẳm ngăn cách giữa Chúa và con.

 

200      Lạy Chúa Giêsu, đau đớn cho linh hồn biết bao khi lúc nào cũng cố gắng sống thành thực hết mình mà lại bị vu cáo là giả hình và bị đối xử trong ngờ vực. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cũng đã chịu cảnh như vậy để làm thoả lòng Chúa Cha.

 

201      Con muốn ẩn mình đi để không còn thụ tạo nào có thể biết được trái tim con nữa. Lạy Chúa Giêsu, một mình Chúa biết và sở hữu trái tim của con, tất cả toàn vẹn. Không ai biết được bí mật giữa chúng ta. Chúng ta hiểu nhau, chỉ cần một ánh mắt. Từ giây phút chúng ta quen thân, con vẫn luôn được hạnh phúc. Cái cao sang của Chúa là sự sung mãn của con. Lạy Chúa Giêsu, khi được ở nơi rốt bét, dưới hết các em thỉnh sinh, kể cả em trẻ nhất, con cảm thấy đó là chỗ xứng hợp với con. Trước kia, con không biết Chúa đã đặt quá nhiều hạnh phúc ở những góc xó chật hẹp u ám này. Giờ đây, con hiểu ra ngay trong ngục tù vẫn có thể vươn lên một con tim tinh tấn dạt dào tình yêu cho Chúa. Ôi lạy Chúa! Những vật bên ngoài không có nghĩa gì đối với một tình yêu tinh ròng; nó khước từ tất cả. Không cổng ngục tù nào, không cửa thiên đàng nào đủ kiên cố để ngăn cản được nó. Tình yêu đến được với Thiên Chúa và không gì có thể dập tắt. Tình yêu không biết đến vật cản; tự do như một nữ hoàng có quyền chu du mọi nơi. Cái chết cũng phải phục đầu trước tình yêu...

 

202      Em gái [Wanda [19]] tôi hôm nay đến thăm. Khi em cho tôi biết về những kế hoạch của em, tôi giật mình thất kinh. Làm sao lại có thể có một chuyện như thế? Một linh hồn nhỏ bé xinh xắn đến thế trước mặt Thiên Chúa, vậy mà bóng đen hãi hùng đã choàng lấy em và em không biết làm gì để tự cứu mình. Em có một cái nhìn tăm tối về tất cả mọi sự. Chúa nhân lành đã uỷ thác em cho tôi chăm sóc, và trong hai tuần lễ, tôi đã có thể làm việc với em. Chỉ mình Chúa biết linh hồn này đòi tôi phải trả bao nhiêu hy sinh. Không linh hồn nào đã được tôi dành nhiều hy sinh, đau khổ và kinh nguyện như tôi đã dành cho linh hồn em trước toà Thiên Chúa. (98) Tôi cảm thấy phải nài ép Thiên Chúa ban ơn cho em. Khi suy tư về tất cả điều này, tôi thấy thực sự đó là một phép lạ. Giờ đây, tôi có thể thấy lời cầu nguyện chuyển cầu mạnh mẽ chừng nào trước uy nhan Thiên Chúa.

 

203      Hiện giờ, trong mùa Chay này, tôi thường cảm nghiệm cuộc Khổ Nạn Chúa Giêsu trong thân xác tôi. Tôi kinh nghiệm sâu xa trong tâm hồn tất cả những gì Chúa Giêsu đã gánh chịu, mặc dù không có dấu bên ngoài tỏ ra những đau khổ ấy. Chỉ mình cha giải tội của tôi biết được mà thôi.

 

204                  Một lần trao đổi ngắn ngủi với Mẹ Bề Trên [Margaret].

 

            Khi tôi xin phép làm một vài việc liên quan đến sự thăng tiến trong đời sống thiêng liêng. Vị Bề Trên thánh đức này đã trả lời mọi sự rất sáng tỏ. Mẹ nói với tôi: “Này chị, nếu chị tiếp tục cộng tác với ơn Chúa như thế này, chị chỉ còn một bước nữa là đạt đến chỗ kết hợp mật thiết với Người. Chị hiểu ý tôi muốn nói ở đây. Điều này có nghĩa là đặc điểm riêng của chị chính là sự trung thành với ơn Chúa. Thiên Chúa không dẫn dắt mọi linh hồn đi trên cùng một lối”.

 

205      + Lễ Phục Sinh. Hôm nay, trong thánh lễ Phục Sinh, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu giữa một vầng sáng rạng ngời. Người đến bên tôi và phán: Bình an cho các con, hỡi các con của Cha, rồi giơ tay ban phúc lành.

 

            Những thương tích ở tay, chân, và cạnh sườn Người không biến mất, nhưng rực sáng. Khi Chúa nhìn tôi cách nhân lành âu yếm, trót cả linh hồn tôi được ngây ngất trong Người. Và Chúa phán với tôi: Con đã chia sẻ rất nhiều vào cuộc Khổ Nạn của Cha; vì vậy giờ đây, Cha ban cho con được thông phần thật nhiều vào niềm vui và vinh quang của Cha. Cả thánh lễ Phục Sinh đối với tôi dường như chỉ dài có một phút. Một hồi ức diệu kỳ ngập lúc linh hồn tôi và phảng phất suốt cả mùa lễ. Lòng nhân lành của Chúa Giêsu thật lớn lao đến độ tôi không sao tả được.

 

206      (99) Ngày hôm sau, sau giờ hiệp lễ, tôi nghe có tiếng nói: Ái nữ của Cha ơi, con hãy nhìn vào vực thẳm thương xót của Cha và dâng lời ca ngợi tôn vinh tình thương Cha. Con hãy thực hiện điều ấy như thế này: Con hãy quy tụ tất cả tội nhân khắp thế giới rồi nhận chìm họ trong vực thẳm thương xót của Cha. Ái nữ của Cha ơi, Cha muốn hiến thân cho các linh hồn; Cha khát khao các linh hồn. Vào ngày đại lễ của Cha, ngày lễ kính Lòng Thương Xót Cha, con hãy rảo khắp thế giới và đem các linh hồn đang lả mệt về với suối nguồn thương xót của Cha. Cha sẽ chữa lành và bổ sức cho họ.

 

207      Hôm nay tôi cầu nguyện cho một linh hồn thống khổ, bà ấy đang hấp hối mà không được chịu các bí tích, mặc dù hết lòng ước ao. Nhưng đã quá muộn. Bà ấy là người thân thích với tôi, vợ của bác tôi. Bà là một linh hồn đẹp lòng Chúa. Không có một quãng cách nào giữa chúng tôi trong giờ phút ấy.

 

208      Ôi những hy sinh bé nhỏ hằng ngày, các bạn đối với tôi giống như những bông hoa dại được gieo rắc dưới chân Chúa Giêsu yêu dấu của tôi. Đôi khi tôi so sánh những chiến đấu nhỏ bé này với những nhân đức anh hùng, chỉ vì bản chất dai dẳng của chúng đòi phải có sự anh hùng.

 

209      Trong những đau khổ bản thân, tôi không kiếm tìm sự trợ giúp từ các thụ tạo, vì Thiên Chúa là mọi sự cho tôi. Tuy nhiên, nhiều lần dường như Thiên Chúa cũng không nghe tiếng tôi. Tôi tự trang bị cho mình bằng đức nhẫn nại và thinh lặng, như một bồ câu mẹ không thở than hay cay đắng khi bầy con bị đem đi khỏi. Tôi muốn bay vút vào giữa nguồn nóng của thái dương, chứ không muốn dừng lại giữa những luồng hơi của nó. Tôi sẽ không mỏi mệt, vì Chúa là nơi tôi nương tựa - lạy Chúa, nguồn Sức Mạnh của con!

 

210      Tôi tha thiết van nài Chúa củng cố đức tin của tôi để trong cuộc sống buồn tẻ hằng ngày, tôi sẽ không bị những cảm tình hướng dẫn, nhưng là thần trí. Ôi, vạn vật kéo ghì con người xuống cõi đất! Nhưng đức tin sống động giữ cho linh hồn vươn lên những tầm cao và đặt tính tự ái vào đúng chỗ của nó; tức là chỗ rốt bét.

 

211      (100) + Một lần nữa, bóng tối kinh hoàng lại bủa vây linh hồn tôi. Dường như tôi đang làm mồi cho các ảo tưởng. Khi vào toà cáo giải để tìm ánh sáng và bình an, tôi không tìm được điều gì ở đó cả. Cha giải tội [20] còn làm tôi bối rối hơn trước. Ngài nói với tôi: “Tôi không thể phân biệt được quyền lực nào đang hoạt động nơi chị, chị à; có thể là Thiên Chúa, mà cũng có thể là quỷ dữ”. Khi rời toà cáo giải, tôi bắt đầu suy nghĩ những lời của ngài. Càng nghĩ, linh hồn tôi càng chìm ngập trong bóng tối. “Lạy Chúa Giêsu, con phải làm gì đây?” Khi Chúa Giêsu đến gần bên tôi một cách nhân lành, tôi cũng hoảng sợ, “Có phải thực sự là Chúa Giêsu hay không?” Một đàng tôi được tình yêu hấp dẫn, một đàng tôi bị nỗi sợ giằng kéo. Khổ cực biết bao! Không sao tả nổi.

 

212      Khi vào toà cáo giải lần sau, tôi được cha trả lời: “Này chị, tôi không hiểu chị. Tốt hơn chị đừng đến với tôi để cáo mình nữa”.

 

            Lạy Chúa con!... Con đã phải ép mình biết bao để trình bày đời sống thiêng liêng của con, thế mà ở đây con lại nhận được câu trả lời: “Này chị, tôi không hiểu chị!”.

 

213      Khi tôi rời toà cáo giải, vô số cực hình đè nặng trên tôi. Tôi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể và thân thưa: “Lạy Chúa Giêsu, xin cứu con; Chúa nhìn thấy con yếu đuối biết bao!”. Lúc ấy, tôi được nghe những lời này: Cha sẽ ban cho con sự trợ giúp trong tuần tĩnh tâm trước khi vĩnh thệ. Được phấn khích nhờ những lời ấy, tôi tiếp tục dấn bước mà không đi tìm lời khuyên của ai nữa. Nhưng tôi bất tín vào mình nên quyết tâm chấm dứt mọi nghi nan, lập tức và vĩnh viễn. Vì vậy, tôi háo hức chờ đợi cuộc tĩnh tâm trước ngày vĩnh thệ. Nhưng trong nhiều ngày trước đó, tôi nài xin Chúa ban ánh sáng cho cha giải tội để ngài có thể xác quyết dứt khoát - hoặc phải hoặc không phải. Và tôi thầm ước: “Mình sẽ được bình an một lần mãi mãi”. Nhưng tôi vẫn còn lo âu không biết vị nào sẽ vui lòng lắng nghe tất cả những vấn đề này. Và một lần nữa, tôi quyết định không nghĩ ngợi thêm nữa và đặt trót tín thác vào Chúa. Nhưng những lời Chúa hứa cứ vang vọng bên tai tôi: “Tuần tĩnh tâm trước vĩnh thệ”.

 

214      (101) Giờ đây, mọi sự đã sẵn sàng. Sáng mai, chúng tôi sẽ đi Cracow để dự tuần tĩnh tâm. Hôm nay, tôi vào nhà nguyện để cám tạ Chúa vì muôn vàn hồng ân Người đã thương ban cho tôi trong những năm tháng qua. Tâm hồn tôi hết sức xúc động khi hồi tưởng quá nhiều hồng ân và sự chăm sóc của các bề trên.

 

215      Ái nữ của Cha ơi, con hãy an tâm; Cha đang đảm nhận tất cả vấn đề này. Cha sẽ sắp đặt mọi sự với các bề trên và cha giải tội của con. Con hãy đơn sơ tin tưởng tỏ bày với cha Andrasz giống như thưa chuyện với chính Cha vậy.

 

216      Hôm nay, chúng tôi đã đến Cracow [ngày 18 tháng 4 năm 1933]. Thật sướng vui khi thấy mình lại được trở về với những bước tập tễnh trong đời sống thiêng liêng! Mẹ Giám Tập yêu dấu [Mary Joseph] vẫn như ngày nào, vồn vã và hồn hậu yêu thương với người chung quanh. Tôi ghé vào nhà nguyện một lúc, và niềm vui chan chứa linh hồn. Trong một thoáng, tôi nhớ lại tất cả đại dương ân sủng đã trào đổ xuống trên tôi khi còn là một tập sinh tại đây.

 

217      Hôm nay, chúng tôi họp lại để cùng đi thăm tập viện một tiếng. Mẹ Giám Tập Mary Joseph nhắn nhủ đôi lời ngắn ngủi, phác hoạ cho chúng tôi về chương trình tĩnh tâm. Trong lúc Mẹ nói những lời này với chúng tôi, tôi thấy hiện lên trước mắt tất cả những điều tốt đẹp mà vị bề trên tốt lành này trước kia đã từng làm cho chúng tôi. Tôi cảm nghiệm trong tâm hồn một niềm tri ân sâu xa đối với Mẹ. Lòng tôi quặn thắt khi nghĩ rằng có lẽ đây là lần cuối cùng tôi được sống trong tập viện. Giờ đây, tôi phải cùng với Chúa Giêsu chiến đấu, cùng với Chúa Giêsu làm việc, và cùng với Chúa Giêsu chịu đau khổ; tóm lại là cùng sống và cùng chết với Chúa Giêsu. Mẹ Giám Tập không còn ở bên tôi để dạy dỗ điều này, lưu ý điều kia, khuyên bảo, khuyến khích hoặc quở phạt nữa. Tôi sợ phải sống tự lập. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy lo liệu điều này cho con. Lúc nào con cũng có một vị bề trên, đúng vậy thật; nhưng giờ đây là một người đã phải tự lập nhiều hơn.

 

             (102)   Cracow, ngày 21 tháng 4 năm 1933

 

+ Để Vinh Danh Chúa Hơn

 

Về đầu trang

 

Tĩnh Tâm Tám Ngày Trước Vĩnh Thệ

 

218      Hôm nay, con khai mạc tuần tĩnh tâm. Lạy Chúa Giêsu, Tôn Sư của con, xin Chúa hướng dẫn con. Xin điều khiển con theo thánh ý Chúa, thanh luyện tình yêu con cho xứng đáng với Chúa, xin hãy dùng con như Trái Tim vô cùng lân ái của Chúa ước muốn. Ôi Chúa Giêsu, sẽ chỉ có hai chúng ta trong những ngày này cho đến giờ phút chúng ta hoàn toàn được nên một. Lạy Chúa Giêsu, xin giữ con trong tinh thần tĩnh tâm!

 

219      Vào buổi tối, Chúa phán với tôi: Ái nữ của Cha ơi, đừng để gì làm con sợ hãi hay thất đảm. Con hãy sống trong bình an sâu thẳm. Mọi sự đều trong tay Cha. Cha sẽ cho con hiểu được tất cả qua cha Andrasz. Con hãy trở nên một con trẻ đối với ngài.

 

Giây Phút Trước Thánh Thể

 

220      Ôi Thiên Chúa hằng hữu, Đấng Tạo Hoá của con, con biết làm thế nào để cám tạ Chúa về hồng ân trọng đại này; đó là Chúa đã đoái thương tuyển chọn một kẻ khốn nạn là con đây là bạn kết ước của Chúa và Chúa lại liên kết con với Chúa trong mối ràng buộc vĩnh viễn? Ôi Kho Tàng quý trọng nhất của lòng con, con dâng lên Chúa tất cả sự tôn thờ và tạ ơn của các thánh cùng tất cả ca đoàn các thiên thần, và con xin hợp với Mẹ Thánh Chúa một cách đặc biệt. Ôi Mẹ Maria, Hiền Mẫu của con, con khẩn nài Mẹ hãy phủ bọc linh hồn con dưới áo choàng khiết trinh của Mẹ trong giờ phút rất quan trọng này của đời con, để nhờ đó con được trở nên đáng yêu hơn với Con Mẹ và xứng đáng ngợi ca Lòng Thương Xót của Người trước toàn thế giới và mãi mãi cho đến muôn đời.

 

221      (103) Tôi không thể hiểu được bài nguyện gẫm hôm nay. Linh hồn tôi được ngập lút trong Thiên Chúa một cách ngoại thường. Tôi không thể ép mình để suy nghĩ theo những gì vị linh mục quảng diễn trong [những bài giảng] tuần tĩnh tâm. Thường thường, tôi không thể suy tư theo các chủ điểm này; thần trí tôi ở với Chúa, và đó là bài gẫm của tôi.

 

222      Vài điều trong cuộc bàn hỏi với Mẹ Giám Tập Mary Joseph. Mẹ đã làm sáng tỏ nhiều điểm, gúp tôi được an tâm về đời sống thiêng liêng của tôi, và bảo đảm rằng tôi đang đi đúng đường. Tôi cám tạ Chúa Giêsu về ơn trọng này vì Mẹ là người đầu tiên trong các bề trên không gây cho tôi sự nghi ngờ nào về vấn đề này. Ôi, Thiên Chúa tốt lành dường bao!

 

223      Ôi Bánh Thánh hằng sống, sức mạnh độc nhất của con, nguồn suối tình ái và thương xót, xin ấp ủ toàn thế giới và tăng sức cho các linh hồn rã rời. Ôi, hạnh phúc thay khoảnh khắc và giây phút khi Chúa Giêsu lưu lại cho chúng ta Trái Tim vô cùng từ ái của Người!

 

224      Đau khổ mà không thở than, đem an ủi đến cho tha nhân, và nhận chìm những đau khổ bản thân vào Thánh Tâm Cực Trọng Chúa Giêsu!

 

            Tôi sẽ sống trọn những giây phút rảnh rỗi của mình dưới chân [Chúa Giêsu] Thánh Thể. Dưới chân Chúa Giêsu, tôi sẽ tìm được ánh sáng, an ủi, và sức mạnh. Tôi sẽ không ngừng biểu lộ cho Chúa niềm tri ân vì Lòng Thương Xót Người dành cho tôi, và không bao giờ quên được những ân huệ Người đã đổ xuống trên tôi, nhất là ơn thiên triệu.

 

            Tôi sẽ ẩn mình giữa các chị em như một bông hoa đổng thảo bé bỏng giữa những đoá huệ. Tôi muốn tươi nở cho Thiên Chúa, Đấng Hoá Công của tôi, để quên mình và huỷ mình hoàn toàn vì các linh hồn bất tử - đó là niềm vui của tôi.

 

            (104)    + Vài Suy Tư Cá Nhân

 

225      Về bí tích Hoà Giải, tôi sẽ chọn điều nào bắt mình phải trả giá và chịu xỉ nhục nhiều nhất. Đôi khi một điều vụn vặt lại phải trả giá nhiều hơn một điều lớn lao. Mỗi lần xưng tội, tôi sẽ nhớ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu để gợi lên tâm tình ái hối trong lòng. Vì nhờ ơn Chúa, mọi sự đều có thể, nên tôi sẽ luôn thực hành ái hối. Trước khi vào toà cáo giải, trước tiên tôi sẽ đi vào Trái Tim rộng mở và vô cùng lân tuất của Chúa Cứu Thế. Khi rời toà cáo giải, tôi sẽ khơi lên trong lòng niềm tri ân lớn lao đối với Thiên Chúa Ba Ngôi vì phép lạ diệu kỳ khôn sánh đã thực hiện trong linh hồn tôi. Linh hồn tôi càng khốn nạn, tôi càng cảm nghiệm được đại dương thương xót của Thiên Chúa trào đổ cho tôi, ban cho tôi sức mạnh cùng năng lực lớn lao.

 

226      Những luật tôi thường thiếu sót: thỉnh thoảng còn lỗi luật giữ lặng; không vâng theo hiệu chuông; đôi khi còn pha mình vào việc của người khác. Tôi sẽ làm hết sức để sửa mình.

 

            Tôi sẽ tránh lánh các chị em hay càu nhàu, nếu không tránh được, ít là tôi sẽ giữ im lặng, và qua đó cho họ biết tôi khổ tâm khi phải nghe những điều như vậy.

 

            Tôi không được lưu tâm đến dư luận, nhưng tuân theo lời chứng của lương tâm và tôn nhận Chúa là chứng nhân cho mọi hành động của mình. Tôi phải thực hiện mọi việc và hành xử trong mọi vấn đề hiện giờ như thể tôi muốn thực hiện và hành xử trong giờ lâm chung. Vì vậy, trong mọi hành động, tôi phải luôn nhớ đến Chúa.

 

            Tránh dùng phép đoán. [21] Tôi phải trình bày với các bề trên [ngay cả] những điều nhỏ nhặt nhất, và trình bày chi tiết hết sức có thể. Tôi phải trung thành với các việc đạo đức; không được dễ dàng xin chước chuẩn các việc ấy. Ngoài giờ giải trí, tôi phải giữ lặng, tránh các trò bông đùa, các lời giễu cợt làm người khác cười lớn, phá bầu không khí thinh lặng. Tôi phải coi trọng (105) cả những luật nhỏ nhặt nhất. Tôi không được để mình bị cuốn hút vào cơn lốc công việc, [nhưng] dừng lại một chút để hướng lên trời cao. Nói ít với con người, nhưng nói nhiều với Thiên Chúa. Tránh sự thân mật. Tôi đừng quá chú ý đến những ai ủng hộ và những ai chống đối. Tôi không được tỏ lộ cho người khác biết về những điều tôi đang phải chịu đựng. Tôi phải tránh nói lớn tiếng với người khác trong khi làm việc. Tôi phải giữ sự bình an và điềm tĩnh trong những lúc đau khổ. Trong những giờ phút nguy nan, tôi phải nương náu nơi các thương tích của Chúa Giêsu; tôi phải tìm sự an ủi, nâng đỡ, ánh sáng, và xác nhận nơi các thương tích của Chúa Giêsu.

 

227      + Giữa những thử thách, tôi sẽ cố gắng nhìn ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Không gì thường xuyên cho bằng đau khổ - lúc nào cũng trung thành đồng hành với linh hồn.

 

            Ôi Chúa Giêsu, con sẽ không để ai vượt qua con trong việc yêu mến Chúa đâu!

 

            + Lạy Chúa Giêsu ẩn thân trong bí tích Cực Thánh,

 

228      Chúa thấy rằng khi tuyên khấn trọn đời, hôm nay con sẽ rời khỏi khu tập viện này. [22] Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết con yếu đuối và bé mọn chừng nào, và kể từ hôm nay, con sẽ vào tập viện của Chúa một cách đặc biệt. Con vẫn là một tập sinh, nhưng là tập sinh của Chúa, lạy Chúa Giêsu, Chúa sẽ là Giám Tập của con cho đến ngày mãn đời. Mỗi ngày, con sẽ nghe những bài huấn đức dưới chân Chúa. Con sẽ không tự mình làm một điều nào dù nhỏ mọn nhất mà trước tiên không bàn hỏi với Chúa là Giám Tập của con. Lạy Chúa Giêsu, con sung sướng biết bao vì chính Chúa đã lôi kéo và đưa con vào tập viện; tức là vào nhà tạm của Chúa. Khi tuyên khấn trọn đời, không có nghĩa là con đã trở thành một nữ tu trọn lành. Không, không! Con vẫn là một tập sinh bé bỏng yếu đuối của Chúa Giêsu, và con phải cố gắng để đạt đến trọn lành như con đã làm từ những ngày đầu trong thời gian nhà tập, và con sẽ thực hiện mọi nỗ lực để giữ mãi tâm tình của con trong ngày đầu tiên khi cửa tu viện rộng mở đón nhận con.

 

            Với niềm tín thác và đơn sơ của một con trẻ, hôm nay con xin hiến mình cho Chúa, ôi Chúa Giêsu, Giám Tập của con. Con xin trao lại cho Chúa toàn quyền tự do trong việc hướng dẫn linh hồn con. Xin hướng dẫn con trên những nẻo đường Chúa muốn. Con sẽ không thắc mắc gì cả. Con sẽ bước theo Chúa với niềm tín thác. Trái Tim từ ái Chúa có thể làm được mọi sự!

 

            Tập sinh bé bỏng của Chúa Giêsu - Nữ tu Faustima.

 

229      (106) + Lúc khai mạc tuần tĩnh tâm, Chúa Giêsu phán với tôi: Trong tuần phòng này, chính Cha sẽ hướng dẫn linh hồn con. Cha muốn con kiên vững trong bình an và tình yêu. Và những ngày đầu đã trôi qua như vậy. Đến ngày thứ tư, những nghi nan đã bắt đầu làm tôi áy náy: Phải chăng sự bình an của tôi là giả tạo? Ngay lúc ấy, tôi đã nghe những lời này: Ái nữ của Cha ơi, con hãy tưởng tượng như con có toàn quyền trên toàn thế giới và có khả năng an bài mọi sự theo ý muốn tốt lành của con. Con có quyền thực hiện mọi điều con muốn, và bỗng nhiên có một con trẻ đến gõ cửa nhà con, run rẩy khóc lóc và tin tưởng van xin con một tấm bánh cho khỏi chết đói. Con sẽ làm gì cho đứa trẻ này? Ái nữ của Cha ơi, con hãy trả lời Cha đi. Và tôi thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con sẽ cho đứa trẻ tất cả những gì nó xin và cho cả ngàn lần nhiều hơn thế nữa”. Chúa liền phán với tôi: Đó là cách Cha đang đối xử với linh hồn con. Trong tuần tĩnh tâm này, Cha đang ban cho con không những sự bình an, mà còn một tâm trạng cho dù con muốn bối rối đi nữa con cũng không thể làm được. Tình yêu của Cha đã chiếm đoạt linh hồn con, và Cha muốn con được vững vàng. Con hãy ghé tai sát vào lòng Cha, hãy quên hết mọi sự khác và gẫm suy về Lòng Thương Xót lạ lùng của Cha. Tình yêu Cha sẽ ban cho con sức mạnh và sự can đảm con cần trong những vấn đề này.

 

230      Lạy Chúa Giêsu, Bánh Thánh Hằng Sống, Chúa là Mẹ của con, Chúa là tất cả của con! Chúa Giêsu ơi, con luôn đến cùng Chúa với lòng đơn thành, yêu mến, tin tưởng, và phó thác. Con sẽ thổ lộ mọi sự với Chúa như một đứa trẻ với người mẹ yêu của nó, những niềm vui và những nỗi buồn - tóm lại, là tất cả.

 

231      Không ai có thể hiểu thấu những gì tâm hồn tôi cảm nghiệm khi suy đến việc Chúa liên kết tôi với Người qua các lời khấn thánh. Thiên Chúa đã tỏ cho tôi thấy, và ngay cả lúc này, cái bao la của khối tình Người dành cho tôi từ trước khi thời gian khởi đầu; còn đối với tôi, tôi đã bắt đầu yêu mến Người trong thời gian. Tình yêu Chúa [lúc nào cũng] thật cao vời, tinh ròng và vô vị lợi; còn tình yêu tôi dành cho Chúa đã khởi đầu khi tôi nhận biết Người. Tôi càng nhận biết Người, tôi (107) yêu mến Người nồng nàn, mãnh liệt, và các hành vi của tôi cũng nên hoàn thiện hơn. Trong lúc đó, mỗi khi nhớ rằng chỉ vài ngày nữa tôi sẽ được nên một với Chúa qua lời vĩnh thệ, một niềm vui khôn tả tràn ngập linh hồn tôi. Ngay từ giây phút đầu tiên được biết Chúa, ánh nhìn của linh hồn tôi đã mất hút trong Người cho đến muôn đời. Mỗi lần Chúa đến bên tôi, tôi được hiểu biết Chúa nhiều hơn và một tình yêu hoàn thiện hơn lớn mạnh trong linh hồn tôi.

 

232      + Trước khi xưng tội, tôi được nghe những lời này trong linh hồn: Ái nữ của Cha ơi, con hãy trình cho ngài tất cả và giãi bày linh hồn con với ngài như với chính Cha. Đừng sợ hãi gì. Chính vì để con được bình an mà Cha đã đặt vị linh mục này giữa linh hồn con và Cha. Những lời ngài nói với con là những lời của chính Cha. Con hãy trình bày với ngài những bí nhiệm kín ẩn nhất của linh hồn con. Cha sẽ ban cho ngài ánh sáng để hiểu biết linh hồn con.

 

233      Khi vào toà cáo giải, lòng tôi cảm thấy thật thư thái về việc giãi bày tất cả đến độ về sau chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Những câu trả lời của ngài đem lại cho linh hồn tôi một sự bình an diệu kỳ. Những lời của ngài đã, đang, và luôn luôn sẽ là những cột lửa đã, đang, và sẽ soi sáng cho linh hồn tôi trong việc tìm cầu sự thánh thiện ở mức cao vời nhất.

 

            Những hướng dẫn nhận được từ cha Andrasz, tôi đã ghi lại ở một trang khác trong tập này [x. Nhật Ký, số 55].

 

234      Khi cáo mình xong, linh hồn tôi được ngập lút trong Thiên Chúa. Tôi cầu nguyện suốt ba tiếng, nhưng đối với tôi, dường như chỉ lâu một vài phút. Từ lúc đó, tôi không còn đặt một chướng ngại nào để cản trở ân sủng hoạt động trong tôi. Chúa Giêsu đã biết tại sao tôi lại sợ hãi kết nghĩa thân tình với Người, nhưng Người không bị xúc phạm. Từ lúc vị linh mục bảo đảm những gì tôi được trải nghiệm không phải ảo tưởng, nhưng là hồng ân Thiên Chúa, tôi đã cố gắng trung thành với Chúa trong mọi sự. Giờ đây, tôi có thể thấy rằng có rất ít linh mục hiểu được đầy đủ chiều sâu công cuộc của Thiên Chúa trong linh hồn tôi. Và cũng từ lúc ấy, đôi cánh của tôi được tự do bay lượn, và tôi khao khát được bay vút vào chính lò lửa của thái dương. Tôi sẽ không ngừng bay lượn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa mãi mãi. Trong khi chúng tôi lả lơi trên cao chót vót, tất cả hơi khí, sương mờ, và (108) những làn mây đều ở dưới chân, và các xác thịt chúng tôi nhất thiết phải tùng phục linh hồn.

 

235      Ôi Chúa Giêsu, con khao khát phần rỗi các linh hồn. Chính trong hy sinh mà con được tự do bày giãi nỗi lòng, trong hy sinh không ai ngờ tới. Con sẽ bừng cháy và sẽ bị tiêu huỷ một cách thầm kín trong những ngọn lửa linh thánh của tình yêu Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ làm cho hy sinh của con trở nên hoàn hảo và tinh ròng.

 

236      Ôi những dáng vẻ bề ngoài thật lừa dối và các xét đoán thật bất công! Ôi bao nhiêu lần nhân đức đã phải chịu tổn thiệt chỉ vì đã im lặng. Sống chân thành với những người không ngừng chỉ trích chúng ta đòi phải bỏ mình rất nhiều. Chúng ta chịu rỉ máu, nhưng không hiện lên thương tích hữu hình. Lạy Chúa Giêsu, chỉ trong ngày sau hết, các thương tích này mới được tỏ ra. Vui sướng biết bao - vì không một cố gắng nào của chúng ta bị đánh mất!

 

237      Giờ thánh. Trong giờ chầu này, tôi đã nhìn thấy vực thẳm khốn cùng của tôi; lạy Chúa, bất cứ điều gì tốt lành nơi con đều là của Chúa. Nhưng vì quá nhỏ bé và xấu xa, nên con được quyền tin cậy vào lượng từ bi vô bờ của Chúa.

 

238      Buổi tối. Lạy Chúa Giêsu, sáng mai con sẽ tuyên khấn trọn đời.

 

            Tôi đã xin trời đất và mời gọi tất cả mọi hữu thể hãy cám tạ Thiên Chúa vì hồng ân trọng đại khôn vời, bỗng nhiên tôi được nghe những lời này: Ái nữ của Cha ơi, trái tim con là thiên đàng của Cha. Chỉ mới cầu nguyện được vài phút tôi đã phải chạy và bị xua ra tất cả các nơi; mọi chỗ - nhà nguyện, nhà ăn, phòng chơi và nhà bếp - đều được chuẩn bị tươm tất cho ngày mai, và chúng tôi đành phải đi (109) ngủ. Tuy nhiên, ngủ là điều không thể chấp nhận. Niềm vui đã xua đi giấc ngủ. Tôi nghĩ: thiên đàng sẽ như thế nào vì ngay chốn lưu đày này mà Thiên Chúa đã tràn đầy linh hồn tôi.

 

239      Lời cầu trong thánh lễ ngày vĩnh thệ. Hôm nay, lạy Chúa Giêsu, con xin đặt trái tim con trên đĩa thánh, nơi đã đặt Trái tim Chúa, và hôm nay con xin cùng Chúa hiến mình cho Thiên Chúa, Cha của Chúa và của con, như một lễ vật hy sinh tình yêu và ca ngợi. Lạy Cha Nhân Từ, xin đoái nhìn lễ hy sinh của trái tim con, nhưng hãy nhìn qua thương tích nơi Trái Tim Chúa Giêsu.

 

Về đầu trang

 

                        Ngày 1 tháng 5 năm 1933. Ngày Đầu Tiên

 

            Kết hợp với Chúa Giêsu trong ngày vĩnh thệ. Lạy Chúa Giêsu, từ nay trở đi, Trái Tim Chúa thuộc về con, và trái tim con thuộc về một mình Chúa. Lạy Chúa Giêsu, ngay việc nghĩ đến Thánh Danh Chúa đã là hoan lạc cho trái tim con. Lạy Chúa Giêsu, con quả thực không thể sống mà thiếu Chúa, cho dù chỉ một phút giây. Hôm nay, linh hồn con đã mất hút trong Chúa, kho tàng độc nhất của con. Tình yêu con không còn trở ngại nào nữa để biểu lộ cho Người Yêu của con.

 

            Lời Chúa Giêsu phán trong lúc tôi tuyên khấn trọn đời: Bạn Tình của Cha, hai trái tim của chúng ta được kết hợp vĩnh viễn với nhau. Hãy nhớ con đã tuyên khấn với Đấng nào... Không phải mọi điều đều có thể diễn tả bằng lời.

 

            Lời cầu xin của tôi trong lúc chúng tôi đang nằm phục dưới lớp áo choàng. [23] Tôi khẩn nài Chúa ban cho tôi ơn đừng bao giờ xúc phạm đến Người một cách ý thức và chủ tâm, dù là một tội mọn hay một lỗi bất toàn nhỏ nhất.

 

            Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa! Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa với trót cả trái tim con! Trong những lúc gian nan nhất, Chúa là Từ Mẫu của con.

 

            Lạy Chúa Giêsu, vì yêu mến Chúa, hôm nay con chết hoàn toàn cho bản thân để bắt đầu sống cho thánh danh Chúa được cả sáng hơn.

 

            (110) + Ôi Tình Yêu, chính vì yêu mến Chúa, lạy Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, mà con hiến mình cho Chúa như một lễ dâng chúc tụng, một của lễ toàn thiêu tận tuyệt. Và qua của lễ sát tế bản thân này, con ước mong cho Danh Thánh Chúa được ngợi khen, ôi lạy Chúa. Lạy Chúa, con sấp mình như một nụ hồng bé bỏng dưới chân Chúa, chớ gì hương thơm của nụ hoa này chỉ được một mình Chúa biết mà thôi.

 

240      Ba lời điều thỉnh nguyện trong ngày vĩnh thệ. Lạy Chúa Giêsu, con biết hôm nay Chúa sẽ không nỡ từ chối con điều gì.

 

            Thỉnh nguyện thứ nhất: Lạy Chúa Giêsu, Tình Quân chí ái của con, con khẩn nài Chúa cho Giáo Hội được hiển thắng, nhất là tại nước Nga và nước Tây Ban Nha; xin Chúa ban phúc lành cho Đức Thánh Cha Piô XI và tất cả hàng giáo sĩ; cho các tội nhân được trở lại. Con xin Chúa ban phúc lành và ánh sáng đặc biệt cho các linh mục con sẽ đến cáo mình trong suốt cuộc đời con.

 

            Thỉnh nguyện thứ hai: Con van nài Chúa ban phúc lành trên hội dòng chúng con để hội dòng được tràn đầy nhiệt tâm sốt sắng. Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa chúc lành cho Mẹ Tổng Quyền, Mẹ Giám Tập, mọi bề trên và tất cả các tập sinh. Xin Chúa chúc phúc cho cha mẹ rất thân yêu của con. Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban ơn cho các học sinh nội trú của chúng con; cho họ nhờ ơn Chúa mà nên mạnh mẽ để khi rời khỏi những tu viện của chúng con, họ sẽ không phạm tội xúc phạm đến Chúa nữa. Lạy Chúa Giêsu, con nài van Chúa cho quê hương con, bảo vệ quê hương con cho khỏi những tấn công của quân thù.

 

            Thỉnh nguyện thứ ba: Lạy Chúa Giêsu, con nài nỉ Chúa cho các linh hồn đang cần đến lời cầu nguyện. Con kêu xin cho những ai đang hấp hối; xin Chúa dủ lòng thương xót. Lạy Chúa Giêsu, con cũng nài van Chúa giải thoát tất cả các linh hồn khỏi nơi luyện hình.

 

            Lạy Chúa Giêsu, con đặc biệt gởi gắm cho Chúa những người này: các cha giải tội của con, những người xin con cầu nguyện, và một người kia..., cha Andrasz, cha Czaputa, và vị linh mục con đã gặp ở Vilnius [cha Sopocko], người sẽ là cha giải tội của con, một linh hồn kia... (111) một linh mục và một tu sĩ [24] mà Chúa biết con thụ ơn rất nhiều, lạy Chúa Giêsu, ngay hôm nay, Chúa có thể thực hiện mọi điều cho những ai được con khẩn cầu. Về phần con, xin Chúa biến đổi con hoàn toàn trong chính Chúa, giữ gìn con trong nhiệt tâm thánh thiện vì vinh quang Chúa, xin ban cho con những ân sủng và sức mạnh thiêng liêng để thực thi thánh ý Chúa trong mọi sự.

 

            Ôi Đấng Lang Quân vô cùng dấu yêu của con, con xin cám tạ vì phẩm giá Chúa đã ban cho con, nhất là huy hiệu vương giả Chúa sẽ trang điểm cho con kể từ hôm nay mà các thiên thần cũng chẳng có được; đó là thánh giá, lưỡi gươm và mạo gai. Lạy Chúa Giêsu của con, nhưng trên hết là Trái Tim Chúa - đó là tất cả những gì con cần thiết.

 

            Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ Maria Rất Thánh của con, hôm nay Mẹ là Hiền Mẫu của con một cách đặc biệt vì Con dấu yêu của Mẹ lại là Lang Quân của con, và như thế, chúng con đều là con của Mẹ. Vì Con Mẹ, Mẹ phải yêu thương con. Lạy Mẹ Maria, Hiền Mẫu vô vàn dấu ái của con, xin hướng dẫn đời sống thiêng liêng của con sao cho đẹp lòng Con Mẹ.

 

            + Lạy Thiên Chúa Chí Thánh Toàn Năng, trong giờ phút hồng ân trọng đại Chúa đang liên kết con với chính Chúa mãi mãi đây, con, một cái hư vô thuần tuý, hết lòng tri ân, sấp mình dưới chân Chúa như một bông hoa nhỏ bé, vô danh, nhưng hương thơm của bông hoa tình yêu ấy mỗi ngày sẽ toả lan lên ngai toà Chúa.

 

            Trong những lúc chiến đấu và đau khổ, tăm tối và giông tố, thao thức và buồn nản, những thời gian thử thách, những khi không được ai cảm thông, những lúc bị mọi người kết án và khinh dể, con sẽ nhớ đến ngày vĩnh thệ của con, ngày Chúa ban hồng ân khôn vời.

 

            (112) J.M.J.

 

Những Quyết Định Đặc Biệt Trong Kỳ Tĩnh Tâm,

 

Ngày 1 tháng 5 năm 1933

 

241      Tình yêu tha nhân. Thứ nhất: Sẵn sàng giúp đỡ chị em. Thứ hai: Không nói về người vắng mặt và bảo vệ danh dự cho người chung quanh. Thứ ba: Vui mừng với thành công của người khác.

 

242      + Ôi lạy Chúa, con ước ao biết bao được trở nên một con trẻ bé mọn. [25] Chúa là Hiền Phụ của con, Chúa biết con bé bỏng và yếu đuối dường nào. Vì vậy, con nài xin Chúa cho con được ở sát bên Chúa trong suốt cuộc đời, nhất là trong giờ lâm chung của con. Lạy Chúa Giêsu, con biết cõi lòng lân ái của Chúa vượt xa tấm lòng nhân hậu của một người mẹ dịu hiền nhất.

 

243      Tôi sẽ cám tạ Chúa Giêsu vì mọi xỉ nhục và tôi sẽ cầu nguyện đặc biệt cho những ai đã cho tôi cơ hội chịu xỉ nhục. Tôi sẽ hy hiến bản thân vì lợi ích các linh hồn. Tôi không so đo cái giá phải trả trước bất kỳ một hy sinh nào. Như một tấm thảm, tôi sẽ hạ mình dưới chân chị em, không những để họ dẫm lên, mà còn lau chân nữa. Chỗ của tôi là ở dưới chân chị em. Tôi sẽ cố gắng hết mình để đạt cho kỳ được địa vị ấy mà không cho người khác nhận ra. Chỉ mình Thiên Chúa thấy là đủ.

 

244      Giờ đây, một ngày ảm đạm, bình thường lại bắt đầu. Những giờ phút trang trọng của ngày vĩnh thệ đã qua, nhưng hồng ân lớn lao của Chúa vẫn lưu lại trong linh hồn tôi. Tôi cảm thấy toàn thân thuộc về Chúa; tôi nhận ra mình là người con nhỏ bé của Người, tôi nghiệm thấy mình hoàn toàn thuộc về Chúa. Tôi cảm nhận rõ điều này đến độ thân xác cũng nghiệm thấy. Tôi hoàn toàn bình an trong mọi sự, bởi vì tôi biết công việc Đấng Lang Quân là chăm sóc cho tôi. Tôi đã quên thân mình hoàn toàn. Niềm tín thác không giới hạn của tôi đặt trót nơi Trái Tim vô cùng từ ái của Chúa. Tôi được liên lỉ kết hợp với Người. Với tôi, dường như Chúa Giêsu không thể hạnh phúc nếu thiếu tôi, và tôi cũng thế, nếu vắng Người. Mặc dù tôi vẫn hiểu Người là Thiên Chúa, hạnh phúc tự tại và tuyệt đối, không cần thụ tạo nào, tuy nhiên, lòng tốt lành của Chúa buộc Người phải hiến mình cho thụ tạo với sự quảng đại vượt mọi trí hiểu.

 

245      (113) Lạy Chúa Giêsu của con, giờ đây con sẽ ráng sức đem danh dự và vinh quang về cho Danh Chúa trong cuộc chiến cho đến ngày chính Chúa sẽ tuyên bố - đã đủ! Mọi linh hồn Chúa đã uỷ thác cho con, lạy Chúa Giêsu, con sẽ cố gắng trợ giúp họ bằng lời cầu nguyện và hy sinh, để ân sủng Chúa hoạt động nơi họ. Ôi Chúa Giêsu của con, người yêu vĩ đại của các linh hồn, con cám tạ Chúa vì Chúa đã trọn niềm tin tưởng yêu thương trao gởi các linh hồn cho chúng con chăm sóc. Hỡi những ngày làm việc, những ngày ảm đạm, các bạn chẳng đơn điệu với tôi chút nào, bởi vì từng giây phút đều đem đến cho tôi những ân sủng và cơ hội mới mẻ để làm việc lành.

 

 

+ Ngày 25 [tháng 4], năm 1933

 

Những Phép Hằng Tháng [26]

 

246      Vào nhà nguyện mỗi khi đi ngang qua gần đó.

 

            Cầu nguyện trong các giờ rảnh rỗi.

 

            Nhận, cho, hoặc cho mượn các vật nhỏ mọn.

 

            Dùng bữa phụ vào giữa buổi sáng và buổi chiều.

 

            Thỉnh thoảng tôi sẽ không dự giờ giải trí.

 

            Thỉnh thoảng tôi sẽ không dự giờ tập thể dục chung.

 

            Thỉnh thoảng tôi sẽ không dự giờ cầu nguyện tối và sáng.

 

            Thỉnh thoảng làm việc nán thêm một chút sau chín giờ, hoặc làm việc thiêng liêng sau chín giờ.

 

            Viết lách hoặc ghi chú khi có giờ rảnh.

 

            Gọi điện thoại.

 

            Ra khỏi nhà.

 

            Viếng một nhà thờ nào đó khi lên tỉnh.

 

            Vào phòng riêng của chị em khi cần thiết.

 

            Thỉnh thoảng uống nước ngoài những giờ quy định.

 

Những Việc Hãm Mình Nhỏ Mọn

 

            Dang tay đọc chuỗi kinh Thương Xót.

 

            Thứ Bảy, dang tay đọc năm chục kinh Mân Côi.

 

            Thỉnh thoảng phục xuống đất đọc kinh.

 

            Thứ Năm, làm một giờ thánh.

 

            Thứ Sáu, hãm mình nhiều hơn cho các tội nhân hấp hối.

 

247      (114) Lạy Chúa Giêsu, Người Bạn của con tim cô độc, Chúa là nơi nương ẩn, là cõi an bình của con. Chúa là ơn cứu độ của con, là thanh nhàn cho con trong những khi chiến đấu và chơi vơi giữa đại dương ngờ vực. Chúa là tia sáng soi đường cho đời con, là tất cả cho một linh hồn cô đơn. Chúa hiểu linh hồn mặc dù nó lặng thinh. Chúa cảm thông những yếu đuối của chúng con như một lương y. Chúa an ủi, chữa lành và cứu vớt chúng con khỏi đau khổ - Chúa là chuyên gia như thế.

 

248      Những lời của Đức Giám Mục [Rospond [27]] trong nghi lễ nhận lời khấn trọn đời: “Chị hãy nhận lấy cây nến này như một biểu hiện của ánh sáng thiên đàng và của tình yêu bừng cháy”.

 

            Trong khi trao nhẫn: “Tôi kết ước chị với Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Cha Tối Cao; chớ gì Người gìn giữ chị vẹn tuyền. Chị hãy nhận lấy chiếc nhẫn này như một dấu chỉ của giao ước vĩnh viễn chị đang thực hiện với Chúa Kitô, Lang Quân của các trinh nữ. Chớ gì đối với chị, đó là chiếc nhẫn đức tin và dấu hiệu của Chúa Thánh Thần, vì chị được mời gọi làm hiền thê của Đức Kitô, và nếu trung thành phụng sự Người, chị sẽ được đội triều thiên cho đến muôn đời”.

 

249      + Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa; con tín thác vào đại dương xót thương của Chúa. Chúa là một Người Mẹ đối với con.

 

250      + Năm 1933 là một năm hết sức trọng đại đối với tôi, bởi vì tôi đã được vĩnh thệ trong Năm Thánh kỷ niệm cuộc Thương Khó Chúa. Tôi liên kết hy sinh của mình một cách đặc biệt với hy sinh của Chúa Giêsu Tử Giá, để nhờ đó mà được đẹp lòng Thiên Chúa hơn. Tôi làm mọi việc với Chúa Giêsu, nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu.

 

251      Sau khi vĩnh thệ, tôi ở lại Cracow hết tháng Năm, bởi vì tôi chưa nhận được quyết định thuyên chuyển về Rabka hoặc Vilnius. Một lần kia, Mẹ Tổng Quyền [Michael] hỏi tôi: “Này chị, tại sao chị cứ ngồi đây âm thầm mà không chuẩn bị đi đâu?”. Tôi thưa lại: “Con muốn thực thi đúng thánh ý Chúa; thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ cử con đi đâu, con sẽ biết thánh ý Chúa muốn con đến đó, không hề có pha tạp nào từ phía con”.

 

            (115) Mẹ Tổng Quyền đáp lại: “Được lắm!”. Hôm sau, Mẹ triệu tôi đến và nói: “Này chị, chị đã muốn thực thi đúng thánh ý Chúa, rất tốt, vậy chị sẽ đi Vilnius”. Tôi cảm ơn Mẹ và đợi ngày được chỉ định để ra đi. Tuy nhiên, linh hồn tôi tràn ngập sướng vui lẫn lo âu. Tôi cảm thấy Thiên Chúa đã chuẩn bị cho tôi những ân sủng đặc biệt và những đau khổ kinh hồn ở đó. Tuy nhiên, tôi vẫn nán lại Cracow cho đến ngày 27 tháng Năm. Vì không có phận sự thường xuyên, nên tôi ra giúp ngoài vườn. Và thế là nhờ được làm việc một mình trong suốt tháng đó, tôi đã có thể làm một cuộc tĩnh tâm của dòng Tên. [28] Tuy có tham dự giờ chơi cộng đoàn, nhưng tôi vẫn xoay xở làm được cuộc tĩnh tâm của dòng Tên. Tôi đã nhận được nhiều ánh sáng từ Chúa trong thời gian này.

 

252      + Bốn ngày sau vĩnh thệ. Tôi đang cố gắng làm một giờ thánh. Hôm đó là thứ Năm đầu tháng. Ngay khi tôi vừa vào nhà nguyện, sự hiện diện của Thiên Chúa đã bao phủ lấy tôi. Tôi ý thức rõ ràng Chúa đang hiện diện bên tôi. Sau một lúc, tôi nhìn thấy Chúa toàn thân đầy thương tích; và Người phán với tôi: Con hãy nhìn xem Đấng con đã kết ước. Tôi đã hiểu ý nghĩa những lời ấy và thưa lại với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, khi thấy Chúa bê bết thương tích và quằn quại trong đau khổ thế này, con yêu mến Chúa hơn là khi thấy Chúa giữa oai nghi”. Chúa Giêsu hỏi: Tại sao? Tôi thưa lại: “Oai nghi cao cả của Chúa làm con sợ hãi, vì con chỉ là một cái hư vô bé mọn, còn những thương tích của Chúa lôi kéo con đến gần Trái Tim Chúa và cho con biết về tình yêu bao la Chúa đã dành cho con”. Sau một lúc chuyện vãn là giờ im lặng. Tôi chiêm ngắm các thương tích thánh thiện của Chúa và cảm thấy sung sướng được chịu đau khổ với Chúa. Tôi chịu đau nhưng không thấy khổ, bởi vì tôi cảm thấy sung sướng khi biết được chiều sâu của tình yêu Chúa, và giờ chầu trôi qua nhanh như một phút đồng hồ.

 

253      + Tôi không bao giờ không được xét đoán, nhưng hãy nhìn người khác với sự từ tâm, và nhìn bản thân với sự nghiêm khắc. Tôi phải qui hướng mọi sự về Chúa, trong mắt phải nhận biết mình là gì: hoàn toàn khốn nạn và hư vô. Trong đau khổ, tôi phải nhẫn nại và im lặng vì biết mọi sự sẽ qua đi theo thời gian.

 

254      (116) + Những phút giây được trải nghiệm khi tuyên khấn trọn đời cứ đừng nói ra thì hơn.

 

            Tôi ở trong Chúa và Chúa ở trong tôi. Trong khi Đức Giám Mục [Rospond] xỏ nhẫn vào ngón tay tôi, Thiên Chúa đã thấu nhập toàn thể hữu thể của tôi, và vì không thể diễn tả được, nên tôi sẽ giữ im lặng về giây phút ấy. Mối tương giao giữa tôi với Thiên Chúa kể từ ngày vĩnh thệ càng ngày càng nồng thắm hơn trước. Một khi đã được nếm hưởng Thiên Chúa, linh hồn tôi không thể sống được nếu thiếu vắng Người. Một giờ trải qua dưới chân bàn thờ trong lúc linh hồn chịu khô khan lạt lẽo đối với tôi còn quý báu hơn hằng trăm năm giữa những lạc thú dương gian. Tôi thích được làm một người đầu tắt mặt tối thấp hèn chốn viện tu còn hơn làm một bà hoàng giữa trần gian.

 

255      + Tôi sẽ không để cho mắt người đời nhìn thấy những điều tốt lành tôi có thể thực hiện, bởi vì một mình Chúa sẽ là phần thưởng cho tôi. Tôi sẽ như một nụ đổng thảo bé bỏng kín đáo giữa bụi cỏ, không làm đau bàn chân những ai giẫm lên, nhưng toả lan hương thơm và quên mình hoàn toàn, cố gắng làm vui lòng những ai chà đạp nó dưới chân. Đây là điều rất khó đối với bản tính con người, nhưng rồi ơn Chúa sẽ trợ giúp ta.

 

256      + Lạy Chúa Giêsu, con cám tạ Chúa vì hồng ân trọng đại Chúa đã cho con biết tất cả vực thẳm hư hèn của con. Con biết mình là một vực thẳm hư vô, và nếu ơn thánh Chúa không nâng đỡ, con sẽ trở về hư vô tức khắc. Và như vậy, với từng nhịp đập của trái tim, con xin cám tạ Chúa, lạy Thiên Chúa của con, vì lượng từ ái vô bờ Chúa dành cho con.

 

257      Ngày mai, tôi sẽ đi Vilnius. Hôm nay, tôi đi cáo mình với cha Andrasz, vị linh mục tràn đầy thần khí của Chúa, người đã tháo gỡ đôi cánh cho tôi để tôi có thể bay vút đến đỉnh tuyệt cao. Ngài trấn an tôi trong mọi sự và dạy cho tôi biết tin tưởng vào Đấng Quan Phòng. “Hãy tin tưởng và tiến bước can đảm”. Tôi đã được một sức mạnh thần linh phi thường bao bọc sau khi xưng tội. (117) Cha giải tội nhấn mạnh tôi phải trung thành với ơn Chúa, ngài nói: “Không gì nguy hại sẽ xảy đến với chị, nếu trong tương lai, chị vẫn giữ lòng đơn thành và vâng phục như vậy. Hãy tin tưởng vào Chúa; chị đang đi đúng đường và trong đôi tay tốt lành, đôi tay của Thiên Chúa”.

 

258      + Tối hôm đó, tôi ở lại nhà nguyện lâu hơn một chút. Tôi thưa với Chúa về một linh hồn kia. Được lòng nhân lành của Chúa khích lệ, tôi thưa: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho con vị linh mục hiểu được những soi động của con, và giờ đây, Chúa lại đưa ngài đi khỏi con. Tại Vilnius, con biết làm gì đây? Con không quen với ai ở đó, và ngay cả tiếng nói của người dân ở đó cũng lạ lẫm đối với con”. Và Chúa phán với tôi: Đừng sợ hãi; Cha không bỏ con bơ vơ đâu. Linh hồn tôi đắm chìm trong lời kinh tạ ơn vì tất cả những ơn lành Chúa ban cho tôi qua bài nguyện ngắm do cha Andrasz.

 

            Bỗng nhiên, tôi nhớ lại trong một thị kiến trước kia, tôi đã được nhìn thấy vị linh mục ấy ở khoảng giữa toà cáo giải với bàn thờ, và tin chắc vào một ngày kia tôi sẽ gặp ngài. Và những lời tôi đã được nghe trước kia lại vang lên sống động: Ngài sẽ giúp con chu toàn thánh ý của Cha trên trần gian.

 

259      Hôm nay, ngày 27 [tháng 5 năm 1933], tôi đi Vilnius. Khi ra khỏi tu viện, tôi ngoảnh lại nhìn khu vườn với ngôi nhà, và khi hướng về khu tập viện, những giọt nước mắt tự nhiên lăn xuống đôi má của tôi. Tôi hồi tưởng lại tất cả những phúc lành và ân thánh Chúa đã ban xuống cho tôi. Lúc đó, đột nhiên và bất ngờ, tôi nhìn thấy Chúa bên cạnh luống hoa, và Người phán với tôi: Đừng khóc; Cha luôn ở với con. Đúng như lời Chúa hứa, sự hiện diện của Người bao phủ và đồng hành với tôi trong suốt chuyến đi.

 

260      Tôi được phép viếng thăm Czestochowa trong chuyến hành trình. Lần đầu tiên, tôi được cung chiêm [bức hình] Mẹ Thiên Chúa khi tham dự nghi thức mở khăn phủ bức hình vào lúc năm giờ sáng. Tôi cầu nguyện mãi cho đến mười một giờ, vậy mà y như tôi vừa mới đến. Bề trên tu viện ở đó [Mẹ Serafin [29]] gởi một chị đến đón và mời tôi dự điểm tâm và cho biết Mẹ lo lắng tôi (118) bị nhỡ chuyến xe lửa. Mẹ Thiên Chúa đã phán dạy tôi nhiều điều. Tôi ký thác lời khấn trọn đời của tôi cho Đức Mẹ. Tôi cảm thấy mình là con nhỏ của Đức Mẹ còn Đức Mẹ là Từ Mẫu của tôi. Đức Mẹ chưa bao giờ từ chối điều gì tôi xin.

 

261      + Hôm nay tôi đã ở Vilnius. Chỉ có dăm ba túp lều nhỏ rải rác hợp thành tu viện. Đối với tôi, nó có vẻ hơi lạ, nếu sánh với những toà nhà đồ sộ ở Jozefow. Ở đây chỉ có mười tám chị em. Nhà thì nhỏ, nhưng đời sống cộng đoàn rất đầm ấm. Tất cả chị em đón tiếp tôi rất thân tình, đó là sự khích lệ rất lớn cho tôi để chịu đựng những gian truân đang đợi phía trước. Chị Justine còn lau nền nhà để đón tôi đến.

 

262      + Khi tôi đi dự giờ chầu phép lành, Chúa Giêsu đã soi sáng cho tôi về cách cư xử với một số người. Tôi cố sức níu chặt lấy Trái Tim rất ngọt ngào của Chúa Giêsu vì biết rằng tôi sẽ bị những chia trí ngoại cảnh do công việc tôi sẽ làm ngoài vườn tại đây, nhất định tôi sẽ tiếp xúc với một số giáo dân.

 

263      + Tuần lễ xưng tội đã đến, tôi hết sức vui mừng khi nhìn thấy vị linh mục tôi đã được biết trước khi chuyển về Nilnius. [Tức là] tôi đã được biết ngài qua một thị kiến. Lúc ấy, tôi đã nghe những lời này trong linh hồn: Đây là đầy tớ trung tín của Cha; ngài sẽ giúp con hoàn thành thánh ý Cha trên trần gian. Tuy vậy, tôi đã không giãi bày tâm hồn cho ngài như ý Chúa muốn. Có những lúc tôi đã chống lại ơn thánh. Trong lần xưng tội này, ơn Chúa tràn ngập tôi một cách đặc biệt, nhưng tôi vẫn không tỏ bày tâm hồn cho cha giải tội và dự định sẽ không xưng tội với ngài nữa. Sau quyết định ấy, một nỗi áy náy kinh khủng nổi lên trong linh hồn tôi. Chúa đã nghiêm khắc quở trách tôi. Nhưng khi tôi trình bày mọi sự trong linh hồn cho linh mục này, Chúa Giêsu đã trào đổ một đại dương ơn thánh xuống cho hồn tôi. Giờ đây, tôi hiểu được thế nào là trung thành với một hồng ân đặc biệt. Ơn thánh ấy sẽ kéo theo hàng loạt các ơn thánh khác.

 

264      (119) + Lạy Chúa Giêsu, xin gìn giữ con kề bên Chúa! Chúa coi, con yếu đuối biết bao! Con không thể tự mình tiến nổi một bước; vì vậy, Chúa Giêsu ơi, Chúa phải đứng bên cạnh con luôn mãi như một người mẹ bên cạnh đứa con yếu đuối - và còn phải hơn vậy nữa.

 

265      + Những ngày làm việc, chiến đấu, và đau khổ đã khởi đầu. Mọi sự vẫn trôi qua như thường lệ của tu viện. Chúng ta luôn luôn phải như một tập sinh, có nhiều điều phải học hỏi và nhiều việc phải tập cho quen, tuy luật dòng vẫn giống nhau, nhưng mỗi nhà lại có những thông lệ riêng biệt; và như thế, mỗi thay đổi là một tập viện nho nhỏ.

 

Ngày 5 tháng 8 năm 1933. Lễ Đức Mẹ Nhân Lành

 

266      Hôm nay, tôi đã được lãnh nhận một hồng ân lớn lao khôn lường, một ơn hoàn toàn nội tâm, vì thế, trọn đời này và trong cõi đời đời, tôi sẽ tri ân Chúa...

 

267      Chúa Giêsu cho biết tôi làm đẹp lòng Người nhất khi suy ngắm về cuộc Khổ Nạn thảm thương của Người, và qua việc suy ngắm ấy, nhiều ánh sáng sẽ trào đổ xuống cho linh hồn tôi. Ai thực sự muốn học biết đức khiêm nhượng, hãy suy ngắm về cuộc Khổ Nạn Chúa Giêsu. Khi suy ngắm về cuộc Khổ Nạn của Chúa, tôi am hiểu tường tận nhiều điều mà trước kia tôi không sao hiểu nổi. Lạy Chúa Giêsu, con muốn được trở nên giống Chúa, Chúa đã chịu đóng đinh, chịu hành hạ và xỉ nhục. Lạy Chúa Giêsu, xin in sâu vào trái tim và linh hồn con đức khiêm nhượng của Chúa. Lạy Chúa Giêsu, con say yêu Chúa đến mức điên rồ, Chúa là Đấng đã chịu giày đạp vì thống khổ như vị tiên tri đã mô tả [Is 53,2-9], dường như tiên tri không còn nhìn ra hình tượng con người nơi Chúa vì những thống khổ kinh hoàng. Lạy Chúa Giêsu, chính trong thảm trạng ấy mà con yêu mến Chúa đến mức điên cuồng. Ôi Thiên Chúa hằng hữu vô cùng, tình yêu đã gây nên những nông nỗi nào cho Chúa?...

 

268                  Thứ Năm, ngày 11 tháng 10 năm 1933.

 

            Tôi cố làm một giờ thánh, nhưng khởi sự quá khó khăn. Một nỗi khao khát bắt đầu xé nát tâm hồn tôi. Tâm trí tôi u mê đến độ không sao hiểu nổi những lời kinh đơn giản nhất. Và một giờ chầu, đúng hơn là một giờ chiến đấu, đã trôi qua như thế. Tôi quyết định cầu nguyện thêm một giờ nữa, nhưng các đau khổ nội tâm - tình trạng khô khan chán nản - càng tăng thêm. (120) Tôi lại quyết định cầu nguyện thêm một giờ nữa. Trong giờ chầu thứ ba này, tôi dốc quyết quỳ và không dựa chút nào, thân xác tôi bắt đầu la ó đòi nghỉ ngơi. Tôi không dung dưỡng nó, tôi dang tay, và mặc dù không cầu nguyện thành lời, nhưng tôi kiên trì trong ý chí cương quyết. Một lúc sau, tôi cởi chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay và xin Chúa Giêsu hãy nhìn chiếc nhẫn, dấu chỉ mối duyên hợp vĩnh viễn giữa chúng tôi, và tôi dâng lên Chúa những tâm tình của tôi trong ngày vĩnh thệ. Một lúc sau, tôi cảm thấy lòng mình dạt dào một triều sóng tình ái. Một sự tịnh hiệp bất ngờ, các giác quan im tiếng, và sự hiện diện của Thiên Chúa thấu nhập linh hồn tôi. Tôi chỉ còn biết có một điều: đó là Chúa Giêsu và tôi. Tôi thấy Chúa tương tự như Người đã hiện đến trong giờ phút sau khi tôi tuyên lời khấn trọn đời, và lúc ấy tôi cũng đang làm một giờ thánh. Chúa Giêsu thình lình đứng trước mặt tôi, y phục bị tước lột, toàn thân bê bết thương tích, đôi mắt bị nước mắt và máu che khuất, thánh nhan biến dạng và đầy những đờm dãi. Lúc đó, Chúa phán với tôi: Tân Nương phải nên giống Tân Lang. Tôi đã hiểu rõ những lời này. Ở đây, không còn chỗ cho hoài nghi. Tôi phải nên giống Chúa Giêsu qua đau khổ và khiêm nhượng. Con hãy xem nông nỗi mà tình thương các linh hồn đã gây nên cho Cha. Hỡi ái nữ của Cha, nơi tâm hồn con, Cha tìm được tất cả những điều mà quá đông các linh hồn đã khước từ Cha. Trái tim con là chỗ nghỉ ngơi của Cha. Cha thường dành để những ân sủng trọng đại cho đến khi giờ cầu nguyện kết thúc.

 

269      Một lần kia, sau khi tôi đã làm xong tuần cửu nhật kính Chúa Thánh Thần theo ý cha giải tội [cha Sopocko], Chúa phán với tôi: Cha đã cho ngài biết về con ngay cả trước khi các bề trên sai con đến đây. Con cư xử với cha giải tội của con thế nào, Cha cũng sẽ cư xử với con như vậy. Nếu con giấu giếm ngài điều gì, dù là một ơn nhỏ mọn nhất trong các ơn Cha ban, Cha cũng sẽ ẩn mình khỏi con, và con sẽ cô đơn. Thế là tôi vâng theo ý muốn của Chúa, và một niềm an bình sâu xa tràn ngập linh hồn tôi. Giờ đây, tôi đã hiểu Thiên Chúa giữ gìn và bảo vệ các cha giải tội như thế nào.

 

            (121)    Lời Khuyên của Linh Mục Tiến Sĩ Sopocko

 

270      Thiếu sự khiêm nhượng, chúng ta không thể sống đẹp lòng Thiên Chúa. Chị hãy thực tập đức khiêm nhượng ở mức độ thứ ba; [30] không những không biện minh và chữa mình khi bị quở trách, mà còn vui mừng khi bị xỉ nhục.

 

            Nếu những điều chị trình bày với tôi thực sự do Chúa mà ra, thì chị hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận đau khổ lớn lao. Chị sẽ gặp chống đối và bách hại. Người ta sẽ coi chị như một kẻ cuồng loạn dở người, nhưng Thiên Chúa sẽ ban tràn đầy ân sủng của Người cho chị. Những công việc chân chính của Thiên Chúa luôn luôn bị chống đối và được chứng thực bằng đau khổ. Nếu Thiên Chúa muốn thực hiện điều gì, sớm muộn Người cũng sẽ hoàn thành, bất kể những khó khăn. Trong lúc đó phần chị, chị hãy tự võ trang bằng đức nhẫn nại lớn lao.

 

271      Khi linh mục tiến sĩ Sopocko đi hành hương Thánh Địa, cha Dabrowski, dòng Tên, đến giải tội cho cộng đoàn. Trong một lần xưng tội, ngài hỏi tôi có ý thức được mức độ cao vời của đời sống [thiêng liêng] trong linh hồn tôi không. Tôi xác nhận có ý thức và hiểu biết điều đang diễn ra trong tôi. Bấy giờ, vị linh mục đáp lại: “Này chị, chị không được huỷ hoại điều đang diễn ra trong linh hồn chị. Chị cũng không được tự ý thay đổi bất cứ điều gì. Này chị, không phải ân huệ xinh đẹp được sống một đời nội tâm tuyệt vời được tỏ ra cho hết mọi linh hồn như trong trường hợp của chị đâu, vì đó là hiển hiện một mức độ cao vời. Chị hãy cẩn trọng đừng phung phí những ơn trọng đại này của Chúa; một sự lớn...” [đến đây tư tưởng để ngỏ].

 

272      Nhưng trước kia, vị linh mục này đã thử thách tôi nhiều lần. Khi tôi thưa rằng Chúa muốn tôi những điều này [tức là, việc vẽ bức hình, việc thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa, và thành lập một cộng đoàn mới], ngài đã cười rộ và bảo tôi tám giờ tối hãy đến xưng tội. Khi tôi đến vào lúc tám giờ tối, một tu huynh bấy giờ đang khoá cửa nhà thờ. Tôi cho thầy biết linh mục đã bảo tôi đến đây vào giờ này (122) và nhờ thầy thưa cho ngài biết tôi đã đến, vị tu huynh tốt lành liền đi báo cho cha. Cha bảo thầy trả lời cho tôi biết các linh mục không giải tội vào giờ này. Tôi trở về uổng công và không đi xưng tội với ngài nữa, nhưng tôi đã làm một giờ chầu và một số hành vi khổ chế để cầu nguyện cho ngài được ánh sáng hầu hiểu được các linh hồn. Nhưng khi cha Sopocko đi vắng và vị linh mục này đến thay thế, tôi buộc lòng phải xưng tội với ngài. Tuy nhiên, trước kia, ngài không muốn công nhận những soi động nội tâm, thì giờ đây ngài lại bắt tôi chịu trách nhiệm phải trung thành với các ơn ấy. Đôi khi, Thiên Chúa đã để những điều như thế xảy ra, nguyện Chúa được chúc tụng trong mọi sự. Tuy nhiên, điều ấy cần phải có nhiều ơn thánh để khỏi bị chao đảo.

 

Về đầu trang

 

Tĩnh Tâm Thường Niên

 

Ngày 10 tháng 1 năm 1934

 

273      Chúa Giêsu của con ơi, lại sắp đến lúc con được sống một mình bên Chúa. Lạy Chúa Giêsu, với trót tâm hồn, con nài xin Chúa cho con biết những gì nơi con làm mất lòng Chúa, và cũng xin cho con biết phải làm những gì để đẹp lòng Chúa hơn. Xin Chúa đừng từ chối con ơn này và xin hãy ở với con. Con biết rằng không có Chúa, lạy Chúa, tất cả nỗ lực của con sẽ chẳng đến đâu. Ôi lạy Chúa, con vui sướng vì sự cao trọng của Chúa! Càng hiểu biết Chúa, con càng nồng nàn khao khát và mong mỏi Chúa!

 

274      Chúa Giêsu đã ban cho tôi ơn biết mình. Dưới ánh sáng thần linh này, tôi nhìn ra khuyết điểm làm đầu của mình; đó là tính kiêu ngạo gây ra thói khép kín của tôi và tình trạng thiếu đơn sơ trong tương quan với Mẹ Bề Trên [Irene].

 

            Ánh sáng thứ hai liên quan đến việc nói năng. Đôi khi tôi nói quá nhiều. Một việc có thể được giải quyết bằng một hai lời, thế mà tôi lại phí quá nhiều thời giờ, trong khi Chúa Giêsu muốn tôi lợi dụng thời giờ ấy đọc một số lời nguyện tắt để lãnh ân xá cho các linh hồn luyện ngục. Chính Chúa đã phán mọi lời nói đều phải tính sổ trong ngày phán xét.

 

            (123) Ánh sáng thứ ba liên quan đến luật dòng. Tôi đã không tránh dịp cho đủ, dẫn đến tình trạng vi phạm luật dòng, nhất là luật giữ lặng. Tôi sẽ sống như thể luật dòng đã được viết cho riêng tôi; dù ai sống thế nào cũng không liên can đến tôi, miễn là tôi cứ sống đúng như ý Chúa.

 

            Quyết định. Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi liên quan đến các việc bên ngoài, tôi sẽ lập tức trình với các bề trên. Tôi sẽ cố gắng cởi mở và thành thực như con trẻ trong tương quan với bề trên.

 

275      Chúa Giêsu yêu thương các linh hồn ẩn khuất. Bông hoa ẩn khuất là bông hoa ngào ngạt nhất. Tôi phải cố gắng làm cho nội thất linh hồn tôi trở thành một chỗ nghỉ ngơi cho Trái Tim Chúa Giêsu. Trong những lúc khó khăn và đau thương, lạy Đấng Tạo Hoá của con, con sẽ hát cho Chúa khúc tân ca tín thác, bởi vì lòng con tín thác vào Chúa và tình thương của Chúa thật vô bờ!

 

276      Từ giây phút tôi yêu mến đau khổ, nó không còn đau khổ đối với tôi nữa. Đau khổ là lương thực hằng ngày của linh hồn tôi.

 

277      Tôi sẽ không nói chuyện với một người kia vì biết Chúa Giêsu không thích, và chị ấy cũng chẳng được ích lợi gì về việc ấy.

 

278      Dưới chân Chúa. Lạy Chúa Giêsu ẩn thân, Tình Yêu Hằng Hữu, Nguồn Mạch Sự Sống của chúng con, Đấng Điên Dại Thần Linh vì đã quên mình mà chỉ nhìn đến chúng con. Trước khi tạo thành trời đất, Chúa đã cưu mang chúng con nơi thẳm sâu Trái Tim Chúa. Ôi Tình Yêu, ôi vực sâu tự hạ của Chúa, ôi mầu nhiệm sự hạnh phúc, tại sao lại có quá ít người nhận biết Chúa? Tại sao tình yêu Chúa không được đáp trả? Ôi Tình Yêu Thần Linh, tại sao Chúa che khuất vẻ đẹp của Chúa đi? Ôi Đấng Vô Cùng vượt mọi trí hiểu, con càng biết Chúa, con càng không hiểu nổi Chúa; nhưng bởi vì con không thể hiểu Chúa, nên con càng hiểu ra sự vĩ đại của Chúa. Con không ganh tị với các luyến thần về lửa mến của các ngài, bởi vì con cũng có một tặng ân còn lớn hơn được đặt nơi lòng con. (124) Các ngài được chiêm ngưỡng Chúa trong hoan lạc, còn Máu Thánh Chúa lại hoà lẫn với máu con. Tình yêu là thiên đàng ban cho chúng con ngay ở dưới thế. Ôi tại sao Chúa lại ẩn mình trong đức tin? Tình yêu xé toang bức màn che. Không còn một bức màn nào trước mắt linh hồn con nữa vì chính Chúa đã lôi kéo con vào thẩm cung của tình yêu thần bí muôn đời. Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi bất phân, nguyện Chúa được ca ngợi và tôn vinh cho đến muôn muôn ngàn đời!

 

279      Thiên Chúa tỏ cho tôi biết tình yêu chân thật cốt ở những gì, và thực tế Người đã soi sáng cho tôi biết cách minh chứng tình yêu đối với Người. Tình yêu Thiên Chúa chân thật cốt ở việc thực thi thánh ý Người. Để chứng tỏ tình yêu chúng ta đối với Thiên Chúa trong những việc chúng ta làm, tất cả mọi hành động, dù nhỏ mọn nhất, cũng phải xuất phát từ tình yêu của chúng ta dành cho Người. Và Chúa phán với tôi: Con nhỏ của Cha, con làm Cha thoả lòng nhất bằng cách chịu đau khổ. Hỡi ái nữ của Cha, trong những đau khổ thân xác cũng như tinh thần, con đừng đi tìm sự thông cảm nơi thụ tạo. Cha muốn hương thơm thập giá của con phải tinh khiết và nguyên tuyền. Cha muốn con thoát ly không những với các thụ tạo, mà cả với bản thân con nữa. Ái nữ của Cha ơi, Cha muốn hoan hưởng tình yêu của trái tim con, một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không vết nhơ, không tì ố. Ái nữ của Cha ơi, con càng đến chỗ yêu mến đau khổ, tình yêu con dành cho Cha sẽ càng tinh ròng.

 

280      Chúa Giêsu truyền cho tôi hãy mừng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật ngay sau lễ Phục Sinh bằng việc hồi tâm, thực hành khổ chế, mặc áo nhặm ba tiếng đồng hồ, liên lỉ cầu nguyện cho các tội nhân và cầu ơn thương xót cho toàn thế giới. Chúa Giêsu phán với tôi: Hôm nay, mắt Cha vui thoả khi nhìn xuống nhà này.

 

281      Tôi cảm thấy sứ mạng của tôi sẽ không chấm dứt sau cái chết của tôi, nhưng đó sẽ là khởi đầu. Hỡi những linh hồn còn hoài nghi, tôi sẽ mở toang cho các bạn những bức màn thiên đàng để thuyết phục các bạn tin vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, để các bạn không còn tiếp tục đả thương Trái Tim vô cùng lân tuất của Chúa Giêsu bằng thái độ ngờ vực của các bạn nữa. Thiên Chúa là Toàn Yêu và Toàn Thương.

 

282      (125) Một lần kia, Chúa phán với tôi: Hỡi người con nhỏ rất dấu yêu của Cha ơi, Trái Tim Cha thổn thức vì tình thương bao la Cha dành cho con khi thấy con phải tan nát vì đau khổ da diết để đền bồi tội lỗi của con. Cha nhìn thấy tình yêu của con, tinh ròng và chân thực, vì thế Cha ban cho con địa vị hàng đầu giữa những linh hồn trinh khiết. Con là vinh dự và vinh quang cuộc Thương Khó của Cha. Cha thấy tất cả nỗi đớn hèn của linh hồn con, không gì thoát khỏi ánh nhìn của Cha. Cha nâng những người khiêm nhượng lên đến tận ngai toà của Cha, vì Cha muốn như thế.

 

Lạy Thiên Chúa, Nhất Thể Tam Vị,

 

283      Con muốn yêu mến Chúa như chưa có linh hồn nào trước đây đã từng mến yêu Chúa như vậy; và mặc dù rất khốn nạn và bé bỏng, nhưng con đã quăng mỏ neo tín thác của con xuống vực thẳm Lòng Thương Xót của Chúa, ôi Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá của con! Cho dù con khốn cùng, nhưng con không sợ gì, và con hy vọng hát dâng Chúa một khúc ca tán tụng vinh quang đến muôn đời. Ước chi đừng một linh hồn nào, cho dù khốn cùng nhất, trở thành miếng mồi của nghi nan; bởi vì bao lâu còn sống, ai ai cũng còn khả năng trở thành một vị đại thánh, và đó là sức mạnh vĩ đại của ân sủng Chúa. Miễn là chúng ta đừng chống lại hoạt động của Chúa.

 

284      Lạy Chúa Giêsu, ước chi trước mắt Chúa, con có thể trở thành một làn sương mờ bao quanh trái đất để Chúa khỏi phải nhìn thấy những tội ác khốn nạn. Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn vào thế giới và thái độ hững hờ người ta đối xử với Chúa, con cứ ứa hoài nước mắt; nhưng khi nhìn thấy một linh hồn tu sĩ nguội lạnh, trái tim con đã rướm máu.

 

285                              1934

 

            Một lần kia, lúc trở về phòng riêng, tôi mệt nhoài đến độ phải nằm nghỉ khi chưa kịp thay đồ, và khi tôi vừa thay đồ xong, một chị nhờ tôi đi lấy giùm một ít nước nóng. Tuy rất mệt nhọc, tôi cũng vội vàng khoác y phục rồi đi lấy một ít nước nóng cho (126) chị ấy, mặc dù từ phòng của tôi đến nhà bếp rất xa, bùn đất lầy lội đến tận mắt cá. Khi trở về phòng, tôi thấy một bình thánh đựng Thánh Thể và nghe thấy tiếng Chúa phán: Con hãy cầm lấy chén thánh này và đưa lên nhà tạm. Lúc đầu tôi lưỡng lự, nhưng khi đến gần và chạm đến bình thánh, tôi lại nghe những lời này: Con hãy đến với từng chị em cũng bằng chính tình yêu khi đến với Cha; và bất cứ điều gì con làm cho họ cũng là làm cho chính Cha. Một lúc sau, tôi chỉ còn lại một mình.

 

286      + Lần kia, sau một giờ chầu cầu cho tổ quốc, một nỗi đau đã xuyên thấu linh hồn tôi, và tôi cất tiếng cầu nguyện thế này: “Lạy Chúa Giêsu rất nhân lành, nhờ lời các thánh cầu bầu, nhất là sự can thiệp của Người Mẹ rất đáng mến đã nuôi nấng Chúa từ thuở còn thơ, con nài xin Chúa chúc lành cho quê hương con. Lạy Chúa Giêsu, con van lơn Chúa đừng chấp tội lỗi chúng con, nhưng xin nhìn đến những dòng nước mắt của các trẻ thơ bé bỏng và nỗi cơ hàn chúng đang phải chịu. Lạy Chúa Giêsu, vì những trẻ thơ vô tội này, xin Chúa thương ban ân sủng mà con khẩn nài cho quê hương con”. Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy đôi mắt Chúa Giêsu đẫm lệ và Người phán rằng: Hỡi ái nữ của Cha, con xem Cha dành cho chúng biết bao cảm thương. Con nên biết rằng chính các trẻ thơ là những người đỡ nâng thế giới.

 

287      + Lạy Chúa Giêsu của con, khi nhìn vào cuộc sống của các linh hồn, con thấy nhiều người phụng sự Chúa với thái độ nghi nan. Có những lúc, nhất là khi gặp cơ hội để tỏ lòng mến Chúa, con thấy họ trốn chạy khỏi chiến trường. Và một lần nữa Chúa Giêsu lại phán với tôi: Hỡi con nhỏ của Cha, con cũng muốn sống như vậy hay sao? Tôi thưa rằng: “Lạy Chúa Giêsu của con, con sẽ không trốn khỏi chiến trường, mặc dù mồ hôi tử khí ướt đẫm trán con; con sẽ không để thanh gươm vuột rớt khỏi tay cho đến khi được an nghỉ bên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh!”. Dù làm bất cứ việc gì, tôi cũng không cậy vào sức riêng, nhưng vào ơn Chúa. Với ơn Chúa giúp, một linh hồn có thể vượt thắng những tân toan gian khổ nhất.

 

288      (127) + Một lần kia, khi đang mải miết thưa chuyện với Chúa Giêsu về các học sinh của chúng tôi, được khích lệ nhờ lòng nhân ái của Người, tôi hỏi: “Trong số các học sinh của chúng con đây, Chúa có tìm được niềm an ủi nào không?”. Chúa trả lời - Có, nhưng tình yêu của họ sơ sài, và vì thế Cha trao họ cho sự chăm sóc ân cần của con - con hãy cầu nguyện cho họ.

 

            Ôi Thiên Chúa chí tôn, con chiêm ngắm lòng nhân lành Chúa! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh trên trời, vậy mà Chúa lại tự hạ thẳm sâu đến với các thụ tạo đớn hèn của Chúa. Ôi, con khát khao nồng nàn biết bao được yêu mến Chúa bằng mọi nhịp đập của trái tim con! Cả địa cầu này không đủ cho con, bầu trời cũng quá nhỏ, và thinh không bất tận cũng chẳng là gì đối với con; thế nhưng một mình Chúa đã đủ cho con rồi, lạy Thiên Chúa Hằng Hữu! Chỉ mình Chúa có thể lấp đầy những vực sâu của linh hồn con.

 

289      Những giây phút hạnh phúc nhất của tôi là những khi được sống một mình với Thiên Chúa. Trong những giây phút ấy, tôi cảm nhận được sự cao trọng của Chúa và nỗi đớn hèn của mình.

 

            Một lần kia, Chúa Giêsu nói với tôi: Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Cha đã từng uống chén đau khổ bất công này trước vì yêu con.

 

290      Lần kia, trong lúc hết sức xúc động vì nghĩ đến cõi đời đời và những mầu nhiệm nơi đó, linh hồn tôi trở nên sợ hãi; và khi suy thêm một lúc nữa, tôi bắt đầu hoảng hốt trước những mối nghi nan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán với tôi: Hỡi con nhỏ của Cha, con đừng lo sợ về vấn đề nhà của Cha con. Con hãy để mặc những thắc mắc vô ích này cho những bậc thông thái thế giới. Cha muốn con luôn luôn là một con trẻ. Con hãy hỏi cha giải tội về mọi sự với lòng đơn thành, và Cha sẽ giải đáp cho con qua môi miệng của ngài.

 

291      Vào một dịp kia, tôi thấy một người sắp phạm tội trọng. Tôi xin Chúa trút xuống cho tôi những cực hình khốn khó nhất để linh hồn kia được cứu thoát. (128) Khi ấy, tôi đột nhiên cảm nghiệm nỗi đau đớn kinh khủng của mạo gai trên đầu. Việc này kéo dài khá lâu, nhưng người kia đã được vững vàng trong ơn nghĩa Chúa. Lạy Chúa Giêsu của con, nên thánh thật dễ dàng biết bao; tất cả những gì cần thiết chỉ là một chút thiện chí. Nếu Chúa Giêsu nhìn thấy chút thiện chí nơi linh hồn, Người sẽ vội vã hiến mình cho họ và không gì có thể cản ngăn Người được, dù là các khuyết điểm hay sa ngã - tuyệt đối không có gì. Chúa Giêsu nóng lòng giúp đỡ linh hồn, và nếu trung thành với ơn Chúa giúp, họ có thể nhanh chóng đạt đến bậc trọn lành cao nhất mà một thụ tạo trần gian có thể đạt được. Thiên Chúa rất quảng đại và không từ chối ơn Người với bất kỳ ai. Thực vậy, Người ban phát nhiều hơn những gì chúng ta xin. Trung thành với những soi động của Chúa Thánh Thần chính là con đường vắn tắt nhất.

 

292      + Khi thành tâm mến Chúa, linh hồn không nên sợ hãi gì trong đời sống thiêng liêng. Hãy vâng theo hoạt động của ơn thánh và đừng đặt ra các giới hạn cho mình trong việc kết thân với Chúa.

 

293      + Khi Chúa Giêsu làm linh hồn tôi mê say vẻ tuyệt mỹ của Người và cuốn hút tôi đến với Người, khi đó, tôi nhìn ra những gì nơi linh hồn tôi không đẹp lòng Người và tôi quyết tâm loại bỏ, cho dù phải trả bất cứ giá nào; và với ơn Chúa giúp, tôi đã dứt bỏ được ngay. Thái độ hào hiệp này làm đẹp lòng Chúa, và kể từ giây phút ấy, Thiên Chúa bắt đầu ban cho tôi những ân sủng trọng đại hơn nữa. Trong đời sống nội tâm, tôi không bao giờ lý sự; không soi mói những đường lối Thánh Thần Chúa hướng dẫn tôi. Đối với tôi, biết rằng mình được yêu và mình cũng yêu lại là đủ rồi. Tình yêu tinh ròng làm tôi hiểu biết Thiên Chúa và hiểu được nhiều mầu nhiệm. Cha giải tội là sứ ngôn cho tôi. Lời ngài hết sức linh thánh đối với tôi - tôi đang nói về cha linh hướng của tôi [cha Sopocko].

 

294      + Một lần kia Chúa phán với tôi: Con hãy hành xử như một người hành khất không bỏ đi khi nhận được của bố thí nhiều hơn [những gì mình xin], nhưng cảm ơn một cách nồng nhiệt hơn. Con đừng quay lưng nói rằng con không xứng đáng nhận những ơn trọng đại Cha ban. Cha biết con bất xứng, nhưng con càng phải vui mừng và lãnh nhận tất cả những kho tàng (129) mà sức con có thể nhận được từ Trái Tim Cha, và như thế con sẽ làm đẹp lòng Cha hơn. Cha cho con biết thêm một điều: con hãy lãnh nhận các ân sủng này không chỉ cho con, mà còn cho tha nhân nữa; tức là con hãy khuyến khích những ai tiếp xúc với con hãy tín thác vào Lòng Thương Xót vô cùng của Cha. Ôi, Cha yêu thương những linh hồn nào hết lòng tín thác nơi Cha. Cha sẽ làm tất cả cho họ.

 

295      + Lúc đó, Chúa Giêsu hỏi tôi: Hỡi con nhỏ của Cha, cuộc tĩnh tâm của con thế nào? Tôi thưa: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết thế nào rồi mà”. Đúng, Cha biết, nhưng Cha muốn nghe điều ấy từ môi miệng và tâm hồn của con. “Lạy Tôn Sư của con, khi Chúa hướng dẫn thì mọi sự đều êm xuôi, vậy xin Chúa đừng bao giờ lìa bỏ con”. Chúa Giêsu lại đáp: Được, Cha sẽ ở mãi bên con, nếu con vẫn luôn là một con trẻ và không sợ gì. Ở đây, Cha là khởi sự của con thế nào, Cha cũng sẽ là kết thúc của con như vậy. Con đừng cậy dựa vào các tạo vật, ngay cả trong những điều nhỏ mọn nhất, bởi vì như thế là phật lòng Cha. Cha muốn độc tôn trong linh hồn con. Cha sẽ ban ánh sáng và sức mạnh cho linh hồn con; và qua vị đại diện của Cha, con sẽ biết Cha ở trong con, và sự nghi nan của con sẽ biến tan như làn sương trước những tia sáng mặt trời.

 

296      + Ôi Đấng Toàn Thiện Tối Cao, con muốn yêu mến Chúa như chưa từng có ai trên trần gian này đã mến yêu Chúa như vậy! Con muốn tôn thờ Chúa trong mọi giây phút cuộc đời và liên kết ý chí của con mật thiết với thánh ý Chúa. Cuộc đời con không ảm đạm hoặc đơn điệu, nhưng kỳ ảo như thửa vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, thành ra con không biết hái bông hoa nào trước, hoa huệ khổ đau, hoa hồng yêu mến tha nhân, hoặc hoa đổng thảo khiêm nhượng. Con không sao kể hết những kho tàng đầy dẫy mà mỗi ngày con đều có được. Biết tận dụng giây phút hiện tại là một điều vĩ đại.

 

297      + Lạy Chúa Giêsu, Sự Sáng Tối Cao, xin ban cho con ơn biết mình và soi thấu linh hồn tăm tối của con bằng ánh sáng của Chúa, xin lấp đầy vực thẳm linh hồn con bằng chính Chúa, vì chỉ một mình Chúa [...].

 

298      Lạy Chúa Giêsu của con, Chúa là Sự Sống, là Đường, là Chân Lý, con nài xin Chúa ghì chặt con sát bên Chúa như một bà mẹ ấp ủ con nhỏ trong lòng, vì con không những là một đứa trẻ yếu đuối, mà còn là một đống khốn nạn và hư vô.

 

            (130)    + Mầu nhiệm của Linh Hồn     

 

                                    Vilnius, 1934

 

299      Một lần nọ, cha giải tội bảo tôi hỏi Chúa Giêsu về ý nghĩa hai luồng sáng trong bức hình, [31] và tôi trả lời: “Vâng, con sẽ hỏi Chúa”.

 

            Thế rồi trong giờ cầu nguyện, tôi đã được nghe những lời sau đây trong tâm hồn: Hai luồng sáng biểu thị Máu và Nước. Luồng sáng màu lam nhạt tượng trưng Nước làm cho linh hồn nên công chính. Luồng sáng màu đỏ tượng trưng Máu là sức sống của các linh hồn...

 

            Hai luồng sáng này phát xuất từ lòng xót thương dịu hiền sâu thẳm của Cha lúc Trái Tim thống khổ của Cha bị lưỡi đòng mở ra trên thập giá.

 

            Những luồng sáng này che chở các linh hồn cho khỏi cơn nghĩa nộ của Cha Cha. Phúc cho linh hồn nào cư ngụ trong nơi nương náu của họ, vì bàn tay công thẳng Thiên Chúa sẽ không đè nặng trên họ. Cha mong ước Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh sẽ là đại lễ kính Lòng Thương Xót Cha.

 

300      + Con hãy yêu cầu tôi tớ trung thành của Cha [cha Sopocko] trong ngày ấy hãy nói cho toàn thế giới về Lòng Thương Xót hải hà của Cha; ngày hôm ấy, bất kỳ ai đến với Nguồn Mạch Sự Sống sẽ hoàn toàn được xoá sạch tội lỗi và hình phạt.

 

            + Nhân loại sẽ không được bình an cho đến khi nào quay về với Lòng Thương Xót của Cha với niềm tín thác.

 

            + Ôi, Cha đã phải đau đớn biết bao vì sự nghi ngờ của một linh hồn! Họ tuyên nhận Cha là Đấng Thánh Thiện và Công Bằng, nhưng không tin Cha là Tình Thương và không tin vào lòng nhân lành của Cha. Đến như ma quỷ cũng tán dương ưu phẩm công bằng của Cha, nhưng chúng không tin vào lòng nhân lành của Cha.

 

Về đầu trang

[1] Chị Faustina khi ấy đang là một thỉnh sinh, làm việc tại nhà bếp cùng với chị Marcianna Oswiecimska. Trước khi ra ngoài, chị Marcianna Oswiecimska bảo Helen rửa chén đĩa rồi cất đi. Helen (tức là chị Faustina sau này) làm việc ấy, nhưng vì một số chị em dùng bữa sau thỉnh thoảng lại đến nhờ Helen dọn bữa cho họ hoặc giúp làm điều gì. Helen không muốn từ chối nên đã phục vụ từng người, và vì thế đã không làm trọn công việc được giao. Khi chị Marcianna trở về và thấy chén đĩa chưa được thu dọn, chị tưởng Helen đã bỏ qua lời dặn của mình nên bắt Helen ngồi trên bàn để đền tội trong khi chính chị làm công việc ấy.

 

Nữ tu Marcianna-Julia Oswiecimska sinh năm 1897. Chị vào dòng năm 1919, phục vụ công tác nội thiện trong nhiều năm. Chị là một người năng động, hay yêu sách, nhưng rất yêu thương người chung quanh (Hồ sơ nữ tu Marcianna).

 

[2] Chỉ các bề trên mới có quyền ban lệnh “với hiệu lực lời khấn vâng phục” trong những vấn đề hệ trọng. Nữ tu Marcianna không có quyền truyền lệnh và chắc chắn đã không làm như thế. Chị bắt Faustina ngồi trên bàn như một việc đền tội mà thôi. Helen ngạc nhiên trước hình thức đền tội này và lưỡng lự vâng theo. Khi ấy, nữ tu Marcianna mới hỏi chị thỉnh sinh: “Này Helen, chị vâng lời như thế à?”. Câu chất vấn này đã bị Faustina hiểu lầm là một lệnh truyền “với hiệu lực lời khấn vâng phục” (Hồ sợ nữ tu Marcianna).

 

[3] Tại một số tu viện, kể cả nhà Warsaw ở phố Zytnia, các nữ tu thường có phiên coi nhà đêm. Các nữ tu trực phiên sẽ đi quanh nhà, chiếu đèn khắp sân, và kiểm soát các cửa sổ để canh chừng trộm cắp đột nhập.

 

[4] Đây là tên phổ biến của các nữ tu dòng thánh Phanxicô Gia Đình Đức Mẹ, một hội dòng do Đức Tổng Giám mục Felinski thành lập vào năm 1857. Trụ sở nhà mẹ của dòng này tại Warsaw, ở phố Zelazna, bên cạnh trụ sở nhà mẹ của dòng Đức Mẹ Nhân Lành.

 

[5] X. chú thích số 7.

 

[6] Có lẽ chị thánh thay thế nữ tu Modest Rzeczkowska đang bị bệnh và phải đi điều trị tại Warsaw (Hồ sơ nữ tu Pelagia).

 

[7] Mọi nữ tu đều dành ngày đầu tháng để tuyên lại lời khấn, gọi là ngày tĩnh tâm. Trong ngày đó không có giờ giải trí. Các nữ tu giữ thinh lặng và phải làm một giờ nguyện gẫm, viếng đường Thánh Giá, hồi tâm tháng, và suy ngắm nửa giờ về sự chết. (x. hiến pháp dòng Đức Mẹ Nhân Lành).

 

[8] Hằng tháng, mỗi tập sinh phải dùng một ngày do vị giám tập chỉ định gọi là ngày thập tự chinh. Vào ngày ấy, các tập sinh buộc phải giữ thinh lặng nhiều hơn và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, xin vị giám tập thêm việc khổ chế, và dâng tất cả mọi công việc, lời cầu nguyện, và đau khổ cho Chúa Giêsu để đền tạ thay cho các tội nhân. Một số nữ tu vẫn giữ việc lành này sau khi đã rời tập viện.

 

[9] Chị Faustina để bốn trang trắng. Có lẽ chị định sau đó sẽ viết lại, và ghi vào đó một số kinh nghiệm đã qua, nhưng rồi đã không viết gì cả.

 

[10] Kỳ thử thứ ba là giai đoạn các nữ tu dọn mình vĩnh thệ. Trong dòng Đức Mẹ Nhân Lành, thời gian này kéo dài năm tháng. Đầy Tớ Chúa sống kỳ thử thứ ba vào năm 1932/1933 tại Warsaw. Vị phụ trách là Mẹ Margaret Gimbutt.

 

[11] Walendow, một nhà của dòng Đức Mẹ Nhân Lành, cách Warsaw 20 cây số. Tại đó, các nữ tu có một nhà dành cho các thiếu nữ. Vào năm 1936, theo lời đề nghị của Bộ Pháp Lý, một trung tâm phục hồi nhân phẩm cho những người vi phạm lần đầu (các thiếu nữ và phụ nữ) đã được thiết lập tại đó. Ngoài thời gian tĩnh tâm, chị Faustina còn ngụ tại Walendow từ ngày 5 tháng 3 cho đến tháng 5 năm 1936.

 

[12] Tuần tĩnh tâm do cha Edmund Elter, dòng Tên, phụ trách. Ngài sinh ngày 14 tháng 11 năm 1887. Ngài nhập dòng Tên ngày 15 tháng 7 năm 1905. Với thiên khiếu đặc biệt, ngài nghiên cứu các khoa nhân văn, thần học, và (năm 1919-1920) luật quốc tế tại viện đại học Warsaw. Sau đó, ngài còn học tại Rôma và Pháp. Năm 1926, ngài làm giáo sư luân lý học tại viện đại học Gregorianum ở Rôma. Từ năm 1932 đến năm 1935, ngài sống tại Warsaw, sau đó trở về Rôma dạy môn giảng thuyết và tu từ. Ngài qua đời tại Rôma ngày 27 tháng 8 năm 1955.

 

[13] Trung tâm của một khu đất cũ cách Walendow một cây số, nơi đây dòng Đức Mẹ Nhân Lành có một khu nhà dành cho các trẻ em. Cơ sở này có là do công chúa Czetwertynska đã dâng cúng cho nhà dòng một thửa đất trồng trọt, khu rừng, và một vài nhà trại dành cho các trẻ em gặp nguy cơ về luân lý. Khu nhà ấy vẫn được bề trên nhà Walendow điều hành, nhưng đến năm 1947 thì trở thành một nhà tự lập (Lịch sử dòng Đức Mẹ Nhân Lành).

 

[14] “Nhà may” tức là nhà kho chứa y phục vải vóc của các nữ tu, kể cả một phòng may vá. Nhiệm vụ của các nữ tu làm việc ở đây là may y phục và khăn vải, vá sửa và phân phát y phục cho các nữ tu do phòng giặt ủi gởi đến, đồng thời cung cấp những trang phục cần thiết cho các nữ tu.

 

[15] Vào thời ấy, các nữ tu dòng Đức Mẹ Nhân Lành được chia làm hai thành phần, được gọi là tụng sĩ và trợ sĩ. Các nữ tu được chia do quyết định của ban quản trị dòng dựa trên trình độ kiến thức, tuổi tác và khả năng của từng phần tử. Nhiệm vụ của các tụng sĩ là điều hành nhà dòng và các cơ sở phục hồi của dòng. Các trợ sĩ làm những việc lao công và phụ giúp các tụng sĩ, nhất là trong lãnh vực lao động tay chân (Hiến pháp dòng Đức Mẹ Nhân Lành).

 

[16] “Đai sắt” là một loại thắt lưng làm bằng mắt lưới kim loại nhẵn, được dùng làm hình cụ khổ chế. Các nữ tu có thể đeo đai này nếu được phép của bề trên, trong một thời gian hạn định.

 

[17] Phía bên kia “nhà nguyện nhỏ” là phòng hội, nơi diễn ra các phiên hội của cộng đoàn.

 

[18] “Giờ giải trí” là thời gian cho các nữ tu giải trí sau giờ làm việc.

 

[19] Em gái của chị Faustina là Wanda Kowalska sinh năm 1920. Theo lời bà Josephine Jasinska nee Kowalska, chị cả của chị Faustina cho biết, trước thời kỳ Thế Chiến II, Wanda có vào dòng thánh nữ Ursuline. Trong thời gian chiến tranh, Wanda bị bắt sang Đức làm việc lao công cưỡng bức, sau đó không về Ba Lan, nhưng lập gia đình với một người Anh, và sang Anh với chồng. Người chồng nhập ngũ và tử nạn. Wanda trở về Ba Lan, nhưng quay lại Anh chỉ sau vài ngày vì tình hình chính trị lúc ấy. Vài năm sau, nhờ một linh mục, gia đình biết tin Wanda bị bệnh nặng và được đưa vào bệnh viện. Từ đó, gia đình không biết tin gì về Wanda nữa.

 

[20] Có lẽ chỉ là một cha giải tội bình thường ở Warsaw.

 

[21] Phép đoán là phép để một tu sĩ có thể làm một hành vi tuy bề trên không biết, nhưng giả định bề trên sẽ cho phép làm việc ấy.

 

[22] Các nữ tu sống thời gian thử thứ ba tại khu tập viện, và kết thúc giai đoạn khấn tạm.

 

[23] Áo choàng - một tấm vải màu đen lớn có hình thánh giá trắng ở giữa. Theo nghi thức của dòng Đức Mẹ Nhân Lành, trước khi khấn trọn, các nữ tu nằm sấp trước bàn thờ và được phủ áo choàng tượng trưng việc chết cho thế gian. Trong lúc ấy, các nữ tu đọc thánh vịnh 129 và đánh chuông báo tử. Vị chủ tế, thường là một vị Giám mục, rẩy nước phép trên các nữ tu ấy và đọc lời: “Hãy chỗi dậy, hỡi các con là những người đã chết cho thế gian, và Chúa Giêsu sẽ soi sáng cho các con”.

 

[24] Có lẽ ở đây chị Faustina nói về cha Elter, dòng Tên, người trong tuần tĩnh tâm trước kỳ thử thứ ba đã giúp chị được bình an và khuyến khích chị trung thành với ơn Chúa.

 

[25] X. Chú thích số 32.

 

[26] Trong dòng Đức Mẹ Nhân Lành có tục lệ là mỗi tháng, các nữ tu đều đến gặp bề trên để xin phép: làm những việc hãm mình nhỏ; đọc thêm kinh; tự do sử dụng một vài vật dụng; chước chuẩn một đôi điều trong luật dòng mà họ tạm thời không thể giữ được; và nhiều điều khác tuỳ nhu cầu từng cá nhân.

 

[27] Đức Giám mục Rospond là một người bạn rất thân của dòng Đức Mẹ Nhân Lành, trong nhiều năm ngài đã chủ tế các nghi thức mặc áo dòng, tuyên khấn, cử hành thánh lễ và giảng thuyết trong những dịp ấy. Trong nghi thức mặc áo dòng, ngài trao áo dòng và lúp cho thỉnh sinh; trao thắt lưng, tràng hạt, tượng thánh giá, và lúp đen cho tập sinh; trao nến sáng và nhẫn như một dấu chỉ hôn ước vĩnh viễn với Chúa Giêsu cho nữ tu khấn tạm (x. 12).

 

[28] Các tu sĩ dòng Tên có kỳ tĩnh tâm dài ba mươi ngày trong thời kỳ thử thứ ba, trước khi vĩnh thệ.

 

[29] Bề trên tại Czestochowa lúc bấy giờ là Mẹ Seraphina Kukulska. Nữ tu Seraphina (khi chịu phép Thánh Tẩy được đặt tên là Salomea) sinh ngày 30 tháng 11 năm 1873. Mẹ vào dòng ngày 18 tháng 7 năm 1894. Mẹ ở trong nhóm phụ trách và sau đó làm bề trên tại Cracow, Czestochowa, Walendow. Nữ tu Seraphina qua đời ngày 10 tháng 6 năm 1964 (A. SMDM-C & D).

 

[30] Chương trình huấn luyện các nữ tu dòng Đức Mẹ Nhân Lành dựa theo tinh thần khổ chế của thánh Inhaxiô Lôdôla, chia nhân đức khiêm nhượng làm ba cấp độ.

 

[31] Bức hình tại Vilnius là do hoạ sĩ Eugene Kazimierowski thực hiện (x. chú thích 1)

 

XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV

PHẦN III: số 301-450

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

 

Chủ nhật - 25/06/2017 21:53

 

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA Phấn III: số 301-450

Trái Tim Cha sung sướng với tước hiệu Thương Xót.

301      Con hãy công bố Lòng Thương Xót là ưu phẩm vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Tất cả mọi công trình tay Cha thực hiện đều được tôn vinh với Lòng Thương Xót.

302      (131) + Ôi Tình Yêu Hằng Hữu! Con ước mong tất cả các linh hồn Chúa đã tạo dựng đều nhận biết Chúa. Con muốn làm một linh mục để không ngừng rao giảng lòng xót thương Chúa cho các linh hồn tội lỗi đang chìm đắm trong tuyệt vọng. Con muốn làm một thừa sai để đem ánh sáng đức tin đến cho các quốc gia man di, hầu giúp các linh hồn được nhận biết Chúa, con muốn hoàn toàn bị tiêu huỷ vì họ và chết như một vị tử đạo, như Chúa đã chịu chết cho họ và cho con. Ôi Chúa Giêsu, con biết rất rõ con có thể làm một linh mục, một thừa sai, một nhà giảng thuyết, và có thể chết như một đấng tử đạo bằng cách hoàn toàn huỷ mình và bỏ mình vì yêu mến Chúa và các linh hồn bất tử, ôi Chúa Giêsu.

303      Tình yêu vĩ đại có thể biến đổi những điều nhỏ mọn thành những điều vĩ đại, và chỉ có tình yêu mới đem lại giá trị cho các hành động của chúng ta. Tình yêu chúng ta càng trở nên tinh ròng, những ngọn lửa đau khổ trong chúng ta càng yếu ớt, và đau khổ sẽ không còn là đau khổ đối với chúng ta nữa, nhưng sẽ trở thành một niềm vui! Nhờ ơn Chúa, tôi đã có một tâm tình: không bao giờ được hạnh phúc cho bằng khi được chịu đau khổ vì Chúa Giêsu, Đấng tôi yêu mến bằng mọi nhịp đập của trái tim.

            Một lần kia, giữa lúc đang đau khổ dữ dội, tôi tạm ngưng công việc, chạy đến với Chúa Giêsu và xin Người ban cho tôi sức mạnh của Người. Sau một lúc cầu nguyện, tôi trở về với công việc, lòng đầy sốt sắng và hân hoan. Lúc đó, một người chị em [có lẽ chị Justine] nói với tôi: “Này chị, ắt là hôm nay chị được nhiều an ủi; trông chị thật rạng rỡ. Chắc chắn Thiên Chúa không để chị phải chịu một đau khổ nào, nhưng toàn là những an ủi”. Tôi đáp lại: “Chị ơi, chị bị lầm lẫn lắm thay, bởi vì chính lúc đau khổ chất ngất thì niềm vui của em càng mênh mang; và khi đau khổ sơ sài, thì niềm vui của em cũng nhỏ bé”. Tuy nhiên, linh hồn này đã làm tôi nhận ra chị ấy chẳng hiểu về những điều tôi nói. Tôi đã ráng giải thích cho chị ấy hiểu rằng, khi chịu nhiều đau khổ, chúng ta có cơ hội tuyệt vời để minh chứng với Chúa rằng chúng ta yêu mến Người; còn khi chịu ít đau khổ, chúng ta cũng có ít cơ hội để minh chứng tình yêu của chúng ta dành cho Chúa; và khi không có đau khổ, lúc đó tình yêu chúng ta không lớn lao mà cũng chẳng tinh ròng. Nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể đạt đến chỗ đau khổ sẽ trở thành niềm vui cho chúng ta, bởi vì tình yêu có thể làm được những điều như thế trong các linh hồn thanh sạch.

304      (132) + Lạy Chúa Giêsu, niềm hy vọng độc nhất của con, con xin cám tạ Chúa vì quyển sách Chúa đã mở ra trước mắt linh hồn con. Quyển sách đó là cuộc Tử Nạn Chúa đã chịu vì yêu thương con. Chính từ quyển sách này mà con đã học biết cách yêu mến Chúa và các linh hồn. Trong quyển sách này, chúng con tìm được những báu tàng bất tận cho mình. Lạy Chúa Giêsu, thật quá ít linh hồn hiểu được Chúa trong cuộc Tử nạn vì yêu này! Ôi, vĩ đại thay ngọn lửa tình yêu tinh ròng đang bừng cháy nơi Trái Tim chí thánh của Chúa! Hạnh phúc cho linh hồn nào đến được chỗ hiểu biết tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu!

305      Ước nguyện lớn nhất của con là mong cho các linh hồn nhận biết Chúa là hạnh phúc muôn đời của họ, để họ biết tin vào lòng nhân lành và tôn vinh lòng lân tuất vô bờ của Chúa.

306      Tôi đã xin Chúa ban cho tôi ơn để cho bản tính của tôi được thoát khỏi và chống lại các ảnh hưởng thỉnh thoảng vẫn lôi kéo tôi xa khỏi tinh thần luật dòng và những quy định nhỏ mọn. Những lỗi phạm sơ sài này giống như những con mối nhỏ bé phá hoại đời sống tinh thần của chúng ta, và chắc chắn chúng sẽ làm được nếu như linh hồn nhận ra nhưng lại coi chúng là những thứ nhỏ mọn. Tôi không thấy có điều gì là nhỏ mọn trong đời tu cả. Có hệ gì nếu như thỉnh thoảng tôi lại trở thành đối tượng của sự bực mình và trò chế giễu, miễn là tinh thần của tôi phù hợp với tinh thần luật dòng, các lời khấn, và những quy định về bậc tu trì.

            Lạy Chúa Giêsu, niềm hoan lạc của trái tim con, Chúa biết những khát vọng của con. Con muốn được tránh khỏi cái nhìn người đời để trở nên một người đang sống mà như không còn sống nữa. Con muốn sống nguyên tuyền như một bông hoa hoang dại; con muốn tình yêu của mình luôn được quy hướng về Chúa, như một bông hoa lúc nào cũng hướng về thái dương. Con muốn hương thơm và vẻ tươi mát của bông hoa lòng con luôn dành cho một mình Chúa. Con muốn sống dưới ánh nhìn thần linh của Chúa, bởi lẽ một mình Chúa đã đủ cho con. Lạy Chúa Giêsu, khi được ở bên Chúa, con không sợ hãi gì, vì không gì có thể làm hại được con.

307      (133)                + 1934

            Một lần kia, trong mùa Chay, tôi nhìn thấy một luồng sáng rạng ngời và một khối đen lớn trên khu nhà và nhà nguyện. Tôi nhìn thấy cuộc tranh đấu của hai thế lực này...

308                  Thứ Năm tuần Thánh năm 1934.

            Chúa Giêsu phán với tôi: Cha ước mong con hãy hiến thân vì các tội nhân, nhất là vì các linh hồn đã mất cậy trông vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Thiên Chúa và Các Linh Hồn. Hành Vi Dâng Hiến.

309      Trước toàn thể trời đất, trước tất cả ca đoàn các thiên thần, trước Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria, trước tất cả các quyền thần thiên quốc, trong sự kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ các linh hồn, con tuyên xưng với Thiên Chúa Ba Ngôi xin thực hiện một hành vi tự nguyện hiến thân để cầu cho các linh hồn được hoán cải, nhất là các linh hồn đã mất cậy trông vào Lòng Thương Xót Chúa. Lễ dâng này chính là việc con chấp nhận - trong tinh thần hoàn toàn suy phục thánh ý Chúa - tất cả những khổ đau, ưu tư, và hoảng sợ mà các tội nhân đang phải gánh chịu. Để đổi lại, con nhường cho họ tất cả những an ủi linh hồn con nhận được nhờ sự kết hợp với Chúa. Tóm lại, con xin dâng hiến tất cả vì họ: các thánh lễ, hiệp lễ, những việc đền tội, các hành vi khổ chế, những kinh nguyện. Con không sợ những đòn phạt do phép công thẳng Thiên Chúa vì con được kết hiệp với Chúa Giêsu. Ôi Thiên Chúa của con, bằng cách đó, con muốn đền tạ Chúa thay cho những linh hồn không tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa. Con cậy trông mù quáng nơi đại dương lòng lành của Chúa. Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con, phần phúc của con - phần phúc muôn đời của con, con không thực hiện hành vi tự hiến này dựa trên sức mạnh của riêng con, nhưng trên sức mạnh trào tràn từ nguồn công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô. Hằng ngày, lạy Chúa Giêsu, con sẽ lặp lại hành vi dâng hiến này bằng cách đọc lại lời kinh mà Chúa đã dạy con sau đây:

            Kính lạy Máu và Nước đã tuôn trào từ Trái Tim Chúa Giêsu như nguồn mạch thương xót chúng con, con tín thác nơi Chúa.

Nữ tu Maria Faustina phép Thánh Thể,

Thứ Năm tuần Thánh, trong thánh lễ, ngày 29.3.1934

310      (134) - Cha sẽ cho con tham dự vào công cuộc cứu độ nhân loại. Con là niềm an ủi trong giờ hấp hối của Cha.

311      Khi được cha giải tội [cha Sopocko] ban phép thực hiện hành vi tự hiến, tôi biết ngay điều ấy rất đẹp lòng Chúa, vì tôi cảm nghiệm ngay được những hiệu quả của nó. Thoáng chốc, linh hồn tôi đã trở nên như một tảng đá - khô cằn, chất chứa những cực hình và bất an. Mọi lời lộng ngôn và nguyền rủa cứ trút vào tai tôi. Nỗi nghi ngờ và tuyệt vọng xâm chiếm lòng tôi. Đây là thảm trạng của một kẻ đáng thương mà tôi đã tự tình gánh lấy. Lúc đầu, tôi rất hoảng sợ vì những điều kinh hãi ấy, nhưng trong lần xưng tội sau đó, tôi đã được bình an.

312      + Một lần kia, khi rời tu viện để đi xưng tội [tại nhà thờ thánh Micae], tôi tình cờ gặp cha giải tội của tôi [cha Sopocko] lúc ấy đang dâng lễ tại đó. Sau một lúc, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng trên bàn thờ, vui đùa, nghịch ngợm giơ tay cho vị linh mục. Nhưng một lúc sau, vị linh mục lại bồng Chúa Giêsu xinh xắn trên tay, bẻ Người ra và nuốt sống. Lúc đầu, tôi cảm thấy khó chịu vì vị linh mục đã xử như thế với Chúa Giêsu, nhưng ngay sau đó, tôi được soi sáng về vấn đề và hiểu rằng vị linh mục này rất đẹp lòng Chúa.

313      + Một lần kia, khi đếm thăm viếng hoạ sĩ [ông Eugene Kazimierowski] đang thực hiện bức vẽ và thấy không đẹp được như Chúa Giêsu, tôi cảm thấy rất buồn nhưng ráng chôn chặt cảm xúc ấy trong lòng. Khi chúng tôi từ nhà hoạ sĩ ra về, Mẹ Bề Trên [Irene] còn lưu lại thị trấn để lo liệu một vài công việc, còn tôi một mình trở về nhà dòng. Tôi liền ghé vào nhà nguyện và thổn thức rất nhiều. Tôi thưa với Chúa: “Ai sẽ vẽ Chúa cho đẹp giống như Chúa đây?”. Và tôi nghe những lời sau: Sự cao quý của bức hình này không hệ ở nét đẹp của màu sắc hay của bút vẽ, nhưng ở ân sủng Cha ban.

314      + Khi tôi ra vườn vào một buổi chiều kia, thiên thần Bản Mệnh nói với tôi: “Chị hãy cầu nguyện cho người hấp hối”. Và tôi liền lần hạt Mân Côi cùng với các người làm vườn để cầu cho người hấp hối. Sau khi lần hạt, chúng tôi đọc thêm những kinh khác cầu cho người hấp hối. Lúc cầu nguyện xong, các người nội trú bắt đầu tán gẫu đùa cợt với nhau.(135) Mặc dù có âm thanh ồn ào của mọi người, tôi vẫn nghe được những lời này trong linh hồn: “Cầu cho tôi với!”. Nhưng vì không hiểu ra những lời này, tôi liền đi thêm vài bước nữa cho khỏi các người nội trú, cố nghĩ xem ai đang xin mình cầu nguyện. Khi đó, tôi lại nghe: “Tôi là nữ tu...” [1] Chị này đang ở Warsaw, trong lúc tôi ở tại Vilnius. “Xin cầu cho tôi cho đến khi nào tôi báo cho chị thôi. Tôi đang hấp hối”. Lập tức, tôi lại cầu nguyện tha thiết cho chị, [thân thưa] với Trái Tim hấp hối của Chúa Giêsu. Chị ấy không cho tôi trì hoãn chút nào cả, và tôi tiếp tục cầu nguyện từ ba giờ cho đến năm giờ. Đúng năm giờ chiều, tôi nghe những lời này: “Cám ơn chị!”. Và tôi hiểu rằng chị đã qua đời. Nhưng trong thánh lễ ngày hôm sau, tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện tha thiết cho linh hồn chị. Vào buổi chiều, một thiệp tang báo tin rằng chị... đã qua đời vào đúng giờ như thế như thế. Tôi hiểu rằng chính vào giờ đó chị đã nói với tôi, “Xin cầu cho tôi”.

315      Lạy Mẹ Thiên Chúa, linh hồn Mẹ đã chìm ngập trong biển đắng cay; xin nhìn đến và dạy cho đứa con nhỏ của Mẹ chịu đau khổ và yêu mến trong lúc đau khổ. Xin Mẹ thêm sức mạnh cho linh hồn con khỏi bị tan nát trong nỗi đau này. Lạy Mẹ ân sủng, xin dạy con biết sống nhờ [quyền năng] Chúa.

316      Một lần kia, Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi. Mẹ rất buồn phiền. Mắt Mẹ trĩu nặng. Mẹ có vẻ muốn nói một điều gì đó, nhưng một đàng như thể lại không muốn tiết lộ điều ấy cho tôi. Khi hiểu ra, tôi bắt đầu khẩn nài Mẹ Thiên Chúa hãy cho tôi biết và hãy thương nhìn tôi. Chỉ lúc đó, Mẹ Maria mới nhìn tôi với một nụ cười đôn hậu và nói: Con sắp sửa phải trải qua những đau khổ do một cơn bệnh và các bác sĩ; con cũng sẽ phải đau khổ nhiều vì bức hình, nhưng con đừng sợ hãi gì cả. Ngày hôm sau, tôi ngã bệnh và rất đau đớn, đúng như Mẹ Thiên Chúa đã tiên báo cho tôi. Nhưng linh hồn tôi đã sẵn sàng trước những đau khổ này. Đau khổ là bạn đồng hành thường xuyên của cuộc sống tôi.

317      Lạy Thiên Chúa của con, hy vọng độc nhất của con, con đã đặt trọn niềm tín thác của con nơi Chúa, và con biết rằng con sẽ không phải thất vọng.

318      (136) Tôi thường cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa sau khi rước lễ một cách đặc biệt như thể sờ được. Tôi biết Thiên Chúa đang ngự trong tâm hồn tôi. Và việc tôi cảm hưởng được Chúa trong tâm hồn không làm cản trở các công việc phận sự của tôi. Mặc dù đang phải lo toan nhiều vấn đề rất quan trọng đòi phải tập trung, nhưng tôi không đánh mất sự hiện diện của Chúa trong linh hồn, và vẫn được hợp nhất mật thiết với Người. Với Chúa, tôi đi công tác; với Chúa, tôi đi giải trí; với Chúa, tôi đau khổ; với Chúa, tôi vui mừng; tôi sống trong Chúa và Chúa sống trong tôi. Tôi không bao giờ lẻ loi, vì Chúa là bạn đồng hành thường xuyên của tôi. Người hiện diện với tôi trong từng giây phút. Sự thân tình giữa chúng tôi rất mật thiết, qua mối hợp nhất của máu và sự sống.

Về đầu trang

319                              Ngày 9 tháng 8 năm 1934

            Giờ chầu đêm các ngày thứ Năm. [2] Tôi chầu Chúa từ mười một giờ cho đến nửa đêm. Tôi dâng giờ chầu ấy cầu cho các tội nhân cứng lòng được trở lại, nhất là những người đã mất lòng cậy trông vào lượng từ bi của Chúa. Tôi suy tư rất nhiều vì sao Thiên Chúa đã chịu bao đau khổ và đã tỏ lòng thương yêu dường ấy đối với chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không tin Người yêu thương chúng ta. Lạy Chúa Giêsu, ai có thể hiểu được nông nỗi này? Đấng Cứu Thế của chúng ta phải đau khổ biết bao! Làm sao Chúa có thể làm cho chúng ta tin được vào tình yêu của Người vì đến cái chết của Người vẫn không thuyết phục nổi chúng ta? Tôi đã mời gọi cả thiên đàng hợp cùng tôi mà đền tạ Thiên Chúa vì sự tệ bạc vong ân của các linh hồn.

320      Chúa Giêsu tỏ cho tôi biết những lời nguyện đền tạ rất đẹp lòng Người. Chúa phán với tôi: Lời kinh của một linh hồn khiêm nhượng và mến yêu làm giãn được cơn nghĩa nộ của Cha Cha và kéo xuống cả một đại dương ân phúc. Sau giờ chầu, khi về phòng riêng mới được nửa đường, tôi bị một đàn chó mực kệch cỡm bao vây, gào hú, và hòng nhảy vào xé tôi ra từng mảnh. Tôi nhận ra đây không phải là những con chó thường, nhưng là bầy quỷ dữ. Một đứa căm hờn tru trếu: “Bởi vì đêm nay mày đã giật khỏi chúng tao quá nhiều linh hồn, chúng tao sẽ phân thây mày ra từng mảnh”. Tôi đáp: “Nếu đó là thánh ý của Thiên Chúa rất nhân từ, thì hãy xé tôi ra từng mảnh, vì tôi đáng bị như vậy, nhưng Thiên Chúa vẫn mãi mãi thánh thiện, công bình, và vô cùng thương xót”. Trước những lời đó, bầy quỷ đồng thanh nhao nhao: “Chúng mình chạy đi rỗi, vì nó đâu có lẻ loi; Đấng Toàn Năng ở với nó!”. Và chúng biến mất như bụi mù, như tiếng động ngoài đường, trong khi đó, tôi bình thản tiếp tục đi về phòng, kết thúc bằng bài ca Te Deum và suy tư về Lòng Thương Xót vô cùng khôn thấu của Thiên Chúa.

            (137)                Ngày 12 tháng 8 năm 1934

321      Một cơn bạo bệnh - đau đớn như chết. Đó chưa phải là chết, tức là chưa qua khỏi đời này, nhưng là nếm thử những đớn đau trong giờ chết. Tuy cái chết đưa chúng ta vào cuộc sống đời đời, nhưng dù sao nó cũng đáng sợ. Bỗng nhiên, tôi ngã bệnh, thở hắt ra, và một bóng tối ập đến trước mắt, tứ chi lạnh ngắt, ngạt thở kinh khủng. Ngay cả một phút ngạt thở như thế cũng lâu đến cực kỳ... Rồi tiếp đến là một nỗi sợ hãi kỳ lạ, mặc dù tôi vẫn tín thác. Tôi muốn được chịu các bí tích sau hết, và mặc dù rất ao ước, nhưng tôi cực kỳ khó khăn mới ngỏ ý được. Một người không biết mình đang nói gì; chưa hết điều này đã sang điều kia.

            Ôi, xin Chúa đừng để mọi linh hồn trì hoãn việc xưng tội cho đến giờ sau hết!

            Tôi đã hiểu được năng lực lớn lao trong những lời của linh mục khi rót vào linh hồn người bệnh. Khi hỏi cha linh hướng không biết tôi đã sẵn sàng an tâm ra trước nhan thánh Chúa chưa, tôi đã được trả lời: “Chị có thể hoàn toàn an tâm, không phải ngay lúc này mà thôi, mà còn sau mỗi lần xưng tội hằng tuần”. Ơn thánh trong những lời của linh mục thật trọng đại. Linh hồn tìm được sức mạnh và can trường để chiến đấu.

322      Hỡi hội dòng của tôi, người mẹ của tôi, được sống với mẹ thật ngọt ngào, và càng ngọt ngào hơn nữa là được chết trong mẹ!

323      Sau khi đã được chịu các bí tích sau hết, tôi đã bình phục hoàn toàn. Tôi vẫn ở một mình. Việc này kéo dài chừng nửa tiếng đồng hồ, và rồi xảy đến một đợt tấn công khác; nhưng lần này không mãnh liệt lắm, nhờ vị bác sĩ can thiệp vào.

            Tôi kết hợp những đau khổ bản thân với những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng lên để cầu cho tôi và các linh hồn hoặc tín thác vào lòng nhân lành Thiên Chúa được ơn hoán cải. Bỗng nhiên, trong gian phòng xuất hiện la liệt những hình thù đen đủi hết sức giận dữ và căm hờn với tôi. Một tên trong bọn lên tiếng: “Đồ khốn, mày và cả Người ngự trong mày nữa vì đã tra tay làm khổ chúng tao trong hoả ngục”. Ngay khi tôi vừa cất tiếng: “Và Ngôi Lời đã làm người và ở cùng chúng tôi”, những hình thù ấy bỗng nhiên ù biến mất.

324      Hôm sau, tôi cảm thấy rất yếu ớt, nhưng không đau đớn lắm. Sau hiệp lễ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu như tôi đã từng thấy Người trong một giờ chầu. Ánh nhìn của Chúa xuyên thấu tận đáy linh hồn tôi, ngay một đốm bụi nhỏ nhất cũng không thoát được Người. Và tôi thưa cùng Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, con tưởng Chúa sắp sửa cất con về”. Chúa Giêsu trả lời: Thánh ý Cha chưa được thực hiện đầy đủ nơi con; con vẫn còn phải ở lại thế gian, nhưng không quá lâu đâu. Cha rất thoả nguyện vì lòng tín thác của con, nhưng tình yêu của con phải nồng nàn hơn nữa. (138) Tình yêu tinh ròng đem lại cho linh hồn sức mạnh trong giờ hấp hối. Khi Cha hấp hối trên thập giá, Cha không nghĩ đến mình, nhưng đến các tội nhân đáng thương, và Cha đã cầu nguyện cùng Chúa Cha cho họ. Cha muốn những giây phút cuối cùng đời con cũng hoàn toàn giống như những giây phút cuối cùng của Cha trên thập giá. Chỉ có một giá chuộc duy nhất cho các linh hồn, và đó là sự đau khổ được liên kết với đau khổ của Cha trên thập giá. Tình yêu tinh ròng hiểu được những lời này; tình yêu nhục dục không bao giờ có thể hiểu được.

325                              Năm 1934

            Ngày lễ Mẹ Thiên Chúa Lên Trời, tôi không tham dự thánh lễ được. Bà bác sĩ [3] không cho phép [đi lễ]; nên tôi sốt sắng cầu nguyện tại phòng riêng. Một lúc sau, tôi được nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa, xinh đẹp vô ngần. Mẹ nói với tôi:Con gái của Mẹ, điều Mẹ yêu cầu là con hãy cầu nguyện, cầu nguyện, cầu nguyện cho thế giới, nhất là cho quê hương con. Trong chín ngày, con hãy hiệp lễ để đền tạ và kết hợp bản thân con mật thiết với hiến tế thánh lễ. Trong chín ngày ấy, con sẽ đứng trước Thiên Chúa như một của lễ hiến dâng, mọi nơi, mọi lúc, dù ngày hay đêm, bất kỳ khi nào tỉnh giấc, con hãy cầu nguyện trong thần trí. Trong thần trí, người ta lúc nào cũng có thể lưu lại trong cầu nguyện.

326      Một lần kia, Chúa Giêsu nói với tôi: Ánh nhìn của Cha trong bức hình giống như ánh nhìn của Cha từ thập giá.

327      Một lần kia, cha giải tội [cha Sopocko] hỏi tôi nên đặt hàng chữ vào chỗ nào, vì bức hình không còn chỗ cho mọi thứ. Tôi thưa lại: “Con sẽ cầu nguyện và sẽ trả lời cho cha vào tuần tới”. Khi rời toà giải tội và đi ngang trước Thánh Thể, tôi đã được ơn hiểu biết về hàng chữ trong bức hình. Chúa Giêsu nhắc cho tôi nhớ lại những gì Người đã nói với tôi ngay lần đầu tiên; tức là ba chữ “Jezu, Ufam Tobie” (Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa) phải được ghi nổi bật. Tôi hiểu Chúa Giêsu muốn toàn bộ hàng chữ phải ở chỗ đó, nhưng Người không ban mệnh lệnh trực tiếp nào về hiệu quả như Người đã làm đối với những chữ này.

            Cha sẽ ban cho người ta một chiếc bình để dùng mà đến với những ánh sáng từ nguồn mạch Lòng Thương Xót. Chiếc bình ấy là bức hình với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa”.

328      Ôi Tình Yêu rất mực tinh ròng, xin hãy cai trị tâm hồn con với tất cả sung mãn của Chúa, và giúp con hết lòng trung thành thực thi thánh ý Chúa!

329      (139) Kỳ tĩnh tâm ba ngày gần kết thúc, tôi thấy mình đang bước trên một con đường gập ghềnh. Tôi chao đảo vấp ngã nhiều lần, nhưng nhìn thấy sau lưng có một bóng người vẫn đỡ nâng tôi. Tôi không thích như vậy nên yêu cầu người ấy hãy để mặc tôi, vì tôi muốn bước đi một mình. Nhưng bóng người mà tôi không thể nhận ra ấy vẫn không rời bỏ tôi một giây phút. Tôi không nhẫn nại được, quay lại và xô người ấy ra. Lúc ấy, tôi mới nhận ra đó chính là Mẹ Bề Trên [Irene], nhưng cũng ngay lúc ấy, tôi cũng nhận ra đó không phải là Mẹ Bề Trên, mà là Chúa Giêsu. Chúa chăm chú nhìn tôi và cho tôi hiểu Người rất đau đớn khi tôi không vâng theo ý bề trên, dù trong những điều nhỏ mọn nhất, [Chúa phán]Vì đó là ý của chính Cha. Tôi xin Chúa tha thứ và tận đáy lòng nghiêm chỉnh đón nhận lời sửa dạy.

330      + Một lần kia, cha giải tội bảo tôi hãy cầu nguyện theo ý chỉ của ngài, và tôi khởi sự làm một tuần cửu nhật kính Thiên Chúa. Việc làm chủ yếu trong tuần cửu nhật là đọc kinh “Chào kính Nữ Vương” chín lần. Đến cuối tuần cửu nhật, tôi được nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa bồng Chúa Giêsu Hài Đồng trên tay, tôi cũng thấy cha giải tội đang quỳ dưới chân Mẹ và tâm sự với Mẹ. Tôi không hiểu ngài thân thưa những gì với Đức Mẹ vì tôi cũng đang bận hàn huyên với Chúa Giêsu Hài Đồng. Chúa trườn xuống khỏi tay Đức Mẹ và đến kề bên tôi. Tôi không thể nào không say sưa chiêm ngắm vẻ dễ thương của Người. Tôi không nghe được tất cả những lời Mẹ Thiên Chúa nói với cha giải tội, trừ một đôi lời: Mẹ không những là Nữ Vương Thiên Đàng, mà còn là Mẹ Thương Xót và là Hiền Mẫu của con. Bấy giờ, Đức Mẹ dùng tay phải nắm vạt áo choàng và phủ lên vị linh mục. Ngay lúc đó, thị kiến chấm dứt.

331      Ôi, hồng ân có được một cha linh hướng thật trọng đại dường nào! Người ta tiến bộ nhanh chóng hơn trên đường nhân đức, nhìn thấy rõ ràng và chu toàn thánh ý Chúa một cách trung thành hơn, đi trên con đường chắc chắn và không gặp những nguy hiểm. Cha linh hướng biết cách giúp xa tránh những tảng đá có thể làm cho linh hồn tan nát. Thiên Chúa ban ơn này cho tôi khá muộn màng, nhưng tôi hết sức vui mừng vì thấy Chúa đã chiều ý của Người theo ý muốn cha linh hướng của tôi. Tôi chỉ xin đề cập một trong cả ngàn trường hợp đã xảy ra với tôi. Như thường lệ, một tối kia, tôi xin Chúa Giêsu dạy cho tôi những chủ điểm cho giờ nguyện gẫm hôm sau. Tôi đã nhận được câu trả lời: Con hãy nguyện gẫm về tiên tri Giona và sứ mạng của ông. Tôi cảm tạ Chúa, tuy nhiên, trong lòng cảm thấy đề tài này quá khác lạ với những lần (140) khác. Dù sao, với tất cả tâm hồn, tôi vẫn cố gắng nguyện gẫm theo đề tài ấy và nhận ra bản thân mình nơi con người vị tiên tri, theo nghĩa là tôi cũng thường xuyên thoái thác, viện cớ có những người khác thực thi thánh ý Chúa còn tốt hơn [tôi] mà không hiểu rằng Thiên Chúa có thể làm được mọi sự và quyền toàn năng của Người sẽ được sáng tỏ hơn nếu như dụng cụ càng khốn cùng. Thiên Chúa đã tỏ cho tôi được rõ điều này theo cách sau đây. Chiều hôm ấy là buổi xưng tội của cộng đoàn. Khi tôi trình bày về nỗi lo sợ ám ảnh tôi về sứ mạng mà Thiên Chúa sử dụng tôi là một dụng cụ vụng về, cha linh hướng trả lời rằng, dù muốn hay không, chúng ta vẫn phải thực thi thánh ý Thiên Chúa, và ngài nhắc cho tôi tấm gương của tiên tri Gioan. Sau khi xưng tội, tôi thắc mắc không biết cha giải tội làm thế nào biết được trước đó Thiên Chúa đã dạy tôi nguyện gẫm về tiên tri Giona; chắc chắn là tôi chưa nói cho ngài. Khi đó, tôi đã nghe những lời này: Khi vị linh mục thay Cha hoạt động, ngài không tự mình hành động, nhưng Cha hoạt động qua ngài. Những ước muốn của ngài là của Cha. Tôi đã nhìn thấy Chúa Giêsu bảo vệ những vị đại diện của Người, và chính Người đi vào hành động của các ngài như thế nào.

332      + Thứ Năm. Khi bắt đầu làm giờ thánh, tôi muốn đắm mình vào giờ hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Lúc đó tôi được nghe một tiếng nói trong tâm hồn: Con hãy nguyện gẫm về mầu nhiệm Nhập Thể. Và bỗng nhiên, Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra trước mặt tôi với vẻ phương phi rạng ngời. Người cho tôi biết Thiên Chúa hài lòng với sự đơn sơ trong một linh hồn. Mặc dù sự cao cả của Cha vượt mọi trí hiểu, nhưng Cha chỉ kết thân với những người bé nhỏ mà thôi. Cha đòi buộc con phải có tinh thần thơ ấu.

333      Giờ đây, tôi thấy rõ ràng Thiên Chúa hành động qua cha giải tội của tôi và đã trung thành giữ những lời hứa của Người. Hai tuần lễ sau, cha giải tội dạy tôi hãy suy gẫm về tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Điều này lúc đầu hơi khó, nhưng cha giải tội không lưu ý đến những khó khăn của tôi, cứ bảo tôi tiếp tục suy gẫm về tinh thần thơ ấu thiêng liêng. [Ngài nói] “Trong thực hành, tinh thần thơ ấu thiêng liêng phải tỏ hiện như thế này: một con trẻ không lo lắng về quá khứ hay tương lai, nhưng tận dụng giây phút hiện tại. Này chị, tôi muốn nhấn mạnh với chị về yếu tố nên giống con trẻ trên phương diện thiêng liêng, và muốn làm nổi bật yếu tố ấy”. Tôi thấy Thiên Chúa đã cúi mình chiều theo những ước muốn của cha giải tội; lần này, Người không tỏ mình cho tôi như vị Tôn Sư với sức mạnh sung mãn và hình thể một người lớn, nhưng như một Hài Nhi bé nhỏ. Thiên Chúa, Đấng siêu vượt mọi trí hiểu lại hạ mình đến với tôi trong hình hài một con trẻbé mọn.

334      Mắt linh hồn con không ngừng lại ở đó. Cho dù Chúa mặc hình hài một con trẻ bé mọn, nhưng con vẫn nhìn nơi Chúa là Thiên Chúa hằng hữu, vô cùng, Chúa các chúa, Đấng được các thiên thần tinh tấn hằng tôn thờ (141) suốt ngày đêm, và được tâm hồn các luyến thần cháy lửa yêu mến tinh ròng. Lạy Chúa Giêsu Kitô, con muốn vượt qua các ngài trong lòng mến yêu Chúa! Hỡi các thiên thần tinh tuyền, tôi xin lỗi vì đã táo bạo sánh mình với các ngài. Con là khe vực khốn cùng, là hố sâu đớn hèn; còn Chúa, ôi lạy Chúa, Chúa là vực thẳm thương xót vô ngần, xin nuốt trửng con đi tựa như sức nóng thái dương nuốt gọn một giọt sương mai! Một cái nhìn yêu thương của Chúa cũng đủ lấp đầy bất kỳ vực sâu nào. Con cảm thấy ngất ngây hạnh phúc vì sự cao cả của Chúa. Nhìn thấy sự cao trọng của Chúa đã quá đủ cho con được hạnh phúc cho đến đời đời!

335      Một lần kia, nhìn thấy Chúa Giêsu dưới hình hài một trẻ thơ bé nhỏ, tôi thưa Người: “Lạy Chúa Giêsu, sao Chúa lại mặc hình hài một con trẻ khi tâm tình với con? Dù vậy, con vẫn nhìn nhận Chúa là một Thiên Chúa vô cùng, Thiên Chúa và Tạo Hoá của con”. Chúa Giêsu đáp lại rằng Người sẽ tâm tình với tôi dưới hình hài một con trẻ cho đến khi nào tôi học được đức đơn sơ và khiêm tốn.

336                              + 1934

            Trong giờ thánh lễ, khi Chúa Giêsu được tôn kính trong Thánh Thể, trước giờ hiệp lễ, tôi nhìn thấy hai luồng sáng chiếu ra từ Bánh Thánh, giống như được vẽ trong bức hình, một luồng màu đỏ, một luồng màu lam nhạt. Và rồi hai luồng sáng ấy được phản chiếu trên mỗi chị em và các người nội trú, nhưng không phải tất cả đều như nhau. Nơi một số người, các luồng sáng ấy hầu như không nhìn thấy được. Hôm đó là ngày cuối trong cuộc tĩnh tâm dành cho các trẻ.

337                              Ngày 22 tháng 11 năm 1934

            + Vào một dịp kia, cha linh hướng [cha Sopocko] truyền cho tôi phải cẩn thận nhìn lại mình và hồi tâm xem có quyến luyến một đối tượng hay một thụ tạo nào không hoặc với chính bản thân tôi, hoặc mê mải ngồi lê đôi mách vô ích. Ngài nói: “Trong tất cả những điều đó, chị hãy bước vào con đường của Chúa Giêsu, Đấng muốn được toàn quyền tự do hướng dẫn linh hồn chị. Thiên Chúa rất ghen tương về con tim của chúng ta, và Người muốn chúng ta mến yêu một mình Người mà thôi”.

338      Khi bắt đầu xét mình, tôi không thấy mình quyến luyến một vật nào, nhưng trong tất cả những gì liên hệ đến tôi, cũng như trong vấn đề này, tôi còn sợ hãi và ngờ vực với chính mình. Mệt mỏi vì xét mình tỉ mỉ, tôi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, lấy hết tâm hồn thân thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, Đấng Lang Quân của con, Kho Tàng của trái tim(142) con, Chúa biết con chỉ quen biết một mình Chúa và không còn mối tơ tình nào khác ngoài Chúa; nhưng lạy Chúa Giêsu, nếu mai sau có còn quyến luyến với một thứ gì không phải là Chúa, con khẩn nài Chúa, van lơn Chúa hãy dùng quyền năng thương xót Chúa mà cho con được chết ngay đi, vì con muốn được chết cả ngàn lần còn hơn bất trung với Chúa trong điều hết sức nhỏ mọn, dù chỉ một lần mà thôi”.

339      Lúc đó, Chúa Giêsu bỗng nhiên đứng cạnh tôi, không biết từ đâu mà đến, rạng ngời xinh đẹp không sao tin được. Trong trang phục trắng ngần, Chúa dang tay ra và nói với tôi: Ái nữ của Cha ơi, trái tim con là nơi nghỉ ngơi của Cha, là niềm vui của Cha. Cha tìm được nơi đó tất cả những gì mà Cha đã bị quá nhiều linh hồn chối từ. Con hãy nói điều này với vị đại diện của Cha. Và một lúc sau, tôi không còn thấy gì nữa, nhưng cả một đại dương an ủi ập vào hồn tôi.

340      Lạy Chúa Giêsu, giờ đây con không biết có gì có thể làm ngưng được lòng mến con dành cho Chúa, cho dù đau khổ, chống đối, lửa thiêu hay gươm chém, và cả cái chết nữa. Con cảm thấy mình mạnh mẽ hơn tất cả những thứ này. Không gì có thể sánh được với tình yêu. Con thấy dưới mắt Chúa, những điều nhỏ mọn nhất nhưng được thực hiện do một linh hồn thành tâm yêu Chúa cũng mang một giá trị vĩ đại.

341                              Ngày 5 tháng 11 năm 1934

            Buổi sáng, bổn phận hôm đó của tôi là mở cổng cho những người trong nhà đi giao đồ nướng, tôi ghé vào nhà nguyện nhỏ để viếng Chúa Giêsu một chút và lặp lại những ý chỉ trong ngày. Hôm nay, lạy Chúa Giêsu, con xin dâng Chúa những đau khổ, những việc hãm mình và kinh nguyện của con theo ý chỉ của Đức Thánh Cha để ngài chuẩn thuận lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Nhưng lạy Chúa Giêsu, con xin thưa với Chúa một điều: con rất ngạc nhiên vì sao Chúa lại yêu cầu con nói về ngày lễ kính Lòng Thương Xót Chúa, người ta cho con biết hiện đã có một ngày lễ như thế rồi [4]mà sao con lại phải nói thêm về điều ấy nữa? Và Chúa Giêsu trả lời cho tôi: Có ai biết gì về ngày lễ này đâu? Chẳng một ai biết cả! Ngay cả những người lẽ ra phải rao giảng và dạy dỗ người khác về Lòng Thương Xót của Cha thì chính họ cũng chẳng biết gì. Vì thế, Cha muốn bức hình phải được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh và tôn kính công khai, ngõ hầu mọi linh hồn đều có thể hiểu biết về điều ấy.

            Con hãy làm một tuần cửu nhật theo ý Đức Thánh Cha. Việc làm gồm ba mươi ba lời than thở; tức là cầu xin bằng nhiều lần đọc lời kinh ngắn mà Cha đã dạy con để kính Lòng Thương Xót Cha.

342      (143) Đau khổ là kho tàng quý báu nhất trên đời này; nó thanh tẩy linh hồn. Trong đau khổ, chúng ta biết được ai mới là bạn thật của mình.

343      Tình yêu thật được đo lường bằng cây thước đau khổ. Lạy Chúa Giêsu, con cám tạ Chúa vì những thánh giá nhỏ bé hằng ngày, vì sự chống đối các khát vọng của con, vì những gian khổ trong đời sống chung, vì những cắt nghĩa sai lầm về ý hướng của con, vì những xỉ nhục do bàn tay người khác, vì cung cách khắt khe mà con bị đối xử, vì bị ngờ vực oan uổng, vì sức khoẻ yếu đuối và suy sụp, vì việc bỏ mình, vì sự chết cho bản thân, vì thiếu hiểu biết trong mọi sự, vì tất cả những chương trình của con đều bị đảo lộn.

            Lạy Chúa Giêsu, con cám tạ Chúa vì những đau khổ nội tâm, vì tâm hồn phải khô khan, vì những đe doạ, những sợ hãi, và bấp bênh, vì tăm tối và đêm dài nội tâm dày đặc, vì những cám dỗ thử thách đủ loại, vì những cực hình không sao tả xiết, nhất là những đau khổ không ai hiểu cho, vì giờ chết với tất cả những quằn quại và đắng cay của nó.

            Lạy Chúa Giêsu, con xin cám tạ vì Chúa đã uống chén đắng trước khi trao lại cho con, nhờ đó, vị đắng đã dịu đi rất nhiều. Con nhắp môi uống chén thánh ý Chúa. Ước gì mọi sự đều được thực hiện theo niềm vui tốt lành của Chúa; ước chi sự khôn ngoan Chúa đã tiền định từ muôn đời trước được nên trọn nơi con. Con muốn uống cạn chén này đến giọt cuối cùng mà không thắc mắc lý do. Niềm hoan lạc của con chìm trong đắng đót, niềm tín thác của con ở trong sự tuyệt vọng. Lạy Chúa, trong Chúa, mọi sự đều tốt lành, mọi sự đều là hồng ân từ Trái Tim hiền phụ của Chúa. con không thích an ủi hơn cay đắng hoặc cay đắng hơn an ủi, nhưng lạy Chúa Giêsu, con xin cám tạ Chúa vì tất cả! Niềm vui sướng của con là được chắm chú nhìn lên Chúa, Thiên Chúa vô cùng của con! Linh hồn con sống trong những nơi cư ngụ mầu nhiệm này, và đó là mái ấm của con. Con quá biết rằng đó cũng là nơi cư ngụ của Đấng Tình Quân của con nữa. Con cảm thấy không một giọt máu nào trong con mà không cháy lên tình yêu cho Chúa.

            Ôi Đấng Toàn Mỹ tự hữu, hễ ai từng biết Chúa một lần thì không thể mến yêu vật gì khác nữa. Con có thể cảm nhận vực thẳm vô đáy của hồn con, và không ai làm đầy nó được ngoài một mình Chúa. Con cảm thấy mình được ngập lút trong Chúa như một hạt cát giữa đại dương bất tận.

            (144)                Ngày 20 tháng 12 năm 1934

344      Buổi tối, khi trở về phòng riêng, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu trong mặt nhật hiện ra dưới bầu trời quang. Tôi thấy dưới chân Chúa là cha giải tội của tôi, phía sau ngài là đông đảo các bậc giáo phẩm cao cấp với những lễ phục mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy - ngoại trừ trong những lần thị kiến - đằng sau các vị này là những tu sĩ thuộc các dòng tu; tôi còn được thấy những rừng người đông đúc, vượt lút tầm mắt. Tôi cũng nhìn thấy hai luồng sáng giãi ra từ Bánh Thánh - như trong bức hình, được hợp lại nhưng không pha lẫn vào nhau - chiếu qua bàn tay cha giải tội của tôi, và rồi qua tay các vị trong hàng giáo sĩ, rồi từ đó đến với các tín hữu, sau cùng quay trở về với Bánh Thánh... Vừa lúc ấy, tôi nhận ra mình trong gian phòng mới bước vào.

 

345                              Ngày 22 tháng 12 năm 1934.

            Trong tuần, lúc đi xưng tội, tôi tình cờ đến nơi vào lúc các cha giải tội của tôi đang dâng lễ ở đó. Trong phần thứ ba của thánh lễ, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng rất bé bỏng và khác với bình thường, Người mặc một chiếc áo ngắn màu tím. Thường thì Người mặc áo trắng.

346                  Ngày 24 tháng 12 năm 1934, canh thức Giáng Sinh.

            Trong thánh lễ sáng nay, tôi cảm nghiệm được sự gần gũi của Thiên Chúa. Mặc dù hầu như không hiểu nổi, nhưng tâm trí tôi được chìm đắm trong Thiên Chúa. Bỗng nhiên, tôi được nghe những lời này: Con là nơi ở vui thú của Cha; Thần Khí Cha lưu ngụ nơi con. Sau những lời ấy, tôi cảm thấy Chúa đang âu yếm nhìn sâu thẳm vào tâm hồn tôi; và thấu suốt nỗi khốn cùng của tôi, tôi sấp mình trong lòng và chiêm ngắm lượng thương xót hải hà của Thiên Chúa vì Người đã dủ thương đến với nỗi khốn cùng như vậy.

            Trong giờ hiệp lễ, linh hồn tôi ngập tràn niềm vui. Tôi cảm thấy được hợp nhất mật thiết với Thiên Chúa. Quyền toàn năng của Người bao phủ toàn thể hữu thể tôi. Suốt ngày, tôi cảm thấy sự gần gũi của Thiên Chúa một cách đặc biệt; và mặc dù các việc phận sự của ngày không cho tôi viếng nhà nguyện được dù chỉ một lát, nhưng không phút giây nào mà tôi không kết hợp với Chúa. Tôi cảm nghiệm Chúa (145) trong tôi một cách rõ rệt hơn bao giờ hết. Tôi không ngừng chào kính và mặc lấy tâm tình của Mẹ Thiên Chúa, tôi khẩn nài Mẹ dạy cho tôi thực tâm mến yêu Chúa. Và lúc đó, tôi nghe được những lời này: Mẹ sẽ chia sẻ cho con bí quyết hạnh phúc của Mẹ trong thánh lễ đêm nay.

            Chúng tôi dùng bữa tối trước sáu giờ chiều. Mặc dù bên ngoài vui vẻ ồn ào do việc bẻ bánh và trao đổi những lời cầu chúc tốt đẹp cho nhau, tôi vẫn không đánh mất ý thức về sự hiện diện của Chúa một phút giây nào. Sau bữa tối, chúng tôi vội vàng đi chu toàn công việc của mình, vào lúc 9 giờ, tôi mới có thể lên nhà nguyện để chầu Chúa. Tôi được phép ở lại đó cho đến giờ lễ nửa đêm. Tôi rất vui mừng vì được thong dong suốt từ 9 giờ cho đến tận nửa đêm. Từ 9 đến 10 giờ, tôi dâng giờ chầu để cầu nguyện cho cha mẹ và tất cả gia đình. Từ 10 đến 11 giờ, tôi dâng giờ chầu theo ý chỉ cha linh hướng, trước là để cám tạ Chúa vì đã ban cho tôi sự trợ giúp hữu hình này trên trần gian, đúng như lời Người đã hứa, và tôi cũng xin Chúa ban cho cha ánh sáng cần thiết để hiểu biết và hướng dẫn linh hồn tôi cho đẹp lòng Chúa. Từ 11 đến 12 giờ, tôi cầu nguyện cho Giáo Hội và hàng giáo sĩ, cho các tội nhân, cho các nơi truyền giáo, và cho các nhà dòng của chúng tôi. Tôi nhường các ân xá cho các linh hồn luyện tội.

0 giờ, ngày 25 tháng 12 năm 1934

347      Thánh lễ nửa đêm. Khi thánh lễ bắt đầu, tôi cảm thấy một sự trầm lặng sốt sắng và niềm vui tràn ngập linh hồn. Đến giờ dâng của lễ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu trên bàn thờ, xinh đẹp vô ngần. Lúc đó, Chúa Hài Nhi cứ nhìn xuống mọi người, dang đôi tay nhỏ xíu của Người ra. Đến giờ truyền phép, Chúa Hài Đồng không nhìn xuống nhà nguyện, nhưng hướng mắt lên trời. Sau giờ tôn vinh Thánh Thể, Chúa lại nhìn xuống chúng tôi nhưng chỉ một lúc ngắn, bởi vì Người bị linh mục bẻ ra và nuốt đi như thường lệ. Chiếc áo ngắn của Chúa giờ đây màu trắng. Ngày hôm sau, tôi nhìn thấy cũng y như vậy, và cả ngày thứ ba cũng thế. Thật tôi khó mà diễn tả hết được niềm hân hoan của linh hồn tôi. (146) Thị kiến ấy được lặp lại trong ba thánh lễ như nhau.

                                    Năm 1934

348      Thứ Năm sau lễ Giáng Sinh. Tôi quên bẵng hôm đó là thứ Năm nên không làm giờ chầu. Vào lúc 9 giờ, tôi đi thẳng về phòng ngủ như các chị em khác. Nhưng thật lạ lùng, tôi không sao chợp mắt được. Dường như tôi chưa chu toàn một điều gì đáng lẽ phải làm. Trong tâm trí, tôi hồi tưởng lại tất cả các nhiệm vụ, nhưng không sao nhớ ra điều gì. Việc này kéo dài mãi đến tận 10 giờ. Lúc 10 giờ, tôi nhìn thấy thánh nhan Chúa Giêsu u sầu. Khi đó, Chúa Giêsu phán những lời này với tôi: Cha vẫn chờ đợi để chia sẻ với con những đau khổ của Cha, bởi vì ai có thể cảm thông những đau khổ của Cha cho bằng hôn thê của Cha? Tôi xin Chúa tha thứ vì sự nguội lạnh của tôi. Xấu hổ không dám nhìn thẳng lên Chúa, nhưng với con tim thống hối, tôi xin Người chia sớt cho tôi một chiếc gai từ mạo gai của Người. Người nhậm lời sẽ ban cho tôi đặc ân này, nhưng phải chờ đến mai, và lập tức thị kiến chấm dứt.

349      Vào buổi sáng, trong giờ nguyện gẫm, tôi cảm thấy một chiếc gai buốt nhói phía bên trái đỉnh đầu. Nỗi đau này âm ỉ suốt ngày. Tôi không ngừng gẫm suy vì sao Chúa Giêsu lại có thể chịu được nỗi đau do quá nhiều gai nhọn trên mạo gai của Người. Tôi liên kết đau khổ của tôi với những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng lên để cầu cho các tội nhân. Vào lúc 4 giờ, khi đi chầu, tôi nhìn thấy một học sinh nội trú của chúng tôi đang xúc phạm nặng nề đến Chúa vì những tư tưởng nhơ bẩn. Tôi cũng thấy một người là nguyên cớ của tội ấy. Linh hồn tôi run giùng sợ hãi, và tôi xin Thiên Chúa nhân vì nỗi khổ đau của Chúa Giêsu mà cất học sinh ấy ra khỏi sự khốn nạn kinh khủng này.

Về đầu trang

350      Chúa Giêsu trả lời Người sẽ ban cho em ấy ân huệ này, không phải vì em, nhưng vì lời xin của tôi. Giờ đây, tôi đã hiểu chúng ta cần phải cầu nguyện thật nhiều cho các tội nhân, nhất là cho những người thuộc quyền chúng ta.

            Đời sống của chúng ta thực sự phải là tông đồ; tôi không thể tưởng tượng một tu sĩ sống trong nhà dòng, tức là trong hội dòng chúng tôi đây, mà lại không có tinh thần tông đồ. Lòng nhiệt thành với phần rỗi các linh hồn phải nung đốt con tim của chúng ta.

351      (147) Lạy Chúa của con, được chịu đau khổ vì Chúa thật ngọt ngào biết bao, đau khổ tận thâm tâm trong sự khuất tịch, âm ỉ cháy như một hy tế không được ai nhìn thấy, tinh tuyền như pha lê, không một an ủi hay một người bên cạnh. Linh hồn tôi cháy lên trong tình yêu năng động. Tôi không phung phí thời giờ để mơ mộng. Tôi đón nhận từng giây phút khi nó đến, vì điều ấy nằm trong khả năng của tôi. Quá khứ không thuộc về tôi; tương lai không phải của tôi; với tất cả tâm hồn, tôi cố gắng lợi dụng giây phút hiện tại.

                       

 

Ngày 4 tháng 1 năm 1935

Buổi Hội Kiểm Thảo [5] Đầu Tiên của Mẹ Borgia [6]

352      Trong buổi hội, Mẹ [Borgia] đề cao đời sống đức tin và sự trung thành trong những điều nhỏ mọn. Lúc được nửa buổi hội, tôi nghe được những lời này: Cha ước mong tất cả các con có nhiều đức tin hơn nữa trong giây phút hiện tại. Niềm vui của Cha thật lớn lao biết bao vì sự trung thành của hiền thê của Cha trong những điều nhỏ mọn. Khi đó tôi nhìn lên tượng Chuộc Tội và thấy đầu Chúa Giêsu hơi nghiêng về phía nhà ăn, và môi Người đang mấp máy.

            Khi tôi thưa Mẹ Bề Trên về điều ấy, Mẹ trả lời: “Này chị, chị thấy Chúa Giêsu đòi buộc đời sống chúng ta phải là một đời sống đức tin như thế nào”.

353      Mẹ Bề Trên đi lên nhà nguyện, còn tôi ở lại dọn phòng và được nghe những lời này: Con hãy nói cho mọi chị em rằng Cha đòi họ phải sống trong tinh thần đức tin đối với các bề trên trong giây phút hiện tại. Tôi năn nỉ xin cha giải tội chước chuẩn cho tôi khỏi nhiệm vụ này.

354      Khi đang nói chuyện với một chị [7] sẽ vẽ bức hình, nhưng vì những lý do nào đó, chị này vẫn chưa vẽ, tôi được nghe lời này trong tâm hồn: Cha muốn chị ấy vâng phục hơn nữa. Tôi hiểu rằng những nỗ lực của chúng ta, dù lớn lao đến đâu, cũng không làm đẹp lòng Chúa nếu thiếu dấu ấn của đức vâng lời; tôi đang nói về một linh hồn tu sĩ.

            Lạy Chúa, trong tu viện, biết được thánh ý Chúa thật dễ dàng biết bao! Những tu sĩ chúng tôi có thánh ý Chúa ở trước mắt rất rõ ràng, từ sáng đến tối, và trong những lúc thiếu chắc chắn, chúng tôi đã có các Bề Trên là những vị được Chúa dùng để tỏ ra ý muốn của Người.

355      (148)                1934-1935. Đêm Giao Thừa.

            Tôi được phép không phải đi ngủ, đúng hơn là được phép cầu nguyện trong nhà nguyện. Một chị xin tôi dâng một giờ chầu cầu nguyện cho chị. Tôi đồng ý và cầu nguyện cho chị một giờ. Trong giờ chầu ấy, Thiên Chúa đã tỏ cho tôi biết linh hồn này rất đẹp lòng Người.

            Tôi dâng giờ chầu thứ hai cầu nguyện cho các tội nhân hoán cải, và cố gắng đặc biệt đền tạ Thiên Chúa vì những lăng mạ đang xúc phạm đến Người trong thời điểm này. Thiên Chúa đang bị xúc phạm kinh khủng biết bao!

            Tôi dâng giờ chầu thứ ba cầu nguyện cho cha linh hướng. Tôi tha thiết xin cho ngài được ánh sáng trong một vấn đề đặc biệt.

            Sau cùng, đồng hồ điểm 12 tiếng, giờ cuối cùng trong năm. Tôi hoàn tất giờ này nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, và khởi đầu giờ đầu tiên của năm mới cũng nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Tôi nài xin từng Ngôi Thiên Chúa chúc lành cho tôi và hết lòng tin tưởng hướng về năm mới, chắc chắn sẽ không thiếu đau khổ.

356      Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa chứng từ Lòng Thương Xót Thiên Chúa dành cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa Mình và Máu Chúa Giêsu như bằng chứng Lòng Thương Xót vô biên dành cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa sự sống muôn đời và Lòng Thương Xót vô biên, được quảng phát cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa Lòng Thương Xót của Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần dành cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            (149) Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa giá chuộc vô cùng của Lòng Thương Xót đền bồi mọi món nợ cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa nguồn mạch nước hằng sống phát nguyên từ Lòng Thương Xót vô biên dành cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa lò lửa tinh tuyền bừng cháy từ cung lòng Thiên Chúa Cha hằng hữu như từ một vực thẳm thương xót vô biên dành cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa thần dược chữa lành mọi yếu đuối của chúng con, xuất phát từ Lòng Thương Xót vô biên, như từ một nguồn mạch, dành cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa sự hợp nhất giữa Thiên Chúa với chúng con qua Lòng Thương Xót vô biên Người dành cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, ẩn chứa mọi tình cảm của Trái Tim rất dịu dàng Chúa Giêsu dành cho chúng con, và nhất là cho các tội nhân khốn cùng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa mọi đau khổ và thù nghịch trong cuộc sống.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa tăm tối và những cơn giống tố trong ngoài.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con trong cuộc sống và trong giờ lâm tử.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa những thù nghịch và những chán chường.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa nạn giả dối và bội bạc.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa tăm tối và nạn vô thần đang lan tràn khắp thế giới.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa khắc khoải và đau khổ vì không được cảm thông.

            (150) Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa những nhọc nhằn và đơn điệu của cuộc sống mỗi ngày.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa cảnh tan nát của những hy vọng và cố gắng.

                Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, niềm cậy trông độc nhất của chúng con giữa những dã man của quân thù và cuồng bạo của hoả ngục.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác nơi Chúa khi những gánh nặng đã quá sức và những nỗ lực của con đã thất bại.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác nơi Chúa khi những giông bão vùi dập cõi lòng và nỗi sợ hãi của con dường như thất vọng.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác nơi Chúa khi trái tim sắp sửa run giùng và mồ hôi tử khí ướt đẫm vầng trán của con.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác nơi Chúa khi mọi sự đều dấy lên chống đối và nỗi tuyệt vọng đen tối đã tràn ngập hồn con.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác Chúa khi mọi vật đời này đã nhoà trước mắt con, và lần đầu tiên linh hồn con nhìn thấy những thế giới xa lạ.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác nơi Chúa khi những nhiệm vụ vượt quá sức con, và sự chống đối trởthành số phận mỗi ngày của con.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác nơi Chúa khi việc tập tành nhân đức xem ra khó nhọc, và nhiên tính trong con nổi loạn.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác nơi Chúa khi những đòn đánh nghịch thù nhắm thẳng vào con.

            Ôi Bánh Thánh Hồng Phúc, con tín thác nơi Chúa khi những lao nhọc và nỗ lực của con bị người đời xét đoán sai lầm.

            Lạy Bánh Thánh, con tín thác nơi Chúa khi những phán xét của Chúa vang lên với con; chính lúc đó con sẽ tín thác vào đại dương thương xót của Chúa.

357      + Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, con tín thác nơi Lòng Thương Xót vô biên của Chúa.

            Thiên Chúa là Cha tôi, vì thế tôi là con nhỏ của Người, tôi có mọi quyền đối với Thánh Tâm Người; và khi bóng tối càng dày đặc, niềm tín thác của chúng ta càng phải trọn hảo.

358      Tôi không hiểu sao lại không tín thác vào Đấng có thể làm được mọi sự. Có Chúa là có tất cả; không có Chúa là không có gì hết. Người là Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ không để ai đặt hết tin tưởng nơi Người sẽ phải bẽ bàng.

359      (151)    Thứ Năm, ngày 10 tháng 1 năm 1935.

            Vào buổi chiều tối, trong giờ chầu phép lành, [8] tôi bắt đầu bị quấy quất vì những tư tưởng đại loại thế này: có lẽ tất cả những điều tôi đang nói về Lòng Thương Xót hải hà của Chúa chỉ là một lời dối trá hoặc một ảo tưởng...? Vừa khi tôi định đắn đo một chút về điều ấy thì nghe trong lòng có tiếng rất mạnh mẽ và rõ ràng: Tất cả những điều con nói về Lòng Thương Xót của Cha đều đúng; ngôn ngữ không có lối diễn tả nào xứng hợp để tán dương lòng nhân lành của Cha. Những lời này tràn đầy uy lực và rõ ràng đến độ tôi sẵn sàng hiến mạng sống để minh chứng đó là những lời phát xuất từ Thiên Chúa. Tôi có thể nói như vậy nhờ một niềm bình an sâu thẳm theo sau những lời Chúa phán bấy giờ và hiện vẫn còn lưu lại trong tôi. Niềm bình an này đem đến cho tôi một sức mạnh và năng lực cao độ đến nỗi mọi gian truân, trở ngại, đau khổ, và ngay cả cái chết cũng không còn là gì. Ánh sáng này cho tôi thoáng thấy sự thật: mọi nỗ lực của tôi gắng đem các linh hồn đến chỗ hiểu biết lòng thương của Chúa Giêsu đều rất đẹp lòng Thiên Chúa. Và từ ánh sáng này trào dâng một niềm hoan lạc ngập lút linh hồn đến nỗi tôi không biết trên thiên đàng có gì hơn thế được không. Ôi, giá như các linh hồn chỉ vui lòng lắng nghe, ít là một chút, tiếng nói của lương tâm và tiếng nói - tức là những soi động - của Chúa Thánh Thần! Tôi nói “ít là một chút”, chỉ vì một khi chúng ta mở lòng cho tác động của Chúa Thánh Thần, thì Người sẽ hoàn tất những gì còn thiếu nơi chúng ta.

+ Năm Mới 1935

360      Chúa Giêsu thích đi vào những biến cố chi li nhất trong cuộc sống của chúng ta, và Chúa thường hoàn thành những ước vọng thầm kín mà đôi khi tôi đã giấu Chúa, mặc dù biết rằng không gì có thể che khuất được Người.

            Ngày đầu năm, chúng tôi có tục lệ rút thăm để nhận các thánh bảo trợ đặc biệt cho chúng tôi suốt năm ấy. Vào giờ nguyện gẫm sáng, trong lòng tôi có một ước vọng thầm kín muốn chọn Chúa Giêsu Thánh Thể làm Đấng bảo trợ đặc biệt cho suốt năm nay, cũng giống như trong quá khứ. Nhưng tôi giấu Đấng Lang Quân ước vọng này, tôi tâm sự với Người về mọi điều, ngoại trừ điều này. Khi đến phòng ăn dùng điểm tâm, chúng tôi trao đổi với nhau những lời cầu chúc và bắt đầu rút thăm vị bảo trợ. Khi đến gần những tấm thẻ có ghi tên các đấng bảo trợ, không lưỡng lự tôi rút ngay một tấm, nhưng không đọc tên vị ấy ngay (152) vì muốn làm một hành vi khổ chế trong một vài phút. Bỗng nhiên, tôi nghe được lời này trong linh hồn: Cha là Đấng Bảo Trợ cho con. Con hãy đọc đi nào. Tôi lập tức nhìn vào hàng chữ và thấy: “Đấng Bảo Trợ cho năm 1935 - Chúa Thánh Thể”. Tâm hồn tôi rộn ràng sướng vui. Tôi lặng lẽ rút lui khỏi các chị em và đi viếng Thánh Thể, ở đó tôi thổ lộ tâm trạng của mình cho Chúa. Nhưng Chúa Giêsu dịu dàng trách tôi rằng lúc này nên ở lại với các chị em. Tôi lập tức vâng theo quy định của luật dòng.

316      Lạy Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể, Lòng Thương Xót Chúa dành các thụ tạo, nhất là các tội nhân khốn cùng thật lớn lao khôn lường, Chúa đã tỏ ra vực thẳm Lòng Thương Xót Chúa khôn thấu và khôn dò đối với bất kỳ tâm trí nào, dù loài người hoặc thiên thần. Phận hư vô và đớn hèn của chúng con được ngập chìm trong sự cao sang của Chúa. Ôi Đấng Toàn Thiện Vô Cùng, ai có thể ca ngợi Chúa cho đầy đủ? Làm sao tìm được một linh hồn có thể hiểu Chúa trong khối tình của Chúa? Lạy Chúa Giêsu, cũng có những linh hồn như thế, nhưng thật hiếm hoi.

362      + Một bữa nọ, trong giờ nguyện gẫm buổi sáng, tôi nghe có tiếng nói: Chính Cha là người hướng dẫn; Cha đã, đang, và sẽ là người hướng dẫn của con. Vì con đã xin một sự trợ giúp hữu hình, nên Cha đã chọn và ban cho con một vị linh hướng trước cả khi con ngỏ lời, vì công việc của Cha cần phải có một người như thế. Con hãy biết rằng những lầm lỗi con phạm đến ngài đều làm thương tổn Trái Tim Cha. Nhất là con hãy cẩn phòng với thói tìm thoả ý riêng; cho dù một việc nhỏ mọn nhất cũng phải có dấu ấn vâng lời.

            Với tâm hồn tan nát khiêm cung, tôi khẩn nài Chúa Giêsu tha thứ cho những sai lỗi này. Tôi cũng xin cha linh hướng bỏ qua cho tôi, và nhất quyết không làm những điều sai quấy như vậy nữa.

363      Ôi Chúa Giêsu nhân lành, con cám tạ Chúa vì hồng ân trọng hậu đã cho con biết bản thân con chỉ là khốn nạn và tội lỗi. Tự sức mình, con chỉ có thể làm được một việc, đó là xúc phạm đến Chúa. Chúa ôi, bởi vì sự khốn nạn chỉ có thểlàm được gì ngoài việc xúc phạm đến Chúa, ôi Đấng Tốt Lành vô cùng!

364      (153) + Một lần kia, tôi được nhờ cầu nguyện cho một linh hồn nọ. Tôi liền quyết định làm tuần cửu nhật kính Lòng Thương Xót Chúa và thêm vào đó một việc hãm mình; tức là sẽ đeo những sợi xích [9] vào hai chân trong suốt thánh lễ. Tôi làm việc này được ba ngày, và sau đó vào dịp xưng tội, tôi mới cho cha linh hướng biết tôi đã mạn phép thực hành việc khổ chế ấy. Tôi tưởng ngài không phản đối, nào ngờ lại phải nghe điều trái ngược; tức là tôi không được làm bất cứ điều gì mà không có phép.

            Lạy Chúa Giêsu của con, thế là con lại tự tung tự tác nữa rồi! Nhưng những sai lỗi không làm con chán nản; con quá biết mình chỉ là khốn nạn.

            Vì tình trạng sức khoẻ nên tôi không được phép, và cha linh hướng ngạc nhiên vì tôi đã liều mình làm những việc khổ chế lớn như vậy mà không có phép của ngài. Tôi xin tha lỗi vì đã tự ý, hay đúng hơn là đã mạn phép, và xin ngài đổi việc hãm mình này bằng một việc khác.

365      Cha linh hướng đã thay thế việc ấy bằng một hành vi khổ chế bề trong; tức là trong suốt thánh lễ, tôi phải suy tư vì sao Chúa Giêsu lại hạ mình chịu phép rửa. Việc suy gẫm này chẳng có gì là khổ chế với tôi cả, vì tưởng nhớ đến Chúa là một niềm vui chứ không phải là khổ chế. Nhưng hoá ra đó lại là một việc khổ chế ý chí, vì tôi không tự ý thực hiện, nhưng làm theo lệnh truyền, và đây chính là điều cốt yếu của hành vi khổ chế bề trong. Khi tôi rời toà cáo giải, và bắt đầu làm việc đền tội thì được nghe những lời này: Cha đã ban ơn con xin cho linh hồn kia, nhưng không phải vì việc hãm mình con tự ý thực hiện. Đúng hơn chỉ vì con đã thực hiện hành vi vâng lời trọn hảo đối với vị đại diện của Cha nên Cha đã ban ơn này cho linh hồn mà con đã can thiệp và khẩn xin Lòng Thương Xót Cha. Con hãy biết rằng khi con khổ chế ý riêng của con, khi đó, ý Cha mới ngự trị trong con.

366      Lạy Chúa Giêsu của con, xin Chúa hãy nhẫn nhục với con. Con sẽ cẩn thận hơn trong tương lai. Con sẽ không cậy dựa vào mình, nhưng vào ơn Chúa và Lòng Thương Xót vô cùng bao la của Chúa đối với con là kẻ thấp hèn.

367      (154) + Vào một dịp nọ, Chúa Giêsu cho tôi biết rằng khi tôi cầu nguyện theo các ý chỉ được người khác nhờ, Người vẫn luôn sẵn lòng ban phát, nhưng các linh hồn kia không phải lúc nào cũng muốn đón nhận các ơn ấy: Trái Tim Cha tuôn trào tình thương xót lớn lao cho các linh hồn, nhất là các tội nhân khốn cùng. Ước chi họ có thể hiểu được Cha là hiền phụ rất nhân lành của họ. Vì họ, Máu và Nước đã từ Trái Tim Cha trào đổ như một nguồn mạch tuôn tràn Lòng Thương Xót. Vì họ, Cha ẩn ngự trong nhà chầu như Quân Vương Từ Ái. Cha ước ao ban phát những ánh sáng của Cha cho các linh hồn, nhưng họ không thèm đón nhận. Ít là con hãy thường xuyên đến với Cha hết sức có thể và lãnh nhận những ơn thánh mà họ không màng. Như vậy, con sẽ an ủi Trái Tim Cha. Ôi, các linh hồn hững hờ biết bao trước lòng lành bao la nhường ấy, trước quá nhiều bằng chứng yêu đương nhường ấy! Trái Tim Cha phải uống toàn những vô ân và lãnh đạm của các linh hồn sống trên trần gian. Họ dành thời giờ cho mọi thứ, nhưng lại không có thời giờ đến với Cha để lãnh nhận các ơn thánh.

            Vì thế, Cha quay về với các con, hỡi những linh hồn ưu tuyển, các con cũng không hiểu tình yêu của Trái Tim Cha hay sao? Ở đây, Trái Tim Cha cũng gặp thất vọng; Cha không tìm được sự phó thác hoàn toàn cho tình yêu Cha. Quá nhiều đắn đo, quá nhiều ngờ vực, quá nhiều đề phòng. Để an ủi con, Cha cho con biết rằng vẫn có những linh hồn sống trên trần gian này đang yêu mến Cha chí thiết say mê. Cha vui sướng ngự nơi tâm hồn của họ. Nhưng họ ít quá. Trong các tu viện cũng thế, cũng có những linh hồn làm Trái Tim Cha được tràn đầy niềm vui. Họ mang những nét riêng của Cha; vì vậy Chúa Cha trên trời nhìn họ với niềm thoả nguyện đặc biệt. Họ sẽ là một kỳ quan trước mặt các thiên thần và nhân loại. Con số những linh hồn này quá ít ỏi. Họ là lá chắn cho thế giới trước phép công thẳng của Chúa Cha trên trời và là phương thế nài xin ơn xót thương cho thế giới. Tình yêu và hy sinh của những linh hồn này giữ cho thế giới được trường tồn. Sự bất trung của một linh hồn được Cha ưu tuyển gây nên thương tích hết sức nhức nhối cho Trái Tim Cha. Những bất trung như thế là những mũi gươm đâm thấu Trái Tim Cha.

368      (155)                Ngày 29 tháng 1 năm 1935

            Sáng thứ Ba này, trong giờ nguyện gẫm tôi được thị kiến Đức Thánh Cha đang dâng lễ. Sau kinh Lạy Cha, ngài trình bày với Chúa Giêsu về vấn đề Chúa đã truyền cho tôi phải thưa với ngài. Mặc dù đích thân tôi chưa từng thưa với Đức Thánh Cha, nhưng vấn đề này đã được một vị khác đảm nhận [cha Sopocko} [10]; tuy nhiên, vào lúc này, tôi biết trong tri thức nội tại rằng Đức Thánh Cha đang cứu xét vấn đề, và sẽ sớm thông qua đúng như ước vọng của Chúa Giêsu.

369      Trước kỳ tĩnh tâm tám ngày, tôi đến với cha linh hướng và xin phép thực hiện một vài hành vi khổ chế trong thời gian tĩnh tâm. Tuy nhiên, tôi không xin được tất cả, mà chỉ được một số mà thôi. Tôi được phép làm một giờ nguyện gẫm về cuộc Thương Khó Chúa Giêsu và một hành vi hạ mình khác. Tôi hơi nản lòng vì không được phép làm tất cả những gì đã xin. Khi chúng tôi trở về nhà, tôi ghé vào nhà nguyện một lúc, và được nghe lời này trong linh hồn: Công trạng nhờ một giờ suy gẫm về cuộc Thương Khó của Cha còn nhiều hơn cả một năm đánh mình đến chảy máu; việc suy ngắm về những thương tích đau đớn của Cha rất ích lợi đối với con, và đem lại cho Cha niềm hoan lạc lớn lao. Cha lấy làm lạ vì con vẫn chưa hoàn toàn từ bỏ ý riêng, nhưng Cha vui mừng quá đỗi vì sự biến đổi ấy sẽ thành sự trong tuần tĩnh tâm này.

370      Cũng hôm ấy, lúc ở trong nhà nguyện đợi đến lượt xưng tội, tôi nhìn thấy những luồng sáng phát ra từ mặt nhật và chiếu toả khắp nhà nguyện. Hiện tượng này kéo dài đến hết giờ chầu. Sau phép lành Thánh Thể, [những luồng sáng chiếu giãi] hai bên lại quay về mặt nhật. Những luồng sáng ấy rạng ngời và trong suốt như pha lê. Tôi xin Chúa Giêsu đoái thương đốt lửa tình yêu Người nơi tất cả các linh hồn nguội lạnh. Dưới những luồng sáng này, một con tim dù lạnh lẽo như băng sơn cũng sẽ nồng ấm; dù cứng rắn như đá tảng cũng sẽ tan ra thành bụi.

            (156) + J.M.J   Vilnius, ngày 4 tháng 2 năm 1935

Về đầu trang

Kỳ Tĩnh Tâm Tám Ngày

371      Lạy Chúa Giêsu, Đấng Quân Vương Từ Ái, lại đến lúc con được sống một mình với Chúa. Vì thế, con nài xin Chúa dùng tất cả tình yêu đang bừng cháy nơi Trái Tim Chúa mà thiêu huỷ tất cả lòng tự ái của con, và đồng thời đốt lên ngọn lửa tình ái tinh ròng của Chúa trong trái tim con.

372      Vào buổi tối, sau giờ giảng phòng, tôi được nghe những lời này: Cha ở với con. Trong tuần tĩnh tâm này, Cha sẽ củng cố con trong an bình và can đảm để con đủ sức mạnh mà thực hiện những chương trình của Cha. Vì thế, con sẽ hoàn toàn khước từ ý riêng trong tuần tĩnh tâm này, và như vậy, trọn vẹn thánh ý Cha sẽ được thực hiện nơi con. Con hãy biết rằng điều này đòi hỏi con rất nhiều, vậy con hãy viết những chữ sau đây trên một trang giấy sạch: “Từ nay trở đi, ý riêng của tôi không còn nữa”, và gạch chéo ngang qua trang giấy ấy. Ở trang bên kia, con hãy viết hàng chữ này: “Từ này trở đi, tôi thực thi thánh ý Thiên Chúa mọi nơi, mọi lục, và trong mọi sự”. Con đừng sợ hãi gì; tình yêu sẽ ban cho con sức mạnh và làm cho điều này trở nên dễ dàng thực hiện.

373      Trong bài nguyện gẫm căn bản về mục đích, tức là về sự lựa chọn tình yêu: linh hồn phải mến yêu; cần phải mến yêu. Linh hồn phải chuyển hướng dòng suối tình yêu của nó, nhưng không phải vào bùn nhơ hay khoảng không, nhưng vào Thiên Chúa. Tôi vui mừng biết bao khi suy về điều này, vì tôi cảm thấy rõ ràng chính Chúa đang ngự trong lòng tôi. Đúng là chỉ có một mình Chúa Giêsu! Tôi quý các thụ tạo vì chúng giúp tôi được liên kết với Thiên Chúa. Tôi yêu tất cả mọi người vì nhìn thấy nơi họ hình ảnh của Thiên Chúa.

374      (157) + J.M.J   Vilnius, ngày 4 tháng 2 năm 1935

Từ nay trở đi, ý riêng của tôi không còn nữa

            Lúc quỳ xuống gạch bỏ ý riêng của tôi như Chúa đã truyền, tôi nghe lời này trong linh hồn: Từ nay trở đi, con đừng sợ hãi công phán của Thiên Chúa, vì con sẽ không bị phán xét.

(158) + J.M.J. Vilnius, ngày 4 tháng 2 năm 1935

 

Từ nay trở đi, tôi thực thi thánh ý Thiên Chúa

mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi sự. [11]

                 

            (159) + J.M.J. Vilnius, ngày 8 tháng 2 năm 1935

375      Thực hành đặc biệt bề trong, tức là kiểm xét lương tâm: từ bỏ mình, khước từ ý riêng.

            I. Từ bỏ lý luận riêng. Bắt phải suy phục lý luận của những vị đối với tôi là đại diện Chúa trên trần gian.

            II. Từ bỏ ý riêng. Thực thi thánh ý Chúa được biểu hiện qua ý muốn của những vị đại diện Chúa đối với tôi, và được gồm chứa trong luật dòng.

            III. Từ bỏ phán đoán riêng. Chấp nhận lập tức mà không xét nét, phân tích, hay lý sự về tất cả các lệnh truyền của những vị đại diện Chúa đối với tôi.

            IV. Kềm chế cái lưỡi. Tôi sẽ không cho cái lưỡi một chút tự do nào; chỉ trừ một trường hợp mà thôi; đó là hoàn toàn được tự do cao rao vinh quang Thiên Chúa. Mỗi lần hiệp lễ, tôi sẽ xin Chúa Giêsu thêm sức mạnh và thanh tẩy cái lưỡi của tôi để tôi không dùng nó làm tổn thương người lân cận. Vì thế, tôi sẽ hết sức coi trọng luật dòng về việc giữ lặng.

376      Lạy Chúa Giêsu của con, con tin tưởng ơn Chúa sẽ giúp con thực hiện những điều quyết định này. Mặc dù những điều ấy được gồm chứa trong lời khấn vâng phục, nhưng con muốn thực hiện một cách đặc biệt, bởi vì đó là điểm thiết yếu của đời tu.

            Lạy Chúa Giêsu nhân lành, con khẩn khoản nài xin Chúa soi sáng tâm trí con để con được biết Chúa hơn, vì Chúa là Hữu Thể Vô Cùng, đồng thời cũng được biết bản thân hơn, vì con chỉ là hư vô.

377      (160) Về bí tích Xá Giải. Chúng ta có thể rút ra được hai hình thức lợi ích từ việc xưng tội, nếu:

            1. Chúng ta đi xưng tội để được chữa lành.

            2. Chúng ta đi xưng tội để được dạy dỗ - như một con trẻ, linh hồn chúng ta lúc nào cũng cần được huấn luyện.

            Lạy Chúa Giêsu của con, con am hiểu tường tận những lời này, và nhờ kinh nghiệm bản thân con biết rằng từsức mình, linh hồn sẽ không thể tiến xa; dù tận lực đi nữa cũng chẳng làm gì được cho sáng danh Chúa; linh hồn thường xuyên bị lầm lạc vì tâm trí tăm tối và không biết minh định những việc của mình. Con sẽ chú ý đặc biệt đến hai điểm: thứnhất, khi đi xưng tội, con sẽ chọn điều nào bắt mình phải trả giá thật đắt, vì dù lỗi phạm nhỏ mọn nhưng cũng là điều làm con nhục nhã, do đó con sẽ xưng thú ra; thứ hai, con sẽ thực hiện việc ái hối, không những lúc xưng tội, mà trong mọi lần hồi tâm, và con sẽ giục lòng ái hối, nhất là trước khi đi ngủ. Thêm một điểm nữa; linh hồn thành tâm muốn tiến bộ trên đường trọn lành phải nghiêm chỉnh vâng giữ lời khuyến giục của cha linh hướng. Lệ thuộc bao nhiêu, thánh thiện bấy nhiêu.

378      Một lần kia, khi đang thưa chuyện với cha linh hướng, tôi được thị kiến nội tâm - nhanh như ánh chớp - thấy linh hồn của ngài đang chịu đau khổ kinh khủng với một thứ lửa mà Thiên Chúa chỉ để chạm đến rất ít linh hồn. Đau khổ ấy xuất phát từ công cuộc này. Sẽ đến một thời điểm mà công cuộc Thiên Chúa đang đòi hỏi quá nhiều này sẽ ra như hoàn toàn thất bại. Và khi ấy, Thiên Chúa sẽ hành động với quyền năng phi thường để minh chứng tính xác thực của công cuộc. Đó sẽ là một vẻ huy hoàng tân kỳ đối với Giáo Hội, mặc dù đã bị quên vùi trong một thời gian lâu dài. Không ai còn có thể phủ nhận Thiên Chúa vô cùng lân ái. Chúa mong ước mọi người hiểu biết điều này trước khi Người lại đến trong tư cách Thẩm Phán. Chúa muốn các linh hồn nhận biết Người là Quân Vương Từ Ái. Khi cuộc vinh thắng xảy đến thì chúng tôi đã bước sang cuộc sống mới, không còn đau khổ. Nhưng trước đó, linh hồn cha [linh hướng] sẽ ê chề cay đắng khi nhìn thấy nỗ lực của ngài bị huỷ hoại. Tuy nhiên, điều ấy chỉ có vẻ bên ngoài như vậy mà thôi, vì một khi Thiên Chúa đã quyết định điều gì, Người sẽ không bao giờ đổi thay. Mặc dù sự huỷ hoại này (161) chỉ có vẻ bên ngoài, nhưng đau khổ vẫn là thực tế. Khi nào điều này xảy đến? Tôi không biết. Nó kéo dài bao lâu? Tôi cũng chẳng biết. [12] Chúa còn hứa ban một ơn đặc biệt cho cha và cho tất cả những ai... rao truyền Lòng Thương Xót cao vời của Cha. Cha sẽ bảo bọc họ trong giờ lâm tử như vinh quang của riêng Cha. Giả như tội lỗi các linh hồn có đen đủi như bóng đêm, nhưng khi quay về với Lòng Thương Xót của Cha là họ đã dâng lên Cha lời tôn vinh cao sang nhất và là vinh quang cuộc Thương Khó của Cha. Khi một linh hồn ca tụng lòng lành của Cha, Satan sẽ run giùng và chạy biến xuống tận đáy hoả ngục.

379      Trong một giờ chầu Thánh Thể, Chúa Giêsu đã hứa với tôi: Với những linh hồn đến nương nhờ cũng như những linh hồn tôn vinh và rao truyền Lòng Thương Xót Cha cho những người khác, đến giờ lâm chung của họ, Cha sẽ đối xử với họ theo lòng lân tuất vô cùng của Cha.

            Chúa Giêsu còn phán: Trái Tim Cha đau buồn vì ngay các linh hồn ưu tuyển cũng không hiểu biết về lòng xót thương hải hà của Cha. Tương giao của họ [với Cha] phần nào bị nhiễm độc vì sự nghi ngờ của họ. Ôi, điều ấy gây nên thương tích đau đớn biết bao cho Trái Tim Cha! Con hãy nhớ lại cuộc Thương Khó của Cha, và nếu không tin những lời của Cha, ít ra con cũng hãy tin vào các thương tích của Cha.

380      Tôi không làm một cử động, một điệu bộ nào theo ý thích bản thân, bởi vì nhờ ơn thánh, tôi đã được ràng buộc; tôi luôn luôn xét đến điều nào làm đẹp lòng Chúa Giêsu hơn.

381      Một lần kia, khi suy ngắm về đức vâng phục, tôi được nghe những lời này: Trong bài nguyện gẫm, vị linh mục[13] đang nói riêng cho con đó. Con hãy biết Cha đang mượn môi miệng của ngài. Tôi cố gắng chăm chú lắng nghe và áp dụng tất cả cho tâm hồn tôi, như mọi bài nguyện gẫm khác. Khi vị linh mục nói đến chỗ một linh hồn vâng lời được tràn đầy sức mạnh Thiên Chúa... Đúng, khi con vâng lời, Cha cất đi sự yếu đuối của con và thay sức mạnh của Cha vào đó. Cha rất ngạc nhiên vì các linh hồn không muốn thực hiện cuộc trao đổi ấy với Cha. Tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa soi sáng cho tâm hồn con, vì nếu không, cả con nữa cũng chẳng hiểu gì về những lời này”.

382      (162) Tôi biết mình sống không phải cho bản thân, nhưng cho rất nhiều các linh hồn. Tôi biết các ơn thánh ban cho tôi không phải chỉ cho mình tôi, nhưng còn cho các linh hồn.

            Lạy Chúa Giêsu, vực thẳm yêu thương Chúa đã trào đổ xuống hồn con là vực thẳm của chính Lòng Thương Xót. Lạy Chúa Giêsu, con xin cám tạ Chúa vì những ánh sáng và những mảng thập giá mà Chúa đã trao cho con trong từng giây phút cuộc đời.

383      Lúc bắt đầu giờ tĩnh tâm, tôi nhìn thấy trên trần nhà nguyện Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Với một khối tình chan chứa, Người nhìn xuống chị em, nhưng không phải tất cả mọi người. Có những chị Chúa Giêsu nhìn rất nghiêm nghị, vì những lý do gì tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng đối diện với một ánh nhìn như thế thật đáng sợ, vì đó là ánh nhìn của vị Thẩm Phán công minh. Cái nhìn đó không nhắm vào tôi, nhưng tôi thẫn thờ vì sợ hãi. Tôi vẫn còn run giùng khi đang ghi những lời này. Tôi không dám thưa một lời nào với Chúa Giêsu. Sức lực của tôi rã rời, và tôi tưởng mình không sống nổi cho đến cuối bài giảng. Ngày hôm sau, tôi cũng thấy như vậy một lần nữa, giống như những gì tôi xem thấy lần đầu, và lần này, tôi đánh liều thưa lên mấy lời: “Lạy Chúa Giêsu, Lòng Thương Xót Chúa bao la dường nào!”.

            Đến ngày thứ ba, ánh mắt nhân từ Chúa nhìn xuống tất cả các chị em, ngoại trừ ba người, vẫn như trước. Vì đức ái tha nhân, tôi dồn hết can đảm thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là Toàn Thương như chính Chúa đã cho con biết, con khẩn nài Chúa dùng quyền năng thương xót Chúa mà đoái nhìn đến ba chị ấy nữa. Và nếu như điều này không hợp với thượng trí của Chúa, thì con nài xin Chúa một sự trao đổi: xin Chúa hãy nhìn các chị ấy bằng ánh mắt hiền từ Chúa đang nhìn linh hồn con, và chuyển ánh mắt nghiêm nghị của Chúa đang nhìn họ vào linh hồn con”. Chúa Giêsu đáp lại tôi bằng những lời này: Hỡi ái nữ của Cha, vì đức ái chân thành và quảng đại của con, Cha sẽ ban cho họ nhiều ánh sáng mặc dù họ không xin Cha. Nhưng Cha làm như thế chỉ vì lời Cha đã hứa với con. Và lúc đó, Chúa đưa mắt nhân từ nhìn đến cả ba chị. Tim tôi rộn ràng sướng vui khi nhìn thấy lòng lành của Thiên Chúa.

384      (163) Khi tôi nán lại từ 9 đến 10 giờ để chầu Chúa, có bốn chị khác cũng ở lại. Khi tôi đến gần bàn thờ và bắt đầu suy niệm về cuộc Khổ Nạn Chúa Giêsu, một nỗi đau kinh khủng tức thì tràn ngập linh hồn tôi vì sự vong ân của quá nhiều linh hồn đang sống trên thế giới; nhưng đau đớn nhất là sự bội bạc của các linh hồn ưu tuyển. Không có một ý niệm hay so sánh nào có thể diễn tả được. Khi nhìn thấy sự vong ân tệ bạc ấy, tôi cảm thấy trái tim mình như bị xét nát; không còn một chút sức lực, và tôi ngã sấp xuống đất, không sao nén được nên oà khóc. Mỗi lần nghĩ đến Lòng Thương Xót vô bờ của Chúa và sự bội ân của các linh hồn, trái tim tôi lại bị một nỗi đau xuyên thấu, và tôi hiểu điều đó đả thương Trái Tim rất dịu hiền Chúa Giêsu đau đớn dường nào. Với con tim sốt sắng, tôi đã lặp lại hành vi dâng hiến của tôi để cầu cho các tội nhân.

385      Trong niềm hoan lạc và khát khao, tôi đã áp môi chén đắng mà mỗi ngày tôi đều lãnh nhận trong thánh lễ. Đó là kỷ phần Chúa Giêsu đã dành cho tôi, và tôi sẽ không nhường cho ai khác. Tôi sẽ không ngừng ủi an Trái Tim Thánh Thể vô cùng dịu dàng, và tấu lên những giai điệu du dương bằng cung đàn của trái tim tôi. Đau khổ là giai điệu du dương nhất. Hôm nay tôi sẽ để tâm tìm kiếm những điều làm vui thoả Trái Tim Chúa!

            Những ngày tháng cuộc đời tôi không hề đơn điệu. Khi những áng mây đen che khuất mặt trời, tôi sẽ như một cánh phượng hoàng, cố gắng vượt thắng những đợt sóng cồn để chứng tỏ cho mọi người biết rằng mặt trời vẫn không biến mất.

386      Tôi cảm thấy Thiên Chúa sẽ cho tôi vén mở những bức màn [thiên đàng] để trần gian không còn nghi ngờ lòng nhân lành của Người nữa. Thiên Chúa không tuỳ thuộc vào nhật thực, nguyệt thực hoặc sự đổi dời. Chúa muôn đời vẫn thế; không gì có thể nghịch lại thánh ý của Người. Tôi cảm nhận trong tôi một dũng lực mãnh liệt hơn hẳn sức mạnh nhân loại. Tôi nghiệm được lòng can đảm và sức mạnh nhờ ánh sáng trong tôi. Tôi cảm thông với những linh hồn đau khổ giữa lúc không còn hy vọng, vì chính tôi đã từng băng qua lò lửa ấy. Nhưng Thiên Chúa sẽ không để chúng ta gánh chịu [điều gì] quá sức. Tôi đã nhiều lần phải hy vọng lúc không còn hy vọng, và đã nâng cao niềm hy vọng của tôi đến chỗ hoàn toàn tín thác vào Chúa. Chớ gì những điều Thiên Chúa đã tiền định từ muôn thuở trước xảy đến với tôi.

            (164)    Một Nguyên Tắc Tổng Quát

387      Tránh đau khổ để thanh thản - đối với tu sĩ - là một điều rất xấu xa.

388      Hãy xem những gì ơn thánh và việc hồi tâm đã thực hiện cho người tội đồ gian phi. Anh ta đang hấp hối nhưng đầy tình yêu: “Xin Ngài nhớ đến tôi khi về nước Ngài”. Sự thống hối thành tâm đã lập tức biến đổi linh hồn ấy. Đời sống nội tâm phải được sống một cách thiết tha và thành thực.

389      Tình yêu phải có qua có lại. Nếu Chúa Giêsu đã cam chịu cay đắng ngập tràn vì tôi; thế thì tôi, hiền thê của Người, cũng phải vì Người mà chấp nhận tất cả đắng cay để làm bằng chứng tình yêu.

390      Ai biết tha thứ là người sẵn sàng để lãnh nhận muôn vàn hồng ân Thiên Chúa. Mỗi lần nhìn lên thập giá, tôi phải tha thứ tận đáy lòng.

391      Qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đi vào mối hợp nhất với các linh hồn. Cái chết càng xiết chặt những mối ràng buộc yêu thương. Tôi phải luôn luôn trở nên hữu ích cho tha nhân. Nếu là một tu sĩ tốt lành, tôi sẽ rất hữu ích, không những với hội dòng, mà còn với cả tổ quốc nữa.

392      Thiên Chúa ban ánh sáng của Người qua hai cách: soi động và soi sáng. Nếu chúng ta cầu xin một ơn nào đó, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta; nhưng chúng ta phải sẵn sàng đón nhận. Và để đón nhận ơn ấy, chúng ta cần phải bỏ mình. Tình yêu không hệ ở lời nói hay cảm giác, nhưng ở việc làm. Tình yêu là một hành vi của ý chí; là một tặng ân; tức là một món quà tặng ban. Lý trí, ý chí, và con tim - cả ba tài năng này đều phải được vận dụng trong lúc cầu nguyện. Trong Chúa Giêsu, tôi sẽ được sống lại từ cõi chết, nhưng trước tiên, tôi phải sống trong Người đã. Nếu tôi không tách rời bản thân mình khỏi thập giá, thì khi ấy Phúc Âm sẽ hiển lộ nơi tôi. Chúa Giêsu trong tôi sẽ bù đắp tất cả những thiếu sót của tôi. Ân sủng Người hoạt động không ngừng. Chúa Ba Ngôi chí thánh ban cho tôi sự sống sung mãn của Người qua tặng ân Thánh Thần. Ba Ngôi Thiên Chúa sống trong tôi. Khi yêu, Thiên Chúa yêu bằng trót cả Hữu Thể và trót cả quyền năng của Hữu Thể Người. Nếu Thiên Chúa đã yêu tôi như thế, thì tôi - hiền thê của Người - phải đáp lại thế nào đây?

393      (165) Trong một giờ nghe giảng, Chúa Giêsu phán với tôi: Con là quả nho ngon ngọt trong một chùm chọn lọc; Cha muốn những người khác cũng được chia sẻ chất nước đang mọng chảy trong con.

394      Trong lúc tuyên lại lời khấn, [14] tôi thấy Chúa Giêsu ở phía án sách [của bàn thờ], Chúa trong trang phục trắng, với dây đai bằng vàng, và tay cầm một thanh gươm đáng sợ. Thị kiến này kéo dài cho đến lúc các chị em bắt đầu tuyên lại lời khấn. Lúc này, tôi nhìn thấy một vầng hào quang, và trước đó có một đám mây trắng hình chiếc cân. Lúc đó, Chúa Giêsu tiến lên và đặt thanh gươm trên một dĩa cân, làm nó trĩu xuống gần chạm đất. Vừa lúc ấy, các chị đã tuyên lời khấn xong. Tôi thấy các thiên thần tiếp nhận từ mỗi chị một thứ gì rồi đặt chiếc bình vàng lên dĩa bên kia của chiếc cân, tức thì dĩa này nặng hơn và nhấc bổng chiếc dĩa có thanh gươm lên. Ngay lúc đó, một ngọn lửa từ lư hương bốc lên và ngút lên đến tận vầng hào quang. Khi ấy, tôi nghe có tiếng từ trong vầng hào quang: Hãy đặt thanh gươm về chỗ của nó; lễ hy sinh đã nặng hơn. Khi ấy, Chúa Giêsu chúc lành cho chúng tôi, và tất cả những gì tôi đã nhìn thấy đều biến mất. Các chị bắt đầu lên hiệp lễ. Khi tôi hiệp lễ, linh hồn tôi thoả thuê một niềm vui chất ngất đến độ không sao tả được.

395      Ngày 15 [tháng 2] năm 1935. Một vài ngày về quê [15] thăm thân mẫu hấp hối.

            Khi tôi hay tin thân mẫu lâm bệnh nguy tử và mong tôi trở về để thấy mặt một lần trước khi lìa đời, một triều cảm xúc đã trào lên trong lòng tôi. Như một người con thành tâm yêu mẹ, tôi rất muốn làm trọn ước nguyện của bà. Nhưng tôi trao nguyện ước này cho Thiên Chúa và phó mình hoàn toàn theo thánh ý Người. Không màng đến nỗi đau tâm hồn, tôi đã xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Vào buổi sáng ngày lễ bổn mạng của tôi, ngày 15 tháng 2, (166) Mẹ Bề Trên trao cho tôi bức thư thứ hai của gia đình và cho phép tôi về thăm để làm trọn ước nguyện và lời xin của người mẹ đang hấp hối của tôi. Tôi cấp tốc chuẩn bị hành lý cần thiết cho chuyến đi và rời Vilnius ngay chiều tối hôm đó. Tôi dâng trọn đêm ấy để cầu cho người mẹ đau nặng của tôi, xin Thiên Chúa ban ơn để bà đừng đánh mất phần nào công trạng trong cơn đau đớn.

396      Những người đồng hành cùng chuyến xe với tôi rất tử tế; có nhiều phụ nữ trong hội Đức Bà ở trên toa xe với tôi. Tôi nhận ra trong đó một người đang đau khổ và chiến đấu dữ dội trong lòng. Trong thần trí, tôi bắt đầu cầu nguyện cho linh hồn này. Lúc 11 giờ, những người phụ nữ đi sang một toa khác để trò chuyện, chỉ còn hai chúng tôi ở lại. Tôi có thể linh cảm thấy lời cầu nguyện của tôi đang làm cho cuộc chiến trong linh hồn này trở nên kịch liệt hơn. Tôi không an ủi, nhưng tha thiết cầu nguyện cho chị ấy. Sau cùng, chị ấy quay sang tôi và hỏi có buộc phải giữ điều đã hứa với Chúa hay không. Lúc đó, tôi nhận được một tri thức nội tâm về lời hứa của chị nên đáp: “Chị tuyệt đối phải giữ lời hứa ấy, nếu không sẽ phải khổ sở cả đời. Tư tưởng này sẽ theo chị khắp nơi và không để chị bình an đâu”. Ngạc nhiên trước câu trả lời của tôi, chị đã bộc bạch hết tâm hồn với tôi.

            Chị vốn là một giáo viên. Khi sắp sửa đi thi, chị đã hứa với Chúa nếu thi đậu, chị sẽ dâng mình để phụng sự Người; tức là vào một dòng tu. Chị đã thi đậu, chị kể: “Nhưng khi lăn lộn bon chen giữa đời, tôi không còn muốn đi tu nữa. Tuy nhiên, lương tâm không để cho tôi một chút bình an, mặc dù với đủ thứ giải khuây, nhưng lúc nào tôi cũng bị ray rứt”.

            Sau khi hàn huyên lâu giờ, chị ấy đã hoàn toàn được biến đổi và cho biết sẽ nhanh chóng sửa soạn vào dòng. Chị xin tôi cầu nguyện, và tôi cảm thấy Thiên Chúa thật quảng tâm ban phát những hồng ân của Người.

397      Sáng hôm đó tôi đến Wrsaw, và đúng 8 giờ tối, tôi đã về đến nhà quê. Thật vui mừng biết bao cho cha mẹ và toàn thể gia đình! Thật khó mà tả xiết. (167) Sức khoẻ mẹ tôi có phần khả quan đôi chút, nhưng theo bác sĩ thì không hy vọng hoàn toàn bình phục. Sau khi chào hỏi nhau, chúng tôi quỳ gối cùng cám tạ Thiên Chúa vì hồng ân được sum họp một lần nữa ở đời này.

398      Khi nhìn thấy thân phụ già cả cầu nguyện, tôi hết sức xấu hổ. Sau nhiều năm sống trong tu viện, tôi vẫn không sao cầu nguyện thành tâm và sốt sắng được như vậy. Do đó, tôi không ngừng cám tạ Thiên Chúa vì cha mẹ tôi được như thế.

399      Ôi, thấm thoát đã mười năm trời, mọi sự đã thay đổi đến độ không còn nhận ra được nữa! Mảnh vườn nhỏ giờ đây tôi không nhìn ra được. Các anh chị em trước kia còn thơ dại, bây giờ đã trưởng thành. Tôi ngạc nhiên vì không nhận ra họ giống như hồi chúng tôi chia tay. Em Stanley hồi đó ngày nào vẫn cùng tôi đi lễ. Tôi cảm thấy em rất đẹp lòng Chúa.

400      Vào ngày cuối cùng, khi mọi người đã ra về, em và tôi đến trước Thánh Thể và cùng nhau hát kinh Te Deum. Sau một lúc thinh lặng, tôi dâng linh hồn em cho Trái Tim rất dịu hiền Chúa Giêsu. Cầu nguyện trong một nhà thờ nhỏ bé thế này sung sướng thật! Tôi hồi tưởng tất cả những hồng ân đã được lãnh nhận ở đây, những hồng ân mà hồi đó tôi không hiểu và rất thường lạm dụng. Tôi tự hỏi sao hồi đó tôi lại tăm tối đến thế. Và trong khi đang nuối tiếc vì sự tăm tối của mình, bỗng nhiên tôi nhìn thấy Chúa Giêsu, sáng láng xinh đẹp khôn tả, và Người hiền từ nói với tôi: Con ưu tuyển của Cha, Cha còn ban cho con những ơn trọng đại hơn nữa để con trở nên chứng nhân cho Lòng Thương Xót vô biên của Cha cho đến đời đời.

401      Những ngày xum họp ở quê nhà trôi qua thật đầm ấm, vì ai nấy đều muốn gặp gỡ và trò chuyện với tôi. Tôi thường đếm được có đến 25 người ở đó. Họ thích thú nghe tôi kể hạnh tích các thánh. Dường như nhà của chúng tôi thực sự là nhà của Chúa, vào mỗi buổi tối, chúng tôi chỉ nói với nhau về Chúa. Lúc đã thấm mệt vì những câu chuyện và muốn được yên tĩnh, tôi lặng lẽ ra vườn để có thể tâm sự một mình với Chúa vào buổi tối, thế mà cũng không được; các em trai, em gái lập tức chạy theo và kéo tôi vào nhà, thế là một lần nữa, tôi lại phải nói, mọi người dán mắt vào tôi. (168)Nhưng tôi cũng tìm được ra cách để thư giãn một chút; tôi yêu cầu các em trai hát cho tôi nghe vì chúng có chất giọng rất tuyệt; hơn nữa, em này chơi vĩ cầm, em kia chơi măng-đô-lin. Và trong lúc đó, tôi có thể thầm thĩ cầu nguyện mà không phải tránh né cuộc sum họp.

            Thật tôi rất khó chịu khi phải ôm hôn lũ trẻ. Những phụ nữ quen biết dẫn con nhỏ của họ đến thăm rồi xin tôi bồng ẵm và hôn chúng ít là một lúc. Họ coi đó như một đặc ân, nhưng đối với tôi lại là dịp tập nhân đức, bởi vì nhiều đứa rất nhem nhuốc. Nhưng để thắng vượt những cảm giác ấy mà không lộ vẻ khó chịu, tôi đã hôn đứa trẻ bẩn thỉu ấy đến hai lần. Một người bạn đem theo đứa con bị đau mắt đầy những ghèn, và nói với tôi: “Chị ơi, ẵm nó một lúc nhé, làm ơn đi”. Tự nhiên của tôi rợn cả người, nhưng bất chấp, tôi đã bồng đứa trẻ lên, hôn những hai lần ngay vào chỗ bệnh và xin Chúa chữa lành cho nó.

            Tôi có nhiều dịp tập nhân đức. Tôi nghe ai nấy than thở về những đau khổ, và không gặp được một tâm hồn vui tươi bởi vì không có ai thật sự mến yêu Thiên Chúa; và điều ấy chẳng làm tôi ngạc nhiên chút nào. Tôi rất buồn vì không gặp được hai người em gái của tôi. Trong lòng tôi linh cảm linh hồn họ đang gặp nguy hiểm. Nỗi đau quặn thắt lòng tôi khi tưởng nghĩ đến họ. Một lần kia, khi được thân mật với Chúa, tôi tha thiết xin Chúa ban ơn cho họ, và Chúa đã trả lời:Cha không những đang ban cho họ những ơn cần thiết, mà cả những ơn đặc biệt nữa. Tôi hiểu Chúa sẽ mời gọi họ đến chỗ kết hợp mật thiết với Người. Tôi vui mừng khôn xiết vì tình yêu bao la nhường ấy đang hiển trị nơi gia đình chúng tôi.

402      Khi từ giã và xin cha mẹ chúc lành, tôi cảm nhận một sức mạnh ánh sáng Chúa đang trào đổ xuống cho linh hồn tôi. Cha tôi, mẹ tôi, mẹ đỡ đầu của tôi đều ứa nước mắt chúc lành cho tôi, cầu chúc cho tôi trọn niềm trung thành với những ánh sáng của Chúa, và nài nỉ tôi đừng bao giờ quên lãng biết bao ơn lành của Chúa vì đã mời gọi tôi bước vào nếp sống tu trì. Họ cũng xin tôi cầu nguyện. (169) Mặc dù ai nấy đều khóc, nhưng tôi không nhỏ một giọt nước mắt; tôi cố gắng tỏ ra can đảm và lựa lời an ủi, nhắc nhở cho họ rằng thiên đàng mới là nơi không còn ly biệt. Em Stanley tiễn tôi ra tận xe hơi. Tôi cho em biết Thiên Chúa rất yêu thương những tâm hồn trong trắng và trấn an rằng Thiên Chúa thoả lòng với em. Khi tôi nói về lòng nhân lành của Chúa và Người hằng tưởng nghĩ đến chúng ta, em đã bật khóc như một đứa trẻ. Tôi không ngạc nhiên bởi vì em là một linh hồn trong sạch, vì thế em có thể nhận ra Thiên Chúa.

403      Khi đã lên xe, tôi không sao dằn được lòng mình và oà khóc như một đứa trẻ, vui mừng vì Thiên Chúa đã ban cho gia đình tôi quá nhiều hồng ân, và tôi ngây ngất trong lời kinh tạ ơn.

                Trước lúc chiều tối, tôi đã về đến Warsaw. Trước tiên, tôi ghé chào vị Chủ Nhà [Chúa Giêsu Thánh Thể], và sau đó đi chào cảcộng đoàn.

404      Khi vào nhà nguyện để chào kính Chúa trước khi về ngủ, đồng thời cũng xin lỗi vì đã tâm sự quá ít với Người trong thời gian ở nhà quê, tôi đã nghe lời này trong linh hồn: Cha rất vui lòng, vì mặc dù không nói với Cha, nhưng con làm cho lòng nhân lành của Cha được tỏ hiện cho các linh hồn và khuyến giục họ mến yêu Cha.

405      Mẹ Bề Trên [Mary Joseph] nói với tôi: “Này chị, chúng ta ngày mai sẽ đi Jozefinek, và chị sẽ có dịp thưa chuyện với Mẹ Tổng Quyền (Michael]”. Tôi rất vui mừng. Mẹ Tổng Quyền vẫn như ngày nào, đôn hậu, bình an, và đầy Thánh Thần của Chúa. Tôi được thưa chuyện rất lâu với Mẹ. Chúng tôi cùng tham dự giờ kinh trưa, hát kinh cầu Thánh Tâm Chúa Giêsu. Có Chúa Giêsu được thờ kính trong mặt nhật.

406      Sau đó một lúc, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng, Người ra khỏi Bánh Thánh và ngự đến bàn tay tôi. Điều này kéo dài một lúc; niềm vui chan chứa linh hồn tôi. Chúa Hài Đồng Giêsu vẫn giữ nguyên hình dạng vậy như khi chúng tôi vào nhà nguyện cùng với Mẹ Bề Trên Mary Joseph - Giám Tập cũ của chúng tôi. Ngày hôm sau, tôi trở về Vilnius dấu yêu của tôi.

407      Ôi, tôi hạnh phúc biết bao khi được trở về tu viện của mình! Tôi cảm nghiệm như thể được vào dòng lần thứ hai. Tôi vui sướng khôn cùng trong sự tĩnh lặng êm đềm, nơi linh hồn dễ dàng được đắm say trong Chúa, được mọi người giúp đỡ mà không bị ai quấy rầy.

           Về đầu trang

(170)                Mùa Chay Thánh

408      Khi được đắm chìm vào cuộc Thương Khó Chúa, tôi thường nhìn thấy Chúa Giêsu như thế này trong giờ chầu: sau khi đánh đòn, các lý hình bắt Chúa và lột y phục đã dính đét vào những thương tích của Người ra; lúc chúng giật mạnh, các vết thương lại vỡ toát ra; rồi chúng ném chiếc áo điều tơi tả dơ nhớp lên những thương tích ấy của Chúa. Chiếc áo choàng có vài chỗ dài đến tận đầu gối của Chúa. Chúng đè Chúa ngồi trên một cây xà. Và rồi chúng đan một mạo gai lên đầu thánh thiện của Chúa. Chúng đặt một cây sậy vào tay Chúa và chế giễu, cúi đầu chào như một vị vua. Vài kẻ còn phun nhổ vào thánh nhan Chúa, trong khi những kẻ khác giật cây sậy đánh lên đầu Chúa. Bọn này tạt vả đau đớn; trong khi bọn khác bịt mặt và đánh đấm Chúa. Chúa Giêsu hiền lành chịu đựng tất cả những điều ấy. Ai có thể hiểu được Chúa - hiểu thấu được nông nỗi khổ đau của Người? Mắt Chúa trĩu nặng. Tôi cảm nhận được điều đang diễn ra nơi Trái Tim rất dịu dàng Chúa Giêsu vào lúc ấy. Ước chi mọi linh hồn hãy suy ngắm về những đau khổ của Chúa Giêsu vào lúc ấy. Người ta tranh nhau lăng mạ Chúa. Tôi suy tư: Sự dữ dằn như thế ở nơi nhân loại từ đâu mà ra? Đó là bởi tội lỗi mà ra. Tình yêu và tội lỗi đã gặp nhau.

409      Khi đang tham dự thánh lễ trong một nhà thờ cùng với một chị khác, tôi cảm nhận được sự cao cả và uy nghi của Thiên Chúa; tôi cảm nghiệm Giáo Hội đang được Thiên Chúa bao chiếm. Uy nghi Chúa bao bọc và làm tôi sợ hãi, nhưng cũng làm tôi dạt dào an bình và hoan lạc. Tôi biết không gì có thể cưỡng lại thánh ý Chúa. Ôi giả như mọi linh hồn đều nhận biết Đấng đang ngự trong những thánh đường của chúng ta, chắc sẽ không có quá nhiều phạm thánh và bất kính đối với những nơi thánh này đến thế!

410      Ôi Tình Yêu hằng hữu vô biên, con khẩn nài Chúa ơn này: xin soi sáng tâm trí con bằng ánh sáng trên cao; giúp con hiểu biết và trân trọng mọi vật theo giá trị của chúng.

411      (171)                Ngày 21 tháng 3 năm 1935

            Trong giờ thánh lễ, tôi nhìn thấy Chúa trong linh hồn; và nghiệm được sự hiện diện của Người thấu nhập hữu thểcủa tôi. Tôi cảm nhận được ánh nhìn của Chúa; và tình tự thật lâu với Người mà không phải thốt ra một lời nào; tôi biết những điều khát mong của Trái Tim Chúa, và luôn luôn thực hiện những điều đẹp lòng Người nhất. Tôi mến yêu Chúa đến cuồng si, và cảm thấy được Người yêu thương lại. Trong những lúc được gặp gỡ Chúa sâu thẳm trong hồn, tôi cảm thấy hạnh phúc chất ngất không sao diễn tả được. Những giây phút ấy thật ngắn ngủi vì linh hồn không thể chịu được lâu, nếu không nhất định nó sẽ lìa khỏi xác. Mặc dù những giây phút ấy rất ngắn ngủi, nhưng sức mạnh từ đó lại chuyển thông vào linh hồn và lưu lại đó một thời gian rất lâu. Không cần cố gắng chút nào nhưng tôi vẫn cảm nghiệm được một trạng thái tịnh hiệp sâu thẳm đang bao phủ, không chút suy giảm hoặc bị ảnh hưởng dù khi tôi nói chuyện với người khác hoặc làm các việc phận sự. Tôi cảm nghiệm sự hiện diện thường xuyên của Thiên Chúa mà linh hồn tôi không phải nỗlực. Tôi biết mình được kết hợp với Thiên Chúa, thắm thiết như một giọt nước nên một với đại dương thăm thẳm.

            Thứ Năm tuần trước khi giờ cầu nguyện gần kết thúc, tôi cảm nghiệm được ơn này và sự việc kéo dài một cách khác thường, đến hết thánh lễ, đến nỗi tôi tưởng mình sẽ chết vì vui sướng. Vào những lúc ấy, tri thức của tôi về Thiên Chúa và những ưu phẩm của Người càng sâu xa hơn. Tôi cũng biết mình và những nỗi khốn nạn của tôi nhiều hơn. Tôi ngỡ ngàng vì Thiên Chúa đã khứng đoái đến một linh hồn đớn hèn như tôi. Sau thánh lễ, tôi hoàn toàn được ngụp lặn trong Chúa và ý thức được mọi ánh nhìn của Người đến tận sâu thẳm linh hồn tôi. Khoảng giữa trưa, tôi ghé vào nhà nguyện một lúc, và sức mạnh ánh sáng ấy lại tác động tâm hồn tôi. Trong khi tôi còn đang trong trạng thái tịnh tâm ấy, Satan cầm một bình hoa và hết sức giận dữ ném xuống đất. Tôi nhìn thấy tất cả sự điên cuồng và ghen tức của nó.

412      Lúc đó không có ai trong nhà nguyện, thế là tôi chỗi dậy, nhặt những mảnh vụn của chiếc bình, cắm lại số hoa và cố gắng dọn dẹp trước khi có ai vào. Nhưng tôi đã không làm kịp vì Mẹ Bề Trên [Borgia] ngay lúc đó cùng với chị phụ trách phòng áo [16] và một số chị khác bước vào. Mẹ Bề Trên lấy làm ngạc nhiên vì tưởng tôi chạm đến vật gì trên bàn thờ (172) khiến cho bình hoa rơi vỡ. Chị phụ trách phòng áo tỏ vẻ hậm hực, nhưng tôi ráng giữ, không biện minh hoặc bào chữa. Gần đến tối, cảm thấy mệt nhoài và không thể chầu giờ thánh, tôi xin phép Mẹ Bề Trên đi ngủ sớm. Vừa đặt lưng xuống, tôi đã thiếp ngay, nhưng vào khoảng 11 giờ, Satan xô đẩy giường tôi. Tôi liền thức dậy và thanh thản cầu nguyện với thiên thần Bản Mệnh. Khi ấy, tôi cũng nhìn thấy các linh hồn đang đền tội trong luyện ngục. Các linh hồn giống như những chiếc bóng, ở giữa họ, tôi cũng thấy có nhiều quỷ dữ. Một tên quỷ trong số ấy cố sức trêu tức tôi; hắn lấy hình con mèo nhảy bổ lên giường và đè lên chân tôi, nặng như cả tấn.

            Tôi liên lỉ lần chuỗi Mân Côi, đến rạng sáng, những hình thù này biến hết, và tôi chợp mắt được một lúc. Đến sáng, khi vào nhà nguyện, tôi được nghe những lời này: Con được hợp nhất với Cha; con đừng sợ gì cả. Nhưng hỡi con, con hãy biết rằng Satan căm ghét con; nó căm hờn mọi linh hồn, nhưng đặc biệt căm thù con, bởi vì con đã giật khỏi quyền thống trị của nó quá nhiều linh hồn.

Thứ Năm tuần Thánh, ngày 18 tháng 4

413      Sáng nay, tôi đã nghe được những lời này: Từ hôm nay cho đến [lễ] Phục Sinh, con sẽ không được cảm nghiệm sự hiện diện của Cha, linh hồn con sẽ tràn ngập niềm nhung nhớ da diết. Và tức thì một nỗi nhớ nhung bồn chồn ngập ứ linh hồn tôi; tôi cảm thấy bị xa cách Chúa Giêsu yêu dấu của tôi. Đến giờ hiệp lễ, tôi nhìn thấy thánh nhan Chúa Giêsu trong từng tấm bánh [được đựng] trong chén lễ. Từ lúc đó, tôi cảm thấy một nỗi khao khát mãnh liệt trong linh hồn.

414      Thứ Sáu tuần Thánh. Vào lúc 3 giờ chiều, khi vào nhà nguyện, tôi đã nghe những lời này: Cha mong ước bức hình được tôn kính (173) một cách công khai. Sau đó, tôi thấy Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá với những cực hình khủng khiếp, và từ Trái Tim Người phát ra hai luồng sáng như trong bức hình.

415      Thứ Bảy. Trong giờ kinh Chiều, tôi thấy Chúa Giêsu, rạng rỡ như thái dương, trong y phục trắng tinh, Người phán với tôi, Chúc cho tâm hồn con được vui tươi. Và niềm vui ngây ngất tràn ngập tôi, tôi được thấu nhập bằng sự hiện diện của Thiên Chúa, một báu tàng quý giá cho linh hồn tôi không lời nào tả xiết.

416      Khi bức hình được trưng bày, [17] tôi nhìn thấy tay Chúa Giêsu chuyển động như đang làm một dấu thánh giá lớn. Vào buổi tối cùng ngày, khi đi ngủ, tôi nhìn thấy bức hình khắp thành phố, và thành phố được bao phủ bằng một thứ gì giống như chiếc mạng lưới. Khi Chúa Giêsu hiện ra, Người cắt đứt tất cả những chiếc mạng lưới, và sau cùng làm một dấu thánh giá lớn rồi biến đi. Tôi thấy mình bị vây quanh giữa đông đảo những hình thù gớm ghiếc đang điên hận căm hờn. Từ môi miệng chúng thốt ra những lời đe loi đủ thứ, nhưng không chạm được đến tôi. Một lúc sau, cảnh tượng này biến mất, nhưng mãi một lúc lâu, tôi không sao ngủ được.

417                              Ngày 26 [tháng 4]

            Thứ Sáu, khi đang ở Ostra Brama để tham dự nghi thức bức hình được bày kính, tôi đã được nghe bài giảng của cha giải tội [cha Sopocko]. Bài giảng nói về Lòng Thương Xót Chúa, đó là điều trước tiên Chúa Giêsu đã yêu cầu từ rất lâu. Khi cha bắt đầu nói về Lòng Thương Xót bao la của Chúa, bức hình trở nên rất sống động và chiếu giãi những luồng sáng xuyên thấu trái tim của những người có mặt ở đó, nhưng không phải mọi người đều được như nhau. Một số được nhiều hơn, một số được ít hơn. Niềm vui sướng chứa chan tràn ngập linh hồn tôi khi nhìn thấy ơn Chúa.

            (174) Khi ấy, tôi được nghe những lời này: Con là chứng nhân của Lòng Thương Xót Cha. Con sẽ đứng trước ngai toà của Cha mãi mãi như một chứng nhân sống động cho Lòng Thương Xót của Cha.

418      Khi bài giảng kết thúc, tôi không đợi đến hết nghi thức nhưng vội vã trở về nhà dòng. Khi tôi mới đi được vài bước, thì một đám quỷ đông nghịt hiện ra chặn đường. Chúng dùng những cực hình kinh khủng đe doạ, và tôi có thể nghe được những lời chúng bàn luận: Nó đã giật hết những gì chúng mình đã vất vả suốt bao nhiêu năm! Khi tôi hỏi chúng: “Chúng mày ở đâu ra mà đông đảo thế!” Những hình thù gớm ghiếc đáp lại: “Từ tâm hồn người ta; thôi đừng làm khổ tụi tao nữa!”.

419      Nhìn thấy sự căm hờn gớm ghê của chúng quỷ, tôi liền xin thiên thần Bản Mệnh trợ giúp, và tức thì thiên thần Bản Mệnh trong dáng dẻ sáng láng rạng ngời hiện đến nói với tôi: “Hỡi hiền thê của Thiên Chúa, đừng sợ hãi; nếu không được phép của Chúa, bọn quỷ thần này không thể làm hại chị đâu”. Tức thì, các quỷ dữ biến đi, và thiên thần Bản Mệnh tín trung đồng hành với tôi một cách hữu hình đi thẳng về nhà dòng. Dung mạo của ngài thật khiêm nhu và an bình, với một ngọn lửa lấp lánh trên trán.

            Ôi Chúa Giêsu, con muốn được vất vả, tàn tạ, và đau khổ suốt cả đời con để đáp lại giây phút con đã được nhìn thấy vinh quang của Chúa, và để mưu ích cho các linh hồn.

Chúa Nhật, ngày 28 [tháng 4] năm 1935

420      Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh, tức là ngày lễ kính Lòng Thương Xót Chúa, trùng với ngày bế mạc Năm Thánh Cứu Độ. Khi chúng tôi đi tham dự các nghi thức, lòng tôi rộn ràng sướng vui vì hai sự kiện trọng đại được liên kết chặt chẽ với nhau. Tôi xin Chúa dủ lòng thương xót linh hồn các tội nhân. Gần cuối buổi lễ, khi linh mục ban phép lành Thánh Thể cho mọi người, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu giống như trong bức hình. Chúa chúc lành và những ánh sáng của Người lan toả khắp thế giới. Bỗng tôi nhìn thấy một vầng sáng bất khả thấu có hình một vương toà pha lê, được đan kết từ những đợt sóng rực rỡ (175) mà các thụ tạo lẫn các thần thiêng không thể đến gần. Có ba cánh cửa dẫn đến vương toà rực rỡ ấy. Lúc đó, Chúa Giêsu - giống như được vẽ trong bức hình - tiến vào vương toà huy hoàng ấy qua cánh cửa thứ hai để vào trong Nhất Thể. Đó là Tam Vị Nhất Thể tối thượng, vô cùng. Tôi nghe được lời này: Đại lễ này phát xuất từ Lòng Thương Xót sâu thẳm của Cha, và được xác định trong những chiều kích sâu rộng của tình thương Cha. Mọi linh hồn tin tưởng tín thác vào Lòng Thương Xót Cha sẽ nhận được điều ấy. Tôi thoả thuê niềm vui sướng vì lòng nhân lành và cao trọng vô cùng của Thiên Chúa.

Ngày 19 tháng 4 năm 1935

421      Vào chiều hôm trước ngày bức hình được bày kính, tôi cùng với Mẹ Bề Trên đi thăm cha giải tội của chúng tôi [cha Sopocko]. Khi câu chuyện xoay đến vấn đề bức hình, cha giải tội ngỏ ý nhờ một người giúp làm một vài vòng hoa. Mẹ Bề Trên đáp: “Chị Faustina sẽ giúp được”. Tôi rất vui mừng về điều này, và khi chúng tôi trở về nhà dòng, tôi lập tức chuẩn bị một ít hoa lá, nhờ một học sinh nội trú giúp đem đến. Một người khác đang làm việc trong nhà thờ cũng giúp vào đó. Mọi sự đã sẵn sàng lúc 7 giờ tối, và bức hình đã được bày lên. Tuy nhiên, một vài phụ nữ nhìn thấy tôi đứng quanh đó, vì tôi làm phiền hơn là giúp đỡ vào đó. Hôm sau, họ hỏi các chị về bức hình xinh đẹp và ý nghĩa của nó. [Họtưởng] các chị biết vì cũng thấy một chị trong đó đã trang trí bức hình hôm trước. Các chị rất ngạc nhiên vì họ cũng chẳng biết gì cả; mọi người đều muốn nhìn xem và lập tức họ chợt nghĩ đến tôi. Họ nói: “Chị Faustina ắt hẳn phải biết tường tận về bức hình”.

            Khi họ bắt đầu hỏi, tôi im lặng, bởi vì tôi không thể nói ra sự thật. Sự im lặng của tôi càng khơi dậy tính tò mò của họ. Tôi càng phải cảnh tỉnh để khỏi nói dối mà cũng không phải tiết lộ sự thật, vì tôi không được phép [nói ra]. Lúc đó, họ bắt đầu tỏ vẻ khó chịu và công khai quở trách tôi: “Những người ngoài làm sao mà biết (176) được điều này, đến như chúng ta còn mù tịt?”. Những lời phê phán nhắm vào tôi. Suốt ba ngày, tôi đau khổ rất nhiều, nhưng một sức mạnh đặc biệt nâng đỡ linh hồn tôi. Tôi vui mừng vì được chịu khổ vì Chúa, và các linh hồn trong những ngày này đã được hưởng nhờ Lòng Thương Xót Chúa. Khi thấy rất nhiều linh hồn được hưởng nhờ Lòng Thương Xót Chúa trong những ngày này, tôi chẳng coi sao nỗi đau khổ và cực nhọc ghê rợn nhất, cho dù có triền miên cho đến tận thế; bởi vì chúng sẽ có ngày chấm dứt, còn các linh hồn được cứu thoát khỏi những cực hình sẽ không bao giờ chấm dứt. Thật là một niềm vui lớn lao cho tôi khi nhìn thấy người ta trở về với cung lòng Đấng Xót Thương Thần Linh, nguồn mạch sự hạnh phúc.

422      Khi nhìn thấy hy sinh và những nỗ lực của cha Sopocko đối với công cuộc này, tôi thán phục lòng kiên trì và khiêm nhượng của ngài. Tất cả công việc đòi trả một giá rất đắt, không những phải lao nhọc và gian truân tư bề, mà còn cả về phương diện tài chánh nữa; vậy mà cha Sopocko đã trang trải tất cả mọi phí tổn. Tôi thấy Chúa Quan Phòng đã chuẩn bị ngài để thực hiện công cuộc của Lòng Thương Xót Chúa trước khi tôi khấn xin Chúa về điều này. Ôi, lạy Chúa, thật diệu kỳ những đường lối của Chúa! Hạnh phúc cho những linh hồn nào bước theo tiếng gọi của ơn thánh!

423      Hỡi hồn tôi, hãy chúc tụng Thiên Chúa trong mọi sự và hãy tôn vinh tình thương Người, vì lòng lành của Chúa không bao giờ cùng. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lòng Thương Xót Chúa không giới hạn và chấm dứt. Sự dữ đến đâu cũng có mức độ, nhưng lòng nhân từ thì không mức độ.

            Lạy Thiên Chúa của con, ngay cả trong những hình phạt Chúa giáng xuống trần gian, con vẫn nhìn ra Lòng Thương Xót thẳm sâu của Chúa, bằng cách trừng phạt chúng con trên trần gian này, Chúa giải cứu chúng con khỏi hình phạt muôn kiếp. Hỡi tất cả tạo vật, hãy mừng vui vì các bạn được gần gũi với Thiên Chúa nơi Lòng Thương Xót vô biên của Người còn hơn một con trẻ với trái tim mẹ nó. Lạy Thiên Chúa, Chúa đầy trắc ẩn đối với các tội nhân khốn nạn nhưng biết thành tâm sám hối. Tội nhân càng khốn nạn, càng có quyền với (177) Lòng Thương Xót Chúa.

Về đầu trang

            Một Giây Phút, ngày 12 tháng 5 năm 1935

424      Buổi tối, khi vừa vào giường, tôi đã thiếp ngay. Tôi ngủ nhanh, nhưng tỉnh giấc còn nhanh hơn nữa. Một em nhỏ đến và đánh thức tôi. Em chỉ chừng một tuổi, và tôi rất ngạc nhiên vì em nói rất rõ ràng, các trẻ khác trạc tuổi đó chưa biết nói hoặc nói chưa sõi. Em bé này dễ thương không thể tả được và giống hệt Chúa Giêsu Hài Đồng, và em nói với tôi:Hãy nhìn lên bầu trời. Và khi tôi nhìn lên bầu trời, tôi nhìn thấy các vì sao và mặt trăng. Lúc đó, em bé hỏi tôi: Có thấy mặt trăng và các ngôi sao này không? Khi tôi trả lời - có, em bé nói những lời này với tôi: Những ngôi sao này là linh hồn các tín hữu trung thành, và mặt trăng là linh hồn các tu sĩ. Có thấy sự khác biệt biết bao giữa ánh sáng của mặt trăng và ánh sáng các ngôi sao hay không? Sự khác biệt trên thiên đàng giữa linh hồn một tu sĩ và linh hồn một tín hữu cũng như thế. Và em bé còn nói tiếp: Sự cao cả thực hệ ở lòng mến yêu Thiên Chúa và đức khiêm nhượng.

425      Khi đó tôi nhìn thấy một linh hồn đang lìa khỏi xác trong nỗi đau đớn kinh khiếp. Lạy Chúa Giêsu, khi con sắp sửa ghi lại việc này, con run sợ khi thấy những điều kinh khủng làm chứng chống lại ông ấy... Con nhìn thấy linh hồn những con trẻ còn rất nhỏ và linh hồn những trẻ em lớn hơn, chừng 9 tuổi, từ một hố bùn chỗi dậy. Các linh hồn này nhơ bẩn và gớm ghiếc, giống như những quái vật ghê sợ và những thi thể thối rữa. Nhưng các thi thể này vẫn sống và lớn tiếng đưa ra chứng cứ chống lại linh hồn người hấp hối. Và linh hồn hấp hối mà tôi đang nhìn thấy kia là một linh hồn được nhiều ca tụng và danh dự trần gian, nhưng kết cục chỉ là sự trống rỗng và tội lỗi. Sau cùng, một người phụ nữ xuất hiện, cầm một thứ gì trên tấm khăn giống như những giọt nước mắt, và hùng hồn làm chứng chống lại ông ta.

426      Ôi giờ kinh hoảng, (178) giờ người ta phải nhìn thấy tất cả hành vi của mình trong sự trần trụi và khốn cùng; không một hành vi nào bị bỏ sót, tất cả sẽ cùng chúng ta đến trước toà phán xét của Thiên Chúa. Tôi không thể tìm được ngôn từ hay so sánh nào để diễn tả những điều hãi hùng như thế. Dường như linh hồn này không bị trầm đoạ, nhưng phải chịu cực hình không khác gì những cực hình hoả ngục; chỉ có một khác biệt là chúng sẽ có ngày chấm dứt mà thôi.

427      Một lúc sau, tôi lại nhìn thấy con trẻ đã đánh thức tôi. Em bé có một vẻ đẹp diệu kỳ và lặp lại cho tôi những lời này: Sự cao cả thực hệ ở lòng mến yêu Thiên Chúa và đức khiêm nhượng. Tôi hỏi: “Làm sao bé biết được sự cao cả của linh hồn là ở lòng mến yêu Thiên Chúa và đức khiêm nhượng? Vì chỉ các nhà thần học mới biết được những điều như thế, trong khi bé chưa đi học giáo lý cơ mà. Thế làm sao bé biết được? Em bé đã trả lời câu hỏi này: Ta biết, Ta biết tất cả mọi sự. Và rồi, em biến đi.

428      Nhưng tôi không thể ngủ lại; đầu óc mệt nhoài vì suy đi nghĩ lại những điều vừa được xem thấy. Hỡi các linh hồn, các bạn biết chân lý này quá muộn màng! Ôi vực thẳm Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, xin hãy nhanh chóng trào đổ xuống cho toàn thế giới theo như lời Chúa đã phán.

Tháng 5 năm 1935. Một Giây Phút

429      Khi ý thức những chương trình vĩ đại Thiên Chúa dành cho tôi, tôi kinh hãi trước tầm mức lớn lao và cảm thấy hoàn toàn bất lực trước những chương trình ấy. Tôi bắt đầu trốn tránh các cuộc chuyện vãn nội tâm với Chúa, bằng cách nhồi nhét cho kín thời giờ bằng những lời khẩu nguyện. Tôi làm điều đó chỉ vì khiêm nhượng, nhưng tôi nhận ra đó không phải là khiêm nhượng thật, đúng hơn, đó là một cám dỗ do thần dữ. Vào một dịp kia, thay vì tâm nguyện, tôi đã đọc sách thiêng liêng, và trong linh hồn đã nghe những lời này một cách rõ ràng và mạnh mẽ: Con hãy sửa soạn thế giới cho lần đến sau cùng của Cha. Những lời này đánh động tôi thật sâu xa, và mặc dù giả vờ (179) như không nghe thấy, nhưng tôi hiểu rất rõ ràng và không còn nghi ngờ gì nữa về những lời ấy. Một lần kia, vì quá mệt nhọc trong cuộc chiến tình yêu với Thiên Chúa và cứ phải thường xuyên thoái thác, vịn cớ không đủ sức thực hiện công việc, tôi muốn ra khỏi nhà nguyện, nhưng một sức mạnh đã giữ tôi lại và tôi thấy mình bất lực. Khi ấy, tôi được nghe những lời này: Con muốn rời nhà nguyện, nhưng con sẽ không rời Cha được, vì Cha ở khắp nơi. Con không thể tự mình làm được việc gì, nhưng với Cha, con có thể làm được mọi sự.

430      Trong tuần, khi đi thăm cha giải tội [cha Sopocko] và trình bày tình trạng linh hồn với ngài, nhất là về việc tránh né đàm thoại nội tâm với Chúa, tôi được cho biết không được phép tránh né đàm thoại nội tâm với Thiên Chúa, nhưng phải chăm chú lắng nghe những lời Chúa phán bảo.

431      Tôi đã vâng theo lời khuyên của cha giải tội. Trong lần gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu, tôi sấp mình dưới chân Chúa, với tâm hồn đau đớn, xin Người tha thứ tất cả. Khi ấy Chúa Giêsu nâng tôi khỏi mặt đất và đặt ngồi bên cạnh Người, rồi cho tôi dựa đầu vào ngực Chúa để có thể hiểu biết và cảm nghiệm hơn nữa những khát vọng của Trái Tim rất dịu hiền của Người. Khi ấy, Chúa phán những lời này với tôi: Hỡi ái nữ của Cha, con đừng sợ hãi gì; Cha luôn luôn ở với con. Tất cả những kẻ nghịch chỉ có thể làm hại con đến mức độ Cha cho phép mà thôi. Con là nơi cư ngụ và là nơi nghỉ ngơi thường xuyên của Cha. Vì con, Cha sẽ kềm chế cánh tay trừng phạt; vì con, Cha chúc lành cho thế giới.

432      Ngay lúc đó, tôi cảm nghiệm một ngọn lửa trong tâm hồn. Tôi cảm thấy các quan năng ra như chết và không còn biết những điều đang xảy ra chung quanh. Tôi cảm nhận ánh nhìn của Thiên Chúa đang xuyên thấu từng thớ hữu thểcủa tôi. Tôi ý thức về sự cao cả của Thiên Chúa và tình trạng đớn hèn của mình. Một nỗi đau lạ thường thấu nhập linh hồn tôi, xen lẫn một niềm vui không gì sánh được. Tôi cảm thấy bất lực trong vòng tay ấp ủ của Thiên Chúa. Tôi thấy mình ở trong Người và được tan hoà trong Người như một giọt nước giữa đại dương. Tôi không sao diễn tả được những gì đang xảy ra trong lòng; sau một lúc tâm nguyện như vậy, tôi nghiệm được sức mạnh và năng lực để thực hành những nhân đức khó khăn nhất. Tôi cảm thấy chán ngán với tất cả những gì thế gian coi trọng. Với trót linh hồn, tôi thèm khát sự âm thầm và tĩnh lặng.

433      (180)                Tháng 5 năm 1935

            Trong việc đạo đức Bốn Mươi Giờ, tôi đã nhìn thấy thánh nhan Chúa Giêsu trong Bánh Thánh được tôn kính trong mặt nhật. Chúa Giêsu nhìn mọi người một cách nhân từ.

434      Tôi thường được thấy Chúa Giêsu Hài Đồng trong thánh lễ. Người cực kỳ xinh đẹp, khoảng chừng một tuổi. Một lần kia, khi nhìn thấy Chúa Hài Đồng trong thánh lễ tại nhà nguyện của chúng tôi, tôi không sao cưỡng lại được nỗi nhung nhớ ray rứt và khao khát mãnh liệt được đến gần bàn thờ để bồng ẵm Người. Vào lúc đó, Chúa Giêsu Hài Đồng đang đứng gần, cạnh ghế quỳ của tôi, Người chống hai bàn tay nhỏ xíu lên vai tôi, khả ái và vui tươi, ánh nhìn của Người sâu sắc và xuyên thấu. Nhưng đến giờ linh mục bẻ Bánh Thánh, Chúa Giêsu lập tức trở lại bàn thờ, bị bẻ ra, và bị linh mục ăn mất.

            Sau hiệp lễ, tôi thấy Chúa Giêsu như trước trong tâm hồn và một cách thể lý, cảm nghiệm được Người suốt cả ngày. Một trạng thái tịnh hiệp hết sức sâu xa, mặc dù không ý thức, đã chiếm hữu tôi, và tôi không trao đổi với bất cứ ai một lời nào. Tôi tránh mọi người hết sức có thể, và chỉ trả lời những câu liên quan đến phận sự của tôi, ngoài ra, không còn một lời nào khác.

Ngày 9 tháng 6 năm 1935. Lễ Hiện Xuống

435      Khi tản bộ trong vườn vào buổi tối, tôi được nghe những lời này: Vì những lời khẩn cầu của con, con và những người đồng tâm với con sẽ lãnh nhận được Lòng Thương Xót cho các con và cho thế giới. Tôi đã hiểu chắc mình sẽ không còn được sống trong hội dòng này nữa. [18] Tôi đã thấy rõ ràng thánh ý Thiên Chúa về tôi một cách khác hẳn. Nhưng tôi vẫn thoái thác, phân bua với Chúa rằng tôi không có khả năng thực hiện công việc này. “Lạy Chúa Giêsu, Chúa quá biết con là gì” [tôi thưa], và tôi bắt đầu kể lể những khuyết điểm ấy để Chúa đồng ý rằng tôi không có khả năng thực hiện (181) các chương trình của Người. Khi ấy, tôi nghe những lời này: Đừng sợ, chính Cha sẽ bù đắp tất cả những gì khiếm khuyết nơi con. Những lời này đã xuyên thấu sâu thẳm trong tôi và cho tôi ý thức hơn nữa về sự khốn cùng của mình, và tôi hiểu rằng Lời Chúa đang sống động và xuyên thấu đến những chỗ sâu thẳm. Tôi hiểu Thiên Chúa đòi hỏi tôi phải sống hoàn hảo hơn nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn nại vào sự bất toàn của mình để thoái thác.

436                              Ngày 29 tháng 6 năm 1935

            Khi kể cho cha linh hướng [cha Sopocko] về những điều Chúa yêu cầu tôi, tôi cứ tưởng ngài cũng đồng ý là tôi không đủ khả năng thực hiện tất cả những điều ấy và Chúa Giêsu cũng không sử dụng những linh hồn như tôi vào các công cuộc của Người. Nhưng tôi lại nghe cha đáp rằng những linh hồn như thế mới là những người rất thường được Chúa tuyển chọn để thực hiện các chương trình của Người. Chắc chắn, vị linh mục này đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn; ngài thấu hiểu những bí nhiệm của linh hồn tôi, những bí nhiệm sâu kín nhất giữa tôi với Chúa, cả những điều tôi chưa từng nói cho ngài biết, bởi vì chính tôi không hiểu và Chúa cũng chưa bảo tôi phải nói cho ngài biết. Bí nhiệm ấy thế này: Chúa truyền phải có một hội dòng rao giảng Lòng Thương Xót của Chúa cho thế giới, và bằng kinh nguyện, mà nài xin ơn ấy cho thế giới. Khi vị linh mục ấy hỏi tôi đã từng được các soi động như thế bao giờ chưa, tôi đáp rằng tôi chưa được những mệnh lệnh rõ ràng nào cả; nhưng ngay lúc ấy, một ánh sáng thấu nhập linh hồn tôi, và tôi hiểu Chúa đang nói qua vị linh mục.

437      Tôi đã chữa mình một cách vô ích, rằng tôi chưa nhận được những mệnh lệnh rõ ràng, bởi vì vào cuối cuộc nói chuyện, tôi đã nhìn thấy Chúa Giêsu đứng ở ngưỡng cửa giống như Người được vẽ trên bức hình, và Chúa phán với tôi:Cha ước ao có một hội dòng như thế. [19] Điều này kéo dài chỉ một lúc. (182) Tuy nhiên, tôi không thưa với Chúa ngay về việc ấy, vì đang vội vã trở về nhà, và tôi cứ nài nỉ với Chúa: “Chúa ơi, con không thể thực hiện được những chương trình của Chúa đâu!”. Nhưng lạ thật, Chúa Giêsu chẳng màng đến những lời năn nỉ ấy, nhưng cho tôi nhìn thấy và hiểu rằng công việc này rất đẹp lòng Người. Người không xét đến các yếu đuối của tôi, nhưng cho biết tôi phải vượt qua nhiều gian truân. Và tôi, một thụ tạo đớn hèn của Người, chỉ còn nước phải thưa lên: “Lạy Thiên Chúa của con, con không có khả năng về việc ấy đâu!”.

438                              Ngày 30 tháng 6 năm 1935

            Thánh lễ ngày hôm sau vừa bắt đầu, tôi đã nhìn thấy Chúa Giêsu với tất cả vẻ xinh đẹp khôn tả của Người. Chúa phán bảo tôi rằng Người ước ao một hội dòng như thế sớm được thành lập hết sức có thể, và con sẽ sống trong đó với những người đồng tâm với con. Thần Khí Cha sẽ là luật sống của các con. Đời sống của các con sẽ mô phỏng theo cuộc sống của Cha, từ máng cỏ đến khi tử nạn trên thập giá. Các con hãy đi sâu vào các mầu nhiệm của Cha, và các con sẽ hiểu biết được vực thẳm thương xót dành cho các thụ tạo và lòng nhân hậu vô biên của Cha - đó là điều các con sẽ tỏ ra cho thế gian. Qua kinh nguyện, các con sẽ giao hoà giữa thiên đàng và trần gian.

439      Thế rồi đến giờ hiệp lễ, Chúa Giêsu biến đi, và tôi nhìn thấy một vầng sáng lớn. Khi đó, tôi nghe những lời này:Chúng Ta ban phúc lành của Chúng Ta. Ngay lúc ấy, một tia sáng phát ra từ vầng sáng lớn và chiếu xuyên qua trái tim tôi; một thứ lửa phi thường được đốt lên trong linh hồn tôi - tôi tưởng mình sẽ chết vì vui mừng hạnh phúc. Tôi nghiệm thấy linh hồn lìa khỏi thân xác. Tôi cảm thấy hoàn toàn được đắm đuối trong Thiên Chúa, và được Đấng Toàn Năng mang đi như một hạt bụi nhỏ bé vào những khoảng xa vô định.

            Run lên với niềm vui sướng trong vòng ôm ấp của Đấng Tạo Hoá, tôi cảm thấy được Người đỡ nâng để có thể chịu nổi khối hạnh phúc mênh mang và chiêm ngắm uy linh của Người. Giờ đây tôi biết rằng, nếu chính Chúa không(183) kiện cường tôi bằng ánh sáng của Người trước có lẽ linh hồn tôi không thể chịu nổi niềm hạnh phúc này và sẽ chết ngay lập tức. Thánh lễ đã kết thúc từ bao giờ mà tôi không biết, vì tôi không còn khả năng chú ý đến những gì đang xảy ra trong nhà nguyện. Sau khi các giác quan hồi phục, tôi cảm thấy mạnh mẽ và can đảm để thực thi thánh ý Chúa; dường như không còn gì khó khăn với tôi cả; trong khi trước kia lúc nào tôi cũng thoái thác với Chúa, thì giờ đây tôi cảm nhận ơn can đảm và sức mạnh của Người trong tôi, và tôi thưa: “Con sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa!” Lòng tôi đã vượt qua tất cả những gì tôi sẽ trải nghiệm thực tế trong tương lai.

440      Lạy Đấng Tạo Thành và Thiên Chúa của con, toàn thể hữu thể con thuộc về Chúa! Xin an bài con theo sở thích thần linh, theo những chương trình từ muôn đời, cũng như Lòng Thương Xót vô biên của Chúa. Ước chi mọi người đều nhận biết Chúa tốt lành dường bao; ước chi không ai còn sợ giao kết thân mật với Chúa; ước chi không còn ai nại vào sự bất xứng của mình để thoái thác với Chúa, và ước chi họ không bao giờ trù trừ chấp nhận những lời mời gọi của Chúa, bởi vì như thế là không đẹp lòng Chúa. Không linh hồn nào xấu xa như con, vì con thực sự biết bản thân mình và con kinh ngạc vì uy nghi Chúa đã hạ mình thái quá. Ôi cõi đời đời, dường như bạn vẫn còn quá ngắn ngủi không đủ cho tôi tôn vinh Lòng Thương Xót vô cùng của Chúa!

441      Một lần kia, bức hình được trưng bày trên bàn thờ trong cuộc cung nghinh dịp đại lễ kính Mình Máu Thánh Chúa [ngày 20.6.1935]. Khi linh mục đặt Mình Thánh và ca đoàn cất tiếng hát, những luồng ánh sáng từ bức hình xuyên qua Bánh Thánh và chiếu toả khắp nơi. Sau đó, tôi được nghe những lời này: Những luồng sáng của Lòng Thương Xót sẽ xuyên qua con như đã xuyên qua Bánh Thánh và sẽ lan truyền (184) khắp thế giới. Một niềm vui sâu xa chan chứa linh hồn tôi khi nghe những lời ấy.

442      Một lần kia, khi cha giải tội [cha Sopocko] đang dâng thánh lễ, như thường lệ kể từ lúc dâng của lễ, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng trên bàn thờ. Tuy nhiên, ngay trước giờ tôn vinh Thánh Thể, linh mục bỗng biến mất trước mắt tôi và chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu. Đến giờ tôn vinh Thánh Thể, Chúa Giêsu hướng mắt lên trời, đôi tay bé bỏng của Người cầm lấy Bánh Thánh và Chén Thánh dâng lên, một lúc sau tôi mới thấy lại vị linh mục. Tôi hỏi Chúa Giêsu Hài Đồng linh mục đã ở đâu trong thời gian tôi không nhìn thấy ngài. Chúa Giêsu trả lời: Ở trong Trái Tim Cha. Nhưng tôi chẳng hiểu được gì từ những lời của Chúa.

443      Vào một dịp kia, tôi đã nghe những lời này: Cha ước mong con hãy sống theo thánh ý Cha, trong tận thẩm cung linh hồn con. Tôi suy nghĩ về những lời mang đầy ý nghĩa này đối với tâm hồn tôi. Hôm nay là ngày xưng tội của cộng đoàn. Khi tôi cáo mình xong, linh mục [cha Sopocko] lặp lại với tôi cũng những lời chính Chúa đã nói trước cho tôi.

444      Vị linh mục nói với tôi những lời sâu sắc này: “Có ba mức độ trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa: mức độ thứ nhất, linh hồn chu toàn tất cả những lề luật và quy định liên quan đến hình thức tuân giữ bề ngoài; mức độ thứ hai, linh hồn chấp nhận và trung thành thực hiện những soi động bên trong; mức độ thứ ba, linh hồn phó mình cho thánh ý Thiên Chúa và để Người tự do định đoạt về họ. Thiên Chúa vui lòng thực hiện điều ấy theo ý muốn của Người và linh hồn là một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Người”. Vị linh mục nói tôi đang ở mức độ thứ hai, chưa đạt đến mức độ (185) thứ ba, và tôi phải nỗ lực để vươn lên. Những lời này thấu tận linh hồn tôi. Tôi thấy rõ ràng Thiên Chúa thường ban cho vị linh mục này hiểu thấu những điều kín nhiệm trong linh hồn tôi. Điều này không làm tôi ngạc nhiên chút nào; thực vậy, tôi cám tạ Thiên Chúa vì Người có những nhân sự ưu tuyển như vậy.

Thứ Năm, Giờ Chầu Đêm

445      Khi tôi đi chầu, trạng thái tịnh hiệp lập tức chiếm đoạt tôi, và tôi nhìn thấy Chúa Giêsu đang chịu trói ghì vào cột đá, bị tước lột y phục, và ngay lúc đó trận đòn cũng bắt đầu. Tôi nhìn thấy bốn người đàn ông thay phiên nhau dùng roi đánh Chúa. Trái tim tôi hầu như ngưng đập khi chứng kiến những cảnh đày đoạ này. Chúa phán với tôi: Cha đã chịu đau đớn hơn cả những gì con nhìn thấy. Và Chúa Giêsu tỏ cho tôi biết những tội lỗi nào đã bắt Người phải chịu đánh đòn: đó là những tội phạm đến đức trong sạch. Ôi, nỗi đau đớn tinh thần của Chúa Giêsu lúc chịu đánh đòn kinh hãi biết bao! Khi ấy, Chúa Giêsu phán với tôi: Con hãy nhìn xem nhân loại trong tình trạng hiện thời. Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy những điều kinh hoàng: các lý hình bỏ mặc Chúa Giêsu ở lại đó, và có những người khác tra tay đánh đập Người; họ nắm chặt những chiếc roi tua và đánh đập Chúa một cách dã man. Những người này là các linh mục, các tu sĩ nam nữ, và các vị có thẩm quyền cao sang trong Giáo Hội, điều này đã làm tôi thất kinh. Cũng có những giáo dân đủ mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh sống. Tất cả đều trút những lời thoá mạ vào Chúa Giêsu vô tội. Nhìn thấy cảnh tượng này, trái tim tôi như lâm vào tình trạng hấp hối. Trong khi chịu những lý hình đánh đập, Chúa Giêsu vẫn im lặng và nhìn vào khoảng không; nhưng khi những linh hồn mà tôi vừa nói đến đánh đập Chúa, thì Người nhắm nghiền mắt lại, và có tiếng rên rỉ thống thiết phát ra từ Trái Tim Người. Chúa Giêsu cho tôi biết tường tận về sự nặng nề xấu xa của những linh hồn vong ân bạc nghĩa này: Con hãy coi, đây là một cực hình còn ghê rợn cả cái chết của Cha. Khi ấy, đôi môi mím lại, tôi bắt đầu cảm nghiệm (186) nỗi cay cực của cái chết, và tôi nhận thấy không ai có thể an ủi hoặc đưa tôi ra khỏi tình trạng ấy được ngoại trừ chính Đấng đã dẫn tôi vào. Khi đó, Chúa phán với tôi: Cha thấy nỗi đau khổ chân tình của trái tim con đã đem đến một an ủi lớn lao cho Trái Tim Cha. Con hãy nhìn xem để được an ủi.

446      Khi ấy, tôi thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Khi Chúa bị treo lên một lúc, tôi thấy một đám đông các linh hồn cũng chịu đóng đinh như Người. Rồi tôi thấy một đám đông thứ hai, thứ ba. Đám đông thứ hai không chịu đóng đinh vào thập giá [của mình], nhưng cầm chặt thập giá trong tay. Đám đông thứ ba không chịu đóng đinh, mà cũng chẳng cầm thập giá trong tay, nhưng kéo lê phía sau và tỏ ra nhăn nhó. Chúa Giêsu lúc đó phán với tôi: Con có thấy những linh hồn này không? Những ai chịu đau khổ và khinh bỉ như Cha, họ sẽ nên giống Cha trong vinh quang. Những ai ít giống Cha trong đau khổ và khinh bỉ cũng sẽ ít giống Cha trong vinh quang.

            Trong số các linh hồn chịu đóng đinh, đông đảo nhất là các vị trong hàng giáo sĩ. Tôi còn thấy một số vị quen biết và điều đó làm tôi rất vui mừng. Khi ấy, Chúa Giêsu phán với tôi rằng: Trong giờ nguyện gẫm ngày mai, con hãy suy gẫm về điều hôm nay con đã được nhìn thấy. Và ngay sau đó, Chúa Giêsu biến đi.

447      Thứ Sáu. Tôi ngã bệnh và không thể tham dự thánh lễ. Lúc 7 giờ sáng, tôi được thấy cha giải tội của tôi đang dâng lễ, và tôi cũng được thấy Chúa Giêsu Hài Đồng. Gần cuối thánh lễ, thị kiến chấm dứt. Và tôi thấy mình trong phòng riêng như trước. Tôi mừng vui khôn tả vì mặc dù không tham dự thánh lễ trong nhà nguyện, nhưng tôi đã được tham dự tại một nhà thờ xa hơn. Chúa Giêsu là thần dược cho tất cả.

            (187)                Ngày 30 tháng 7 năm 1935

448      Lễ thánh Inhaxiô. Tôi cầu nguyện tha thiết với thánh nhân, trách ngài chỉ đứng bàng quan mà không đến trợ giúp tôi trong những vấn đề hệ trọng như việc thực thi thánh ý Chúa. Tôi thưa với ngài: “Lạy thánh nhân, quan thầy của con, đấng cháy lửa mến yêu và nhiệt thành vì vinh quang rạng rỡ hơn cho Thiên Chúa, con khẩn khoản nài xin thánh nhân giúp con thực hiện các chương trình của Chúa”. [20] Việc này xảy ra trong giờ thánh lễ. Khi ấy, tôi nhìn thấy thánh Inhaxiô bên phía trái bàn thờ, với một quyển sách lớn trên tay. Thánh nhân nói những lời này với tôi: “Hỡi con, ta không hững hờ với công cuộc của con đâu. Bộ luật có thể được thích nghi, và có thể thích nghi được với hội dòng này”. Và đang lúc chỉ tay vào quyển sách lớn, thánh nhân biến đi. Tôi rất vui mừng vì các thánh đã lưu tâm nhiều đến chúng ta, và chúng ta được liên kết mật thiết với các ngài. Ôi, lòng nhân lành của Thiên Chúa! Thế giới siêu nhiên thật xinh đẹp biết bao, ngay dưới trần gian này, chúng ta đã được hiệp thông với các thánh! Suốt ngày, tôi cảm thấy sự hiện diện của đấng thánh bổn mạng đáng yêu này.

Ngày 5 tháng 8 năm 1935. Lễ kính Đức Mẹ Nhân Lành

449      Tôi đã dọn mình mừng lễ này sốt sắng hơn những năm trước. Vào buổi sáng chính ngày lễ, tôi phải chịu một cuộc chiến đấu trong lòng với ý nghĩ rằng tôi sẽ phải lìa bỏ hội dòng được hưởng nhờ sự phù trợ đặc biệt của Đức Mẹ. Cuộc chiến kéo dài suốt giờ nguyện gẫm và thánh lễ thứ nhất. Đến thánh lễ thứ hai, tôi hướng về Đức Mẹ thân thưa rằng tôi khó lòng mà rời bỏ được hội dòng này: “Hội dòng được hưởng nhờ sự chở che của Mẹ, Mẹ Maria ơi”. Khi ấy, tôi nhìn thấy Đức Mẹ Đồng Trinh, xinh đẹp vô ngần. Mẹ xuống khỏi bàn thờ và đến bàn quỳ của tôi, giữ tôi ở sát bên Mẹ và nói:Nhờ Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa, Mẹ là Hiền Mẫu của tất cả các con. Linh hồn nào trung thành thực thi thánh ý Thiên Chúa là linh hồn đẹp lòng Mẹ nhất. Mẹ cho biết tôi đã trung thành thực thi thánh ý Chúa (188) và đã được ơn nghĩa trước mắt Người. Hãy can đảm. Đừng sợ hãi những trở ngại trước mắt, nhưng hãy ngắm nhìn cuộc Thương Khó của Con Mẹ, và như vậy, con sẽ được chiến thắng.

Giờ Chầu Đêm

450      Tôi chịu đau đớn dữ dội và dường như không thể tham dự phiên chầu của mình, tôi tập trung hết nghị lực ý chí, và dù bị ngã trong phòng, tôi cũng chẳng lưu tâm đến những cơn đau, vì tôi đã có cuộc Khổ Nạn Chúa Giêsu trước mắt. Khi vào nhà nguyện, tôi nhận được một tri thức nội tâm về phần thưởng lớn lao Thiên Chúa đang dọn sẵn cho chúng ta, không những về các việc lành, mà còn về ước nguyện chân thành muốn thực hiện các việc ấy nữa. Đây thực là một hồng ân lớn lao Thiên Chúa ban!

            Ôi, được lao nhọc vì Thiên Chúa và các linh hồn là điều ngọt ngào dường bao! Tôi không muốn nghỉ ngơi trong trận chiến này, nhưng sẽ chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng vì vinh quang của Đức Vua và Thiên Chúa của tôi. Tôi sẽ không buông thanh gươm cho đến khi Chúa gọi tôi đến trước ngai toà của Người; tôi không sợ những nhát chém, bởi vì Thiên Chúa là khiên thuẫn của tôi. Chính kẻ thù phải sợ chúng ta chứ không phải chúng ta sợ hắn. Satan chỉ chiến thắng những kẻ kiêu ngạo và những kẻ nhát đảm, vì những người khiêm nhượng là những người mạnh mẽ. Không gì làm cho một linh hồn khiêm nhượng phải bối rối hoặc khiếp hãi. Tôi đã chuyển hướng chuyến bay của tôi vào chính trung tâm sức nóng của mặt trời, và không gì có thể hạ thấp đường bay ấy nữa. Tình yêu không cam tâm trở thành tù nhân; nó tự do như một nữ hoàng. Tình yêu đạt được Thiên Chúa.

Về đầu trang

[1] Có lẽ là nữ tu Philomena Andrejko, người qua đời tại Warsaw vào chiều ngày 13 tháng 7 năm 1934, lúc 4 giờ 45.

[2] Cứ mỗi thứ Năm, từ 9 giờ đến 10 giờ đêm, tất cả các nữ tu khoẻ mạnh đều làm một giờ chầu đền tạ, gọi là giờ thánh. Trước ngày thứ Sáu đầu tháng, các nữ tu sẽ luân phiên chầu từng giờ một suốt đêm.

[3] Bác sĩ Helen Maciejewska sinh năm 1888 là bác sĩ của các nữ tu tại Vilnius. Vào tháng 2 năm 1935, bà chuyển về Wilejka để đảm trách chức vụ giám đốc bệnh viện địa phương. Bà là một bác sĩ tốt lành và được quý trọng, trổi vượt về sự hiểu biết, tâm hồn nhạy cảm và hy sinh cho các bệnh nhân. Bà qua đời ngày 21 tháng 9 năm 1965.

[4] Có một thánh đường dâng kính Chúa Thương Xót được xây dựng vào năm 1629 tại phố Smolensk ở Warsaw. Lễ bổn mạng thánh đường này được mừng vào ngày 14 tháng 9, tức lễ Suy Tôn Thánh Giá.

[5] Hội kiểm thảo (tiếng Ba Lan là Kapitula) - tức là một buổi hội trong đó bề trên nhà sẽ huấn dụ một bài ngắn về nhận định về việc giữ luật nhà, sau đó các nữ tu sẽ thú lỗi của mình.

[6] Bề trên nhà Vilnius bấy giờ là Mẹ Borgia-Hedwig Tichy, sinh ngày 25 tháng 1 năm 1887. Mẹ vào dòng năm 1913. Mẹ là một y tá, và cũng là bề trên nhà Vilnius và Walendow. Mẹ qua đời tại Wroclaw ngày 26 tháng 4 năm 1970. Mẹ cũng là một nhân chứng trong quá trình điều tra thông tin.

[7] Có lẽ là nữ tu Frances thuộc dòng thánh Bernadine, đã cùng bề trên của chị đến thăm các nữ tu tại Vilnius vào ngày 15 tháng 1 năm 1936 (A.SMDM-C).

[8] “Chầu phép lành” - một lễ nghi ngắn có ban phép lành Thánh Thể.

[9] Dây xích, giống như chiếc dây thắt lưng (x. số 62), được làm bằng mắt xích kim loại giống như chiếc vòng, và được dùng làm hình cụ khổ chế.

[10] Theo bức thư của cha Sopocko gởi cho chị Faustina vào năm 1937, chúng ta biết ngài có trình bày với Đức Khâm sứ là Tổng Giám mục Cortesi về việc thành lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Cha hy vọng Đức Khâm sứ sẽ tâu vấn đề lên Đức Thánh Cha (x. các thư 160).

[11] Chị thánh viết các điều quyết định lên những tờ giấy sạch sẽ được in lại trong Nhật Ký.

[12] Thị kiến liên quan đến cha Sopocko, người đau khổ rất nhiều vì sự kiện đình chỉ việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa. Lời tiên báo này hầu như ứng nghiệm từng chữ. Sắc lệnh số 65/52 của Thánh bộ Thánh Vụ [tên gọi của thánh bộ Giáo Lý Đức Tin trước Công đồng Vaticanô II] ban hành ngày 28 tháng 11 năm 1958 và thông tư ngày 6 tháng 3 năm 1959 đã đình chỉ việc truyền bá tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa theo hình thức được nữ tu Faustina cổ động. Kết quả là các bức hình Chúa Thương Xót được tôn kính tại nhiều thánh đường đã được tháo gỡ. Các linh mục không còn rao giảng về Lòng Thương Xót Chúa. Chính cha Sopocko bị Toà Thánh khiển trách nghiêm khắc và chịu nhiều phiền toái liên quan đến việc truyền bá tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa.

Dòng Đức Mẹ Nhân Lành cũng bị cấm truyền bá Lòng Thương Xót Chúa; kết quả là các bức hình, chuỗi kinh, tuần cửu nhật, và tất cả những hình thức cổ động việc tôn sùng đã được truyền bá trước kia đều bị rút lại. Công cuộc Lòng Thương Xót Chúa được chị Faustina cổ động tưởng đã bị tiêu tan và không bao giờ bùng lên được nữa.

Trước khi có thông tư Toà Thánh, bức hình Chúa Thương Xót đã được tôn kính tại tu viện dòng Đức Mẹ Nhân Lành ở Cracow, nơi chị Faustina qua đời, và phủ đầy những bia tạ ơn chung quanh. Vào Chúa Nhật tuần thứ ba mỗi tháng, một thánh lễ long trọng được cử hành và các linh mục giảng về Lòng Thương Xót Chúa. Chúa Nhật liền sau lễ Phục Sinh được cử hành tôn kính Lòng Thương Xót Chúa, và Đức Hồng Y Adam Sapieha từ năm 1951 đã ban ơn toàn xá suốt bảy năm [đến năm 1958, tức là đến khi Toà Thánh cấm].

Trước lệnh cấm của Toà Thánh, các nữ tu đã bàn hỏi với đấng bản quyền địa phương Cracow là Đức Tổng Giám mục Baziak về việc tôn kính bức hình Chúa Thương Xót đang được đặt tại bàn thờ cạnh, đầy những bia tạ ơn, và phải có thái độ thế nào đối với các việc phụng tự Lòng Thương Xót Chúa. Đức Tổng Giám mục Baziak ra lệnh cứ giữ bức hình tại vị trí cũ và các tín hữu không bị cấm cản khi đến cầu nguyện trước bức hình để xin các ơn cần thiết. Ngài cũng ban lệnh giữ nguyên các nghi thức tôn sùng vốn có.

Như thế, việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa vẫn được duy trì giữa thử thách tại trụ sở nhỏ bé của dòng Đức Mẹ Nhân Lành tại số 3/9 phố Wronia, nơi thi hài Đầy Tớ Chúa được mai táng. Hiện nay, lòng tôn sùng đã mãnh liệt trở lại, rộ nở và cuốn hút sự hứng thú của các thần học gia.

Vì phần đầu lời tiên báo của chị Faustina đã ứng nghiệm gần như sát từng chữ, nên có thể nghĩ rằng phần còn lại cũng sẽ nên trọn. Những sự kiện sau đây làm chứng cho tính cách xác thực của lời tiên báo:

Ngày 30 tháng 6 năm 1978, thánh bộ Giáo Lý Đức Tin (A.A.S. trang 350) đã ban hành một thông tư do Đức Hồng Y Bộ trưởng Franjo Seper và Đức Tổng Giám mục thư ký thánh bộ Jerome Hamer, O.P. ký ngày 15 tháng 5 năm 1978. Nội dung thông tư như sau:

Từ nhiều nơi khác nhau, nhất là từ Ba Lan, thậm chí từ thẩm quyền hợp pháp, đã hỏi rằng những lệnh cấm trong “Thông tư” của Thánh bộ Thánh Vụ, được in trong Công Báo Toà Thánh năm 1959, trang 271, về việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa theo những hình thức do nữ tu Faustina cổ xướng còn được coi là có hiệu lực hay không.

Thánh bộ này, hiện nay đã có nhiều tài liệu nguyên gốc, vẫn chưa biết đến vào năm 1959; đã cứu xét những hoàn cảnh thay đổi sâu xa, và đã cân nhắc quan điểm của nhiều vị bản quyền Ba Lan, tuyên bố rằng những điều cấm trong “Thông Tư” trên kia không còn hiệu lực nữa.

Ngày 12 tháng 7 năm 1979, để trả lời cho cha Tổng Quyền dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm - nhân danh cha bề trên tỉnh dòng thánh Stanislaus Kostka, thuộc dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Hoa Kỳ - đã xin lời giải thích chính thức đối với phạm vi bản thông tư năm 1978 về vụ rút lại những lệnh cấm truyền bá việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa do nữ tu Faustina Kowalska cổ xướng, Đức Hồng Y bộ trưởng thánh bộ Giáo Lý Đức Tin đã xác quyết như sau:

Về vấn đề (được nêu trong thư của cha Tổng Quyền) ấy, tôi hân hạnh thông tri với cha rằng “Thông Tư” mới ấy (A.A.S., ngày 30 tháng 6 năm 1978, trang 350) đã đến với ánh sáng của tài liệu nguyên bản được Đức Tổng Giám mục Cracow, khi ấy là Đức Hồng Y Karol Woltyla, cẩn thận giám định thông tin, ý muốn của Toà Thánh là rút lại điều cấm trong “Thông tư” năm 1959 trước kia (A.A.S., 1959, trang 271), như vậy, được hiểu là không còn, về phía thánh bộ này, bất kỳ một ngăn trở nào trong việc truyền bá lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa theo những hình thức chân xác mà nữ tu được nói trên đã cổ động [Đầy Tớ Chúa, nữ tu Faustina Kowalska].

[13] Cuộc tĩnh tâm ở Vilnius được tổ chức ngày 4 đến ngày 12 tháng 2 năm 1935 do cha Macewicz, dòng Tên, giảng phòng. Vào cuối tuần tĩnh tâm có một thánh lễ theo lễ điển Đông Phương và các nữ tu được hiệp lễ hai hình.

[14] Việc tuyên lại lời khấn. Hiến pháp dòng Đức Mẹ Nhân Lành có quy định mỗi năm hai lần, sau kỳ tĩnh tâm tám ngày và kỳ tĩnh tâm ba ngày, mỗi nữ tu, cùng với toàn thể cộng đoàn, phải tuyên lại các lời khấn thanh tịnh, khó nghèo, và tuân phục bằng cách đọc lớn tiếng một công thức được rút gọn, có kèm theo lời nguyện sau đây: “Lạy Thiên Chúa của con, xin ban cho con ơn thánh để giữ những lời khấn này được trung thành hơn trước”.

[15] Gia đình chị Faustina sống tại làng Glogowiec, quận Turek, tỉnh Lodz.

[16] Nữ tu Maria Salomea Olszakowska qua đời vào tháng 6 năm 1962.

[17] Bức hình Chúa Thương Xót có hai luồng sáng, một luồng màu lam nhạt, một màu đỏ, được hoạ sĩ Eugene Kazimierowski vẽ tại Vilnius. Bức hình được bày kính công khai tại Cổng Rạng Đông vào dịp bế mạc năm thánh Cứu Độ, từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 5 năm 1935 (x. Nhật Ký số 419 và chú thích 1).

[18] Chị Faustina nghĩ rằng chị sẽ phải bỏ dòng Đức Mẹ Nhân Lành và thành lập một dòng tu mới có mục đích truyền bá việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa và cầu xin Lòng Thương Xót cho thế giới.

[19] Chị Faustina đã viết rằng Chúa Giêsu đòi chị thành lập một dòng tu mới với mục đích cầu xin Lòng Thương Xót Chúa cho thế giới và truyền bá việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa. Vì không muốn như thế nên chị đã trình bày những soi động này với linh mục giải tội là cha Sopocko, Tổng Quyền là Mẹ Michael Moraczewska, và sau khi đến Cracow, chị còn thưa với cha J. Andrasz, dòng Tên nữa.

Các cha giải tội không dứt khoát, còn Mẹ Michel chỉ ban phép sau một thời gian đắn đo lâu dài, nhưng nhấn mạnh rằng Mẹ không chịu trách nhiệm. Chị Faustina trình bày những soi động ấy lên Đức Tổng Giám mục Romuald Jalbrzykowski. Ngài không từ chối, nhưng nói cần phải chờ thêm dấu chỉ rõ ràng từ trời cao.

Dù nỗ lực bền bỉ, nhưng chị Faustina đã không sống để thấy cộng đoàn ấy được thành lập. Nhờ những cố gắng của cha Sopocko mà vấn đề đã được trình bày tại cuộc họp “Giờ Thánh Kinh” vào năm 1941; và vào ngày 15 tháng 10 năm 1941, chí nguyện sinh đầu tiên đã khấn giữ đức khiết tịnh cùng tuyên hứa đức khó nghèo và đức vâng phục trước mặt cha Sopocko. Vào năm sau, những chí nguyện sinh khác đã tham gia và tuyên những lời khấn hứa tương tự. Năm 1946, những chí nguyện sinh đầu tiên là Osinska và Naborowska rời Vilniusvà đến định cư tại Mysliborz thuộc giáo phận Gorzow. Ngay sau đó có nhiều người tham gia và dần dần hội dòng bắt đầu phát triển.

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1955, Đức Cha Zygmunt Szelazek, bản quyền giáo phận Gorzow, với quyền đặc biệt đã thiết lập hội dòng Chúa Giêsu Kitô Chí Thánh - Đấng Cứu Độ Xót Thương, với mục đích truyền bá Lòng Thương Xót Chúa và trợ giúp hàng giáo phẩm. Như vậy, ước nguyện của Đầy Tớ Chúa đã được thực hiện mà không có sự tham gia của cá nhân chị (x.O. Izydor Borkiewicz, O.F.M. Con., thủ bản “Kowalska Helen”, trang 18).

[20] Nữ tu Faustina nghĩ đến công việc thành lập hội dòng mới và xin thánh Inhaxiô trợ giúp.

 

XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV

PHẦN IV: số 451-600

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

 

Chủ nhật - 25/06/2017 22:03

 

NHẬT KÝ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA Phấn IV: số 451-600

451      Một lần kia, sau khi hiệp lễ, tôi nghe những lời này: Con là nơi cư ngự của Chúng Ta. Lúc ấy, tôi cảm thấy trong linh hồn sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con, và Thiên Chúa Thánh Thần. Tôi thấy mình là đền thờ của Thiên Chúa. Tôi cảm nghiệm là con nhỏ của Thiên Chúa Cha. Tôi không thể giải thích được nhưng linh hồn tôi hiểu thấu tất cả điều này. Lạy Đấng Chí Thiện vô biên, Chúa đã hạ mình thái quá mà đến với thụ tạo đớn hèn của Chúa!

452      Ước chi các linh hồn biết sống tịnh tâm hơn, Thiên Chúa sẽ lên tiếng ngay với họ, vì sự chia trí làm chìm ngập lời của Chúa.

453      (189) Một lần kia, Chúa phán với tôi: Tại sao con khiếp hãi và run sợ khi được kết hợp cùng Cha? Cha buồn phiền khi một linh hồn nghiêng ngả theo các nỗi sợ không đâu. Ai dám động đến con khi con đang ở bên Cha? Linh hồn quý yêu nhất đối với Cha là linh hồn tin tưởng mãnh liệt vào lòng nhân lành của Cha và hoàn toàn tín thác vào Cha. Cha đổ đầy sự tín nhiệm của Cha trên họ và ban cho họ tất cả những gì họ xin.

454      Một lần kia, Chúa phán với tôi: Hỡi ái nữ của Cha, con hãy nhận lãnh những ánh sáng bị người ta khinh dể; con hãy lãnh nhận nhiều hết sức của con. Lúc ấy, linh hồn tôi dạt dào tình yêu Thiên Chúa. Tôi cảm thấy được kết hợp với Người một cách nồng nàn đến độ không thể tìm được lời mà diễn tả mối hợp nhất ấy; trong tình trạng đó, tôi bỗng nhiên cảm thấy tất cả những gì của Thiên Chúa, tất cả những thiện hảo và những báu tàng của Người đều thuộc về tôi, mặc dù tôi chỉ giữ được một chút mà thôi, vì một mình Chúa là quá đủ cho tôi rồi. Trong Chúa, tôi thấy mọi sự là của tôi; không có Chúa - không có gì cả.

            Tôi không tìm hạnh phúc bên ngoài nội tâm của tôi là nơi Thiên Chúa ngự trị. Tôi mừng vui vì Thiên Chúa cư ngụtrong tôi; ở đây, tôi được sống liên mãi với Người; ở đây có tâm tình đằm thắm nhất giữa tôi với Người; ở đây, tôi sống với Người trong an toàn; ở đây là nơi tôi không bị con mắt người đời xoi mói. Đức Mẹ Đồng Trinh khích lệ tôi sống thân tình như thế với Chúa.

455      Khi đau khổ hành hạ tôi, nó không còn gây cho tôi nỗi đắng cay nào nữa, những an ủi lớn lao cũng chẳng cuốn phăng tôi được. Tôi được chan chứa bình an và dạt dào thanh thản từ tri thức chân lý ấy.

            Những tâm hồn ganh ghét sống chung quanh làm sao gây hại cho tôi nổi đang khi tôi được hoan hưởng sung mãn niềm hạnh phúc trong linh hồn? Còn những tâm hồn tử tế sống chung quanh sẽ giúp đỡ gì được cho tôi khi tôi không có Chúa trong lòng? Khi Thiên Chúa ở trong tôi, ai có thể làm hại được tôi?

            (190) + J.M.J. Vilnius, ngày 12 tháng 8 năm 1935

Kỳ Tĩnh Tâm Ba Ngày

456      Vào buổi tối khai mạc kỳ tĩnh tâm, khi đang lắng nghe các chủ điểm để suy gẫm, tôi đã nghe thấy những lời này: Trong kỳ tĩnh tâm này, Cha sẽ nói với con qua miệng lưỡi linh mục này hầu kiện cường và đảm bảo cho con về sự thật của những lời Cha đã nói trong nơi thẳm sâu linh hồn con. Mặc dù đây là kỳ tĩnh tâm cho mọi chị em, nhưng Cha đặc biệt tưởng nghĩ đến con trong tâm trí Cha, vì Cha muốn củng cố con mạnh mẽ và không còn sợ hãi giữa những thù nghịch đang chờ phía trước. Vì thế, con hãy chăm chú lắng nghe những lời của linh mục và suy gẫm trong nơi sâu thẳm linh hồn con.

457      Ôi, kinh ngạc biết bao vì mọi điều cha [giảng phòng] nói về việc kết hợp và những trở ngại cho việc kết hợp với Thiên Chúa. Tôi đã từng trải nghiệm từng nét những điều ấy trong linh hồn và đã được nghe biết từ Chúa Giêsu, Đấng phán dạy trong nơi sâu thẳm của linh hồn tôi. Sự hoàn thiện hệ tại ở việc hợp nhất mật thiết với Thiên Chúa.

458      Trong giờ nguyện gẫm lúc mười giờ, cha [Rzyckowski [1]] đã nói về lòng xót thương và tình nhân hậu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Cha giảng rằng khi duyệt lại lịch sử của nhân loại, chúng ta có thể nhìn thấy lòng nhân lành vô biên của Thiên Chúa trên từng bước đường. Tất cả các ưu phẩm của Thiên Chúa, chẳng hạn toàn năng và thượng trí, đều góp phần giúp chúng ta thấy được ưu phẩm cao trọng nhất; tức là lòng nhân lành của Người. Lòng nhân lành của Thiên Chúa là ưu phẩm cao trọng nhất của Người. Nhiều linh hồn cố gắng nên trọn lành nhưng lại không ý thức về lòng nhân lành vô biên của Thiên Chúa. Tất cả những điều cha giảng trong giờ nguyện gẫm về lòng nhân lành của Thiên Chúa đều giống như những điều Chúa Giêsu đã nói với tôi về ngày lễ kính (191) Lòng Thương Xót Chúa. Giờ đây, tôi hiểu rõ những gì Thiên Chúa đã hứa với tôi; tôi không còn hoài nghi nữa; ngôn từ của Thiên Chúa thật trong sáng và rõ ràng.

459      Trong giờ nguyện gẫm, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu trong y phục trắng trên bàn thờ, tay Người cầm quyển tập tôi dùng để ghi chép những điều này. Suốt giờ nguyện gẫm, Chúa Giêsu cứ im lặng lật giở từng trang quyển tập này; tuy nhiên, tâm hồn tôi không thể chịu nổi ngọn lửa đang nung nấu trong linh hồn. Mặc dù ý chí tôi ra sức kềm chế và không để người khác nhìn thấy những gì đang xảy ra trong linh hồn tôi, nhưng đến cuối giờ nguyện gẫm, tôi cảm thấy không còn làm chủ mình được nữa. Khi đó, Chúa Giêsu phán với tôi: Trong quyển tập này, con chưa ghi chép mọi điều về lòng nhân lành của Cha đối với nhân loại; Cha mong con đừng bỏ qua một điều nào; Cha muốn tâm hồn con được vững vàng trong bình an trọn vẹn.

460      Lạy Chúa Giêsu, trái tim con ngưng đập khi nghĩ đến tất cả những gì Chúa đang thực hiện cho con! Con ngạc nhiên vì Chúa là Thiên Chúa của con mà lại hạ mình quá độ để đến với linh hồn đớn hèn của con đây! Để thuyết phục con, Chúa đã dùng một phương thế không sao hiểu được!

461      Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi đã thực hiện một cuộc tĩnh tâm như thế. Tôi hiểu một cách đặc biệt và rõ ràng từng lời của cha [giảng phòng] bởi vì tôi đã từng trải nghiệm tất cả điều ấy trong linh hồn. Giờ đây, tôi biết Chúa Giêsu sẽ không bỏ mặc bất cứ linh hồn nào thành tâm mến yêu Người trong nỗi nghi nan. Chúa Giêsu muốn cho linh hồn kết hợp mật thiết với Người được no thoả niềm bình an, bất chấp những đau khổ và nghịch cảnh.

462      Giờ đây, tôi thâm hiểu rằng dây liên kết linh hồn chúng ta với Thiên Chúa bền chặt nhất chính là sự bỏ mình; tức là việc kết hợp ý chí của chúng ta với thánh ý Thiên Chúa. Đây là điều làm cho linh hồn được tự do thực sự, góp phần tạo nên trạng thái trầm lặng sâu xa cho tâm trí và biến đổi những gánh nặng của cả kiếp đời trở nên nhẹ nhàng, và cái chết trở nên ngọt ngào.

463      (192) Chúa Giêsu bảo tôi nếu có bất kỳ nghi nan nào liên quan đến ngày lễ hoặc việc thiết lập hội dòng, - hoặc bất kỳ điều gì khác mà Cha đã nói trong nơi sâu thẳm linh hồn con, Cha sẽ giải đáp tức thì cho con qua miệng lưỡi vị linh mục này.

464      Trong giờ nguyện gẫm về đức khiêm nhu, một nỗi nghi nan trước kia lại quay về: một linh hồn khốn nạn như tôi không thể nào thực hiện được công cuộc Chúa đòi hỏi. Đang khi tôi đang phân tích mối hoài nghi, cha giảng phòng liền ngắt ngang dòng tư tưởng của ngài và đề cập thẳng vào điều tôi đang nghi nan; đó là Thiên Chúa thường tuyển chọn những linh hồn yếu đuối và tầm thường nhất để làm khí cụ thực hiện các công trình vĩ đại nhất của Người; chúng ta có thể thấy đây là một thực tế không thể chối cãi khi nhìn vào những người được tuyển chọn làm tông đồ cho Chúa; hoặc khi chúng ta nhìn vào lịch sử Giáo Hội và thấy các công cuộc vĩ đại đã được những linh hồn hết sức kém cỏi thực hiện; đó chính là cách thế minh chứng những công cuộc ấy sự thực là những công trình của Chúa. Khi nỗi nghi nan của tôi hoàn toàn tan biến, vị linh mục lại tiếp tục bài giảng về đức khiêm nhu.

            Như thông lệ trong các giờ giảng, Chúa Giêsu vẫn đứng và không nói gì với tôi, nhưng cái nhìn từ ái của Người xuyên thấu linh hồn khốn nạn của tôi, khiến nó không còn viện cớ gì được nữa.

465      Lạy Chúa Giêsu, Sự Sống của con, con cảm thấy rõ ràng Chúa đang biến đổi con trong chính Chúa, từ nơi kín nhiệm của hồn con là nơi các giác quan không còn tri thức bao nhiêu. Lạy Đấng Cứu Chuộc của con, xin che khuất con hoàn toàn trong thẩm cung Trái Tim Chúa và bảo vệ con bằng những tia sáng của Chúa trước tất cả những gì không phải là Chúa. Lạy Chúa Giêsu, con khẩn nài Chúa cho hai tia sáng phát xuất từ Trái Tim vô cùng lân ái của Chúa liên lỉ dưỡng nuôi linh hồn con.

Về đầu trang

466      (193) Giờ Xưng Tội

            Linh mục giải tội [cha Sopocko] hỏi tôi lúc này Chúa Giêsu có ở đây và tôi có nhìn thấy Người không. “Thưa, có. Chúa đang ở tại đây và con được nhìn thấy Người”. Sau đó, cha nhờ tôi hỏi Chúa Giêsu về một số người khác. Chúa Giêsu không trả lời, nhưng chỉ nhìn vào cha. Tuy nhiên, sau khi cáo mình, lúc tôi làm việc đền tội, Chúa Giêsu đã phán những lời này với tôi: Con hãy nhân danh Cha mà đi an ủi ngài. Vì không hiểu ý nghĩa của những lời ấy, nên tôi liền thưa với cha những gì Chúa Giêsu đã truyền cho tôi.

467      Trong suốt thời gian tĩnh tâm, tôi không bị gián đoạn trong sự kết hợp với Chúa Giêsu và được tương giao với Người rất thân mật với tất cả sức mạnh của trái tim tôi.

468      Ngày tuyên lại lời khấn. Đầu thánh lễ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu như thường lệ. Người chúc lành cho chúng tôi và sau đó đi vào nhà chầu. Khi đó, tôi nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa mặc áo trắng và áo choàng xanh dương, nhưng trên đầu Mẹ không đội gì. Mẹ từ bàn thờ xuống gần chỗ tôi, vuốt ve rồi phủ bọc tôi trong áo choàng của Mẹ, Mẹ nói: Con hãy dâng những lời khấn này cầu cho Ba Lan. Con hãy cầu nguyện cho đất nước. Hôm nay là ngày 15 tháng 8.

469      Vào buổi tối hôm ấy, tôi cảm thấy trong linh hồn một nỗi mong nhớ Thiên Chúa mãnh liệt. Lúc này, tuy không nhìn thấy Thiên Chúa bằng mắt thịt như trong các dịp khác và không chiếm hữu được Người [bằng tâm trí], nhưng tôi cảm nhận được sự hiện diện của Người. Điều này khiến tôi càng khao khát Thiên Chúa và quằn quại khôn xiết. Tôi đang mòn mỏi vì khao khát chiếm hữu Chúa để mãi mãi được đắm đuối trong Người. Linh hồn tôi bám đuổi Người bằng tất cả sức mạnh của mình; không gì trên thế gian này có thể an ủi được tôi. Ôi Tình Yêu Hằng Hữu, giờ đây, con đã hiểu được mối tương giao thắm thiết giữa tâm hồn con với Chúa! Ngoài một mình Chúa, mọi vật trên trời dưới đất đều không thể thoả mãn được con, ôi Thiên Chúa của con, linh hồn con được thoả thuê trong Chúa.

470      (194) Một buổi tối kia, tôi từ trong phòng nhìn lên bầu trời, thấy một thinh không đầy trăng sao xinh đẹp, một ngọn lửa mến yêu khôn cùng đối với Đấng Tạo Hoá đã sôi sục trong linh hồn tôi. Vì không sao chịu nổi sự khao khát Thiên Chúa đang ngấu nghiến trong linh hồn, tôi gục mặt và sấp mình xuống đất. Tôi tôn vinh Chúa về tất cả những kỳ công của Người, và khi tâm hồn không còn chịu nổi những gì đang xảy ra bên trong, tôi đành oà khóc. Khi ấy, thiên thần Bản Mệnh xoa dịu tôi và nói những lời này: “Chúa sai tôi đến bảo chị hãy chỗi dậy khỏi mặt đất”. Tôi vâng theo tức thì, nhưng không cảm thấy một niềm an ủi nào trong linh hồn. Nỗi nhung nhớ Thiên Chúa ngày càng mãnh liệt trong tôi.

471      Một ngày kia, khi đang chầu, tâm thần tôi dường như đang chết mòn chết mỏi vì Chúa. Và tôi không thể nào cầm được nước mắt, tôi thấy một thiên thần rất xinh đẹp đến nói với tôi những lời này: “Chúa nói - chị đừng khóc nữa”. Một lúc sau, tôi hỏi lại: “Ngài là ai?”. Thiên thần trả lời: “Tôi là một trong bảy thiên thần chầu trước toà Thiên Chúa suốt ngày đêm và không ngừng chúc tụng Người”. Tuy nhiên, thiên thần này cũng không làm vơi được nỗi niềm khao khát Thiên Chúa của tôi, lại còn khơi thêm một niềm nhung nhớ da diết hơn nữa. Thiên thần rất phương phi và vẻ đẹp của ngài là do việc kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Thiên thần này không rời tôi một giây phút, ngài đồng hành với tôi khắp mọi nơi.

            Vào ngày hôm sau, trong giờ thánh lễ, trước lúc dâng bánh rượu, thiên thần này cất tiếng hát những lời: “Thánh, Thánh, Thánh”. Tiếng hát của ngài như cả ngàn thanh âm và không thể nào diễn tả thành lời. Bỗng nhiên, thần trí tôi được kết hợp với Thiên Chúa, và ngay lúc ấy, tôi được thấy vẻ cao sang và thánh thiện vô cùng của Người, đồng thời tôi nhận ra (195) sự hư vô của mình.

472      Tôi nhận biết Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần rõ ràng hơn bao giờ hết, nhưng hữu thể, quyền uy, và đồng đẳng của Ba Ngôi đều đơn nhất. Linh hồn tôi được kết hợp với Ba Ngôi và nhận thức điều này rất rõ ràng, nhưng không thể diễn tả được bằng lời. Bất cứ ai được kết hợp với Một trong Ba Ngôi đều được kết hợp với toàn thể Ba Ngôi, vì tính đơn nhất bất phân. Thị kiến này, đúng hơn là tri thức này, làm no thoả linh hồn tôi trong niềm hạnh phúc khôn lường bởi vì Thiên Chúa vô cùng cao trọng. Những gì tôi đang mô tả, tôi không nhìn thấy bằng mắt như trong các dịp khác, nhưng thấy một cách thuần tuý nội tâm, thuần tuý thiêng liêng, độc lập khỏi các giác quan. Biến cố này kéo dài cho đến khi thánh lễ kết thúc.

            Việc này giờ đây thường xảy ra với tôi, không những trong nhà nguyện, mà còn cả trong lúc làm việc, và đôi khi cả những lúc rất bất ngờ.

473      Khi cha giải tội [cha Sopocko] đi vắng, tôi xưng tội với Đức Tổng Giám mục [Romuald Jalbrzykowski [2]]. Và khi trình bày linh hồn với ngài, tôi đã được trả lời như sau: “Hỡi con, con hãy trang bị cho mình một đức nhẫn nại cao độ; nếu những điều này do Chúa mà đến, sớm muộn gì cũng sẽ được thực hiện. Vậy, con hãy hoàn toàn an tâm. Cha rất hiểu con trong vấn đề này, hỡi con. Và giờ đây, về việc rời bỏ hội dòng này để nghĩ đến một hội dòng khác, con đừng coi nhẹ những tư tưởng như thế, bởi vì đây có thể là một cám dỗ bề trong nghiêm trọng”. Sau lần xưng tội này, tôi thưa với Chúa Giêsu: “Sao Chúa lại truyền cho con những điều ấy mà lại không tạo điều kiện để chúng được thực hiện?”. Thế rồi, sau giờ hiệp lễ, cũng trong nhà nguyện nhỏ nơi vừa xưng tội, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu như Người được vẽ trên bức hình. Chúa phán với tôi: Con đừng buồn. Cha sẽ ban cho ngài hiểu được những điều Cha đang đòi hỏi con. Khi chúng tôi từ biệt, (196) Đức Tổng Giám mục đang bận việc, nhưng ngài bảo chúng tôi trở lại chờ một lát. Khi chúng tôi vào trở lại nhà nguyện, tôi được nghe những lời này trong linh hồn: Con hãy thưa ngài những gì con đã thấy trong nhà nguyện. Vào lúc đó, Đức Tổng Giám mục bước vào và hỏi chúng tôi có gì để trình cho ngài nữa không. Mặc dù đã được truyền phải nói cho ngài, nhưng tôi không thể làm được bởi vì đang đi với một chị em khác.

            Một điều khác cũng từ lần xưng tội ấy: “Khẩn nài Lòng Thương Xót cho thế giới là một ý tưởng lớn và tốt đẹp. Này con, con hãy cầu nguyện nhiều, khẩn nguyện Lòng Thương Xót Chúa cho các tội nhân, nhưng hãy làm điều ấy trong tu viện của con”.

Hôm sau, thứ Sáu ngày 13 tháng 9 năm 1935

474      Vào buổi tối, đang khi ở trong phòng, tôi nhìn thấy một thiên thần thi hành cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa. Ngài mặc trang phục trắng tinh sáng láng, dung mạo phương phi rạng rỡ, với một đám mây bao phủ dưới chân. Từ giữa đám mây, những luồng sấm sét chớp giựt từ tay vị thiên thần phát ra; và từ đó, những tai ương chực giáng thẳng xuống địa cầu. Khi nhìn thấy dấu hiệu cơn nghĩa nộ Thiên Chúa sắp sửa giáng xuống thế giới và nhất là xuống một địa điểm - mà vì ý ngay lành, tôi không tiện nói ra đây - tôi liền nài nỉ thiên thần trì hoãn thêm chút nữa cho thế giới kịp hối cải. Nhưng lời khẩn nài của tôi chẳng là gì trước mặt vị sứ thần thực thi cơn thịnh nộ. Ngay lúc đó, tôi được nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh. Sự cao sang uy linh của Người xuyên thấu người tôi, tôi không dám lặp lại những lời kêu xin. Khi ấy, tôi cảm thấy có sức mạnh ánh sáng Chúa Giêsu trong linh hồn. Và khi ý thức được ánh sáng này, tôi lập tức được cất lên trước ngai toà Thiên Chúa. Ôi, sự cao trọng của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta và sự thánh thiện vô cùng của Người! Tôi không cần nói lên sự cao trọng này, bởi vì không bao lâu nữa, tất cả chúng ta sẽ được chiêm ngắm Người như thế. Tôi thấy mình đang khẩn cầu cho thế giới (197) bằng những lời nghe được trong lòng.

            Khi đang cầu nguyện bằng cách ấy, tôi thấy vị thiên thần trở nên bất lực: không thể thực hiện án phạt công thẳng xứng với tội lỗi thế giới. Trước kia, tôi chưa bao giờ cầu nguyện bằng một sức mạnh nội tâm như lần này.

475      Những lời tôi khẩn nài Thiên Chúa như thế này: Lạy Cha Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha Mình Thánh, Máu Thánh, Linh Hồn và Thiên Tính của Chúa Giêsu Kitô, Con rất yêu dấu Cha, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới; vì cuộc Khổ Nạn thảm thương của Người, xin Cha thương xót chúng con.

476      Sáng hôm sau, khi vào nhà nguyện, tôi đã nghe những lời này trong tâm hồn: Mỗi lần vào nhà nguyện, con hãy lập tức đọc lời kinh Cha đã dạy hôm qua. Khi đọc xong lời kinh ấy, tôi nghe trong lòng những lời này: Lời kinh này có thể làm nguôi cơn nghĩa nộ của Cha. Con hãy đọc kinh ấy trong chín ngày, lần theo tràng chuỗi Mân Côi, và đọc theo cách này: trước tiên, con hãy đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, và kinh Tin Kính. Sau đó, với những hạt kinh Lạy Cha, con hãy đọc: “Lạy Cha Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha Mình Thánh, Máu Thánh, Linh Hồn và Thiên Tính của Chúa Giêsu Kitô, Con rất yêu dấu Cha, là Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”. Khi gặp những hạt kinh Kính Mừng, con hãy đọc: “Vì cuộc Khổ Nạn thảm thương của Chúa Giêsu Kitô, xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới”. Để kết thúc, con hãy đọc ba lần câu: “Lạy Thiên Chúa Chí Thánh, Toàn Năng, Hằng Hữu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới”. [3]

477      Thinh lặng là thanh gươm trong cuộc chiến thiêng liêng. Một người lắm miệng sẽ không bao giờ đạt đến sự thánh thiện. Thanh gươm thinh lặng sẽ tách lìa tất cả những gì ưa bám vào linh hồn. Chúng ta quá nhạy cảm trước những lời nói và muốn đáp lại ngay mà không xét thánh ý Chúa có muốn chúng ta lên tiếng hay không. Một linh hồn thinh lặng là một linh hồn mạnh mẽ; không thù địch nào có thể làm hại được họ nếu họ cứ kiên định trong thinh lặng. Linh hồn thinh lặng (198) có thể đạt đến mức độ kết hợp hết sức mật thiết với Thiên Chúa. Hầu như họ luôn sống dưới những soi động của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa hoạt động trong linh hồn thinh lặng mà không gặp một ngãng trở nào.

478      Lạy Chúa Giêsu của con, Chúa biết, chỉ một mình Chúa biết trái tim con không dành cho một tình yêu nào khác ngoài Chúa! Lạy Chúa Giêsu, trọn khối tình thanh khiết của con muôn đời được ngụp lặn trong Chúa! Con cảm nghiệm Máu Thánh Chúa đang luân chuyển trong trái tim con một cách rõ ràng; con không mảy may nghi ngờ tình yêu vô cùng tinh ròng của Chúa hợp một với Máu Thánh Chúa đã trào đổ vào trái tim con. Con biết Chúa đang ngự trong con, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, hay đúng hơn là chính con đang được sống trong Chúa, lạy Thiên Chúa cực thánh của con! Con biết mình đang tan hoà trong Chúa như một giọt nước giữa đại dương. Con ý thức Chúa ở trong con và mọi sự liên hệ đến con, trong tất cả những gì chung quanh con, và mọi biến cố xảy đến với con. Lạy Thiên Chúa của con, con đã biết Chúa ở trong trái tim con, và con mến yêu Chúa trên hết mọi sự trên trời dưới đất. Trái tim của chúng ta đã hiểu nhau, và không ai trong nhân loại hiểu thấu điều này.

479      Lần xưng tội thứ hai với Đức Tổng Giám mục [Jalbrzykowski}, “Này con, con hãy biết rằng nếu đây là thánh ý Chúa, sớm muộn gì cũng sẽ xảy đến, vì thánh ý Chúa nhất định được nên trọn. Con hãy yêu mến Thiên Chúa trong trái tim con, hãy có...” [tư tưởng để ngỏ].

Về đầu trang

480                  Ngày 29 tháng 9. Lễ kính Tổng Lãnh Thiên Thần Micae.

            Nội tâm tôi được kết hợp với Thiên Chúa. Sự hiện diện của Người xuyên thấu tận những tầng sâu thẳm trong tôi, và làm tôi tràn ngập bình an, vui mừng, và ngạc nhiên. Sau những lúc cầu nguyện như thế, tôi được chan hoà sức mạnh sung mãn và can đảm phi thường để chịu đựng và chiến đấu. Không gì làm tôi hoảng sợ cho dù cả thế gian có dấy lên chống lại tôi. Tất cả những chống đối chỉ chạm đến bề mặt, nhưng không vào được (199) những tầng sâu thẳm bởi vì nơi đó có Thiên Chúa là Đấng ban sức mạnh và làm cho tôi nên sung mãn. Tất cả những cạm bẫy quân thù đều bị nghiền nát dưới bệ chân Chúa. Trong những giây phút kết hợp ấy, Thiên Chúa phù trợ tôi bằng sức mạnh của Người. Dũng lực Thiên Chúa truyền thông cho tôi và ban cho tôi khả năng mến yêu Người. Nếu chỉ với những nỗ lực của bản thân, linh hồn không bao giờ đạt đến mức độ ấy. Khi mới được ân sủng nội tâm này, tôi đầy lo âu và bắt đầu nao núng; nhưng Thiên Chúa nhanh chóng cho tôi biết điều ấy làm phiền lòng Người. Cũng chính Chúa là Đấng biến đổi những nỗi lo âu của tôi thành sự thảnh thơi.

481      Hầu như mọi ngày lễ của Giáo Hội đều cho tôi hiểu biết thêm về Thiên Chúa và một ân sủng đặc biệt. Vì vậy, tôi dọn mình trước mỗi ngày lễ và liên kết mật thiết với tinh thần Giáo Hội. Thật sướng vui khi được làm người con nhỏ tín thành của Giáo Hội! Ôi, tôi yêu mến Giáo Hội và tất cả những ai sống trong đó! Tôi coi họ là những chi thể sống động của Chúa Kitô, Đấng là Đầu của họ. Tôi mến yêu với những ai yêu mến; tôi đau khổ với những ai khổ đau. Tôi hao mòn buồn đau khi thấy những người nguội lạnh, vô ân; và lúc đó, tôi ra sức mến yêu để bù đắp cho những ai không mến yêu Thiên Chúa, những người nuôi Đấng Cứu Độ của mình bằng thói vong ân tệ bạc.

482      Ôi Thiên Chúa của con, con ý thức được sứ mạng của con trong Giáo Hội. Đó là phải luôn cố sức nài xin Lòng Thương Xót của Chúa cho thế giới. Con kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và đến trước thánh nhan Người như một hiến lễ hy sinh đền tạ vì thế giới. Thiên Chúa sẽ không khước từ điều gì khi con khẩn nài bằng tiếng nói của Con Một Người. Hy sinh của con tự nó chẳng là gì, nhưng khi được liên kết với hiến tế của Chúa Giêsu Kitô, nó sẽ trở nên toàn năng và có sức làm nguôi cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong Con của Người; cuộc Khổ Nạn đau thương của Con Thiên Chúa luôn luôn làm nguôi cơn nghĩa nộ của Người.

483      (200) Ôi Thiên Chúa, con ước ao cho các linh hồn được nhận biết Chúa và thấy rằng chính vì lòng yêu vô biên mà Chúa đã tạo thành nên họ. Lạy Đấng Tạo Hoá và Thiên Chúa của con, con cảm thấy con muốn tháo gỡ bức màn trời cao để trần gian không còn nghi ngờ lòng nhân lành của Chúa.

            Lạy Chúa Giêsu, xin hãy làm cho con nên một hiến lễ tinh tuyền và đáng được chấp nhận trước tôn nhan Chúa Cha. Lạy Chúa Giêsu, cho dù con đớn hèn tội lỗi, nhưng xin hãy biến đổi con trong chính Chúa (vì Chúa có thể làm được mọi sự), và dâng hiến con cho Chúa Cha Hằng Hữu. Con muốn trở thành một tấm bánh hiến tế trước nhan Chúa, nhưng vẫn là một tấm bánh bình thường trước mặt người ta. Con muốn chỉ một mình Chúa biết đến hương thơm của lễ hy sinh của con. Ôi Thiên Chúa Hằng Hữu, trong con bừng cháy một ngọn lửa không thể dập tắt được đang kêu nài Lòng Thương Xót Chúa. Con biết và con hiểu đó là sứ vụ của con ở đây cũng như trong cõi đời đời. Chính Chúa đã truyền cho con phải rao truyền về Lòng Thương Xót vô bờ và sự tốt lành của Chúa.

484      Vào một dịp kia, tôi hiểu rằng một hành vi dù đáng khen bề ngoài, nhưng có thể làm Chúa buồn phiền nếu nhưkhông mang dấu ấn của ý hướng ngay lành. Những việc làm như thế xui giục Thiên Chúa trừng phạt hơn là ban thưởng. Chớ gì trong cuộc sống chúng ta có ít chừng nào hay chừng nấy những hành vi như thế; quả thực, trong đời tu, ước gì đừng có một hành vi nào như thế.

485      Con đón nhận niềm vui hay đau khổ, ca ngợi hay xỉ nhục với cùng một tâm trạng như nhau. Con biết điều này cũng như điều kia tất cả đều qua đi. Thế thì những điều thiên hạ đàm tiếu về con có can hệ gì? Đã từ lâu lắm rồi, con không còn màng đến những gì liên quan đến cá nhân mình nữa. Tên của con là bánh thánh - hoặc hy sinh, không phải bằng lời nói suông nhưng bằng hành động, trong việc huỷ mình để được trở nên giống Chúa trên thập giá. Ôi lạy Chúa Giêsu tốt lành của con, vị Tôn Sư của con!

486      (201) Lạy Chúa Giêsu, lúc con hiệp lễ, Chúa đã đến với con, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa đã đoái thương ngự vào thiên đàng bé nhỏ cõi lòng con, con cố gắng bầu bạn với Chúa trong cả ngày sống và không để Chúa phải chịu cô đơn dù chỉ một phút giây. Mặc dù phải sống cạnh các chị em hoặc với các học sinh nội trú, nhưng lòng con vẫn luôn kết hợp với Chúa. Khi ngủ, con dâng lên Chúa mọi nhịp đập của trái tim; khi thức, con ngụp lặn trong Chúa mà không thốt lên một lời.

            Khi thức giấc, tôi dùng một giây phút để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi và cám tạ Người vì đã thương ban cho tôi thêm một ngày sống, để mầu nhiệm nhập thể của Con Một Chúa được tái hiện trong tôi và cuộc Thương Khó của Người được diễn ra trước mắt tôi. Thế rồi tôi cố gắng tạo điều kiện cho Chúa Giêsu dễ dàng qua tôi mà đến với các linh hồn. Tôi đi đây đó với Chúa Giêsu; sự hiện diện của Người đồng hành cùng tôi khắp mọi nơi.

487      Trong các đau khổ xác hồn, tôi luôn cố gắng nín lặng, vì lúc ấy tâm hồn tôi nhận được nguồn sức mạnh tuôn trào từ cuộc Khổ nạn Chúa Giêsu. Tôi luôn nhìn thấy trước mắt mình thánh nhan khổ nạn của Người, chịu phỉ báng và biến dạng, Thánh Tâm của Người đã bị xuyên qua vì tội lỗi chúng ta, nhất là vì sự vong ơn của các linh hồn ưu tuyển.

488      Tôi đã được khuyến giục những hai lần hãy sẵn sàng dọn mình để chịu các đau khổ đang đợi chờ ở Warsaw. Tôi nhận được lời cảnh báo lần đầu qua tiếng nói từ nội tâm, và lần thứ hai trong thánh lễ. Trước giờ tôn vinh Thánh Thể, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu trên thập giá và Người phán với tôi: Con hãy dọn mình đón nhận đau khổ. Tôi đã cám tạ Chúa vì ơn được cảnh báo và thưa rằng: “Đau khổ con chịu chắc chắn sẽ không nhiều hơn Chúa đâu, lạy Đấng Cứu Độ con”. Tuy nhiên, tôi ghi lòng và tiếp tục dọn mình bằng việc cầu nguyện và đón nhận những đau khổ nhỏ mọn để có thể vững vàng khi những đau khổ lớn hơn ập đến.

            (202)                Ngày 19 tháng 10 năm 1935

Từ Vilnius Đến Cracow

Dự Tuần Tĩnh Tâm Tám Ngày

489      Tối thứ Sáu, trong giờ lần chuỗi Mân Côi, khi tôi nghĩ đến chuyến đi hôm sau và tầm quan trọng của vấn đề sắp sửa phải trình bày với cha Andrasz, [4] nỗi sợ hãi xâm chiếm tôi khi tôi nhìn ra nỗi khốn nạn bất lực của mình, và đồng thời sự cao trọng của công cuộc Thiên Chúa. Bị nghiền nát dưới thống khổ này, tôi liền phó mình cho thánh ý Thiên Chúa. Vào lúc đó, tôi thấy Chúa Giêsu, trong y phục sáng láng, bên cạnh bàn quỳ của tôi. Người phán: Tại sao con lại lo âu phải thực thi thánh ý Cha? Chẳng lẽ Cha lại không giúp đỡ con như Cha vẫn làm cho đến giờ này hay sao? Con hãy nhắc lại từng yêu sách của Cha cho các vị đại diện Cha dưới thế, và hãy thực hiện những điều các ngài truyền. Lúc đó, một sức mạnh tràn vào linh hồn tôi.

490      Sáng hôm sau, tôi nhìn thấy thiên thần Bản Mệnh của tôi, ngài đồng hành với tôi trong suốt chuyến đi cho đến Warsaw. Ngài biến đi ngay khi chúng tôi bước vào cổng tu viện. Vừa khi chúng tôi đi ngang qua nhà nguyện nhỏ trên đường đi chào các bề trên, sự hiện diện của Thiên Chúa đã tràn phủ tôi và Chúa ban cho tôi đầy tràn ngọn lửa tình yêu của Người. Vào những lúc ấy, tôi luôn được hiểu biết hơn về sự cao trọng của uy nghi Thiên Chúa.

            Khi chúng tôi ngồi trên xe lửa từ Warsaw đi Cracow, một lần nữa tôi lại nhìn thấy thiên thần Bản Mệnh bên cạnh. Ngài đắm đuối trong cầu nguyện và chiêm ngắm Thiên Chúa, và tôi dõi theo ngài bằng tư tưởng của tôi. Khi chúng tôi đến cổng tu viện, ngài biến đi.

491      Khi tôi vào nhà nguyện, một lần nữa, uy linh Thiên Chúa lại choáng ngợp trên tôi. Tôi thấy mình được chìm ngập trong Chúa, trọn vẹn được đắm đuối trong Người và được Người thấu nhập. Tôi cũng được biết Cha trên trời hết lòngyêu thương tôi. Ôi, hạnh phúc bao la tràn ngập lòng tôi vì được nhận biết Thiên Chúa và đời sống thần linh! Ước vọng của tôi là được chia sẻ niềm hạnh phúc này với tất cả mọi người. Tôi không thể khoá chặt niềm hạnh phúc này trong cõi lòng mình, vì những ngọn lửa Thiên Chúa thiêu đốt và làm cho lòng ruột tôi rã rời. Tôi ước mong được chu du khắp thếgiới để nói cho các linh hồn biết về Lòng Thương Xót lớn lao của Thiên Chúa. Hỡi các linh mục, xin hãy giúp tôi điều này; xin hãy dùng những ngôn từ hùng hồn nhất [theo khả năng của các ngài] để cao rao Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì không lời nào có thể tả được Thiên Chúa thực sự nhân ái dường bao.

           Về đầu trang

(203) + J.M.J. Cracow, ngày 20 tháng 10 năm 1935

Kỹ Tình Tâm Tám Ngày

492      Lạy Thiên Chúa Hằng Hữu, Đấng Toàn Thiện, lượng từ bi của Chúa cao vời vượt mọi trí năng, dù loài người hay thiên thần, xin hãy trợ giúp con, một người con nhỏ bé của Chúa, thực thi thánh ý Chúa như Chúa đã tỏ cho con. Con không ước ao gì khác ngoài việc thực thi những ước vọng của Chúa. Lạy Chúa, đây linh hồn và xác thân con, tâm trí và ý chí con, trái tim và trọn vẹn tình yêu con. Xin cai trịcon theo những chương trình muôn đời của Chúa.

493      Sau hiệp lễ, linh hồn tôi được tràn đầy tình yêu Thiên Chúa. Tôi hân hoan trong sự cao trọng của Người. Ở đây, tôi nhìn thấy rõ ràng thánh ý Chúa tôi sẽ thực hiện, đồng thời, cả những yếu đuối và khốn nạn của tôi; tôi thấy mình không thể làm gì được nếu không có sự giúp đỡ của Người.

Ngày Thứ Hai Tuần Tĩnh Tâm

494      Khi sắp sửa ra phòng khách để gặp cha Andrasz, tôi cảm thấy sợ hãi vì bí mật ấy chỉ bị bó buộc trong toà giải tội. Tuy nhiên, đó là nỗi lo vu vơ. Một lời của Mẹ Bề Trên đã làm tôi được thanh thản. Trong khi đó, tôi vào nhà nguyện và được nghe những lời này trong lòng: Cha muốn con cởi mở và đơn sơ như một con trẻ với vị đại diện của Cha như với chính Cha; nếu không, Cha sẽ lìa bỏ con và không kết thân với con nữa.

            Quả thật, Thiên Chúa đã ban cho tôi ơn trọng là được hết lòng tin tưởng, và sau khi tôi cáo mình xong, Người còn ban cho tôi được bình an sâu xa và ánh sáng về những vấn đề này.

495      Lạy Chúa Giêsu, Ánh Sáng Hằng Hữu, xin soi sáng cho tâm trí con, kiện cường ý chí con, đốt nóng trái tim con và hãy ở bên con như lời Chúa đã hứa, vì không có Chúa, con chỉ là hư vô. Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết con yếu đuối chừng nào. Con chẳng cần phải thưa với Chúa điều này vì chính Chúa quá biết con xấu xa thế nào. Tất cả sức mạnh của con làở nơi Chúa.

496      (204)    Ngày Xưng Tội

            Từ sáng sớm, nỗi xao xuyến trong linh hồn tôi mãnh liệt hơn hẳn mọi lần tôi đã từng trải nghiệm trước đây. Bị Thiên Chúa ruồng bỏ; tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Những tư tưởng này đã tra tấn tôi: tại sao lại phải rời bỏ tu viện này là nơi tôi được chị em và các bề trên yêu thương, nơi cuộc sống thật êm đềm; [nơi tôi] được ràng buộc bằng lời khấn trọn đời, và chu toàn các nhiệm vụ của tôi mà không gặp khó khăn; tại sao lại phải nghe tiếng lương tâm; tại sao lại phải theo một soi động mà chẳng ai biết xuất phát từ đâu; cứ sống như các chị em khác không tốt hơn sao? Những lời Chúa chắc có thể bị bóp nghẹt, không cần phải nghe theo; có lẽ Thiên Chúa không đòi phải trả lẽ về chúng trong ngày chung thẩm. Tiếng nói nội tâm ấy sẽ dẫn tôi về đâu? Nếu tôi vâng theo, những khó khăn, thử thách, và chống đối kinh hồn sẽ đang chờ tôi. Tôi sợ hãi tương lai và quằn quại trong hiện tại.

            Nỗi đau khổ vẫn giữ nguyên cường độ dữ dội như thế suốt ngày. Đến tối, khi vào toà giải, tôi không thể trình bày đầy đủ, mặc dù đã chuẩn bị kỹ lưỡng. Tôi nhận phép xá giải rồi đi ra mà không biết điều gì đang xảy ra trong tôi. Khi tôi đi ngủ, nỗi đau đớn càng tê tái; hay nói đúng hơn, nó đã biến thành một ngọn lửa xuyên thấu mọi tài năng linh hồn tôi, như một tia chớp thấu đến tận cốt tuỷ, đến tận chốn sâu thẳm nhất của tâm hồn tôi. Giữa cơn đau khổ này, tôi không làm được gì cả. “Lạy Chúa, nguyện thánh ý Chúa được nên trọn”. Đôi lúc, ngay cả những lời ấy mà tôi cũng không sao nghĩ ra được. Một nỗi sợ hãi nặc mùi tử khí xâm chiếm tôi, những ngọn lửa hoả ngục đã liếm đến tôi. Đến gần sáng mới thấy có sự tĩnh lặng, và những thử thách nhanh chóng biến tan, tôi cảm thấy mệt nhoài đến độ không cử động nổi. Trong lúc thưa chuyện với Mẹ Bề Trên, sức lực của tôi từ từ hồi phục, nhưng chỉ mình Chúa mới biết tôi cảm thấy thế nào trong suốt ngày hôm ấy.

497      Lạy Chân Lý Hằng Hữu, Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng đã tuyệt đối trung thành thực thi thánh ý Chúa Cha, hôm nay, con đang trở thành một người chịu tử đạo vì những soi động của Chúa mà con không sao thực hiện được chỉ vì con không còn ý chí của riêng con, mặc dù nội tâm con nhìn thấy thánh ý Chúa một cách rõ ràng. (205) Con phó mình trong mọi sự theo ý các bề trên và cha giải tội của con. Con sẽ vâng theo thánh ý Chúa miễn là Chúa - qua các vị đại diện - cho phép con được làm như vậy. Lạy Chúa Giêsu của con, vì không thể đừng được, con xin dành ưu tiên cho tiếng nói của Giáo Hội hơn là tiếng Chúa đang nói với con.

Sau Hiệp Lễ

498      Tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu như thường lệ, và Người phán với tôi những lời này: Con hãy tựa đầu lên vai Cha, nghỉ ngơi và lấy lại sức. Cha luôn ở với con. Con hãy nói cho người bạn của Trái Tim Cha rằng Cha sử dụng những thụ tạo yếu đuối như thế để thực hiện công cuộc của Cha. Sau đó một lúc, thần trí tôi được củng cố bằng sức mạnh phi thường. Con hãy nói với ngài rằng Cha đã cho ngài nhìn ra yếu đuối của con trong lúc con xưng tội để ngài biết con là gì.

499      Mỗi lần chiến đấu can trường đem lại cho tôi niềm vui, bình an, ánh sáng, kinh nghiệm, và can đảm cho tương lai; cho Thiên Chúa danh dự và vinh quang; và sau cùng, một phần thưởng cho bản thân tôi.

Hôm nay, lễ Chúa Kitô Vua

[ngày 27 tháng 10 năm 1935]

500      Trong giờ thánh lễ, tôi tha thiết cầu nguyện xin Chúa Giêsu hãy làm Vua thống trị mọi con tim và ban ơn thánh chiếu soi mọi linh hồn. Khi ấy, tôi thấy Chúa Giêsu như được vẽ trên bức hình, và Người phán với tôi: Hỡi ái nữ của Cha, con mang lại cho Cha vinh quang lớn lao nhất bằng cách trung thành thực thi những khát vọng của Cha.

501      Ôi Chúa Giêsu, Tình Quân của con, vẻ đẹp của Chúa tuyệt vời dường bao! Đoá Hoa Sống Động đọng giọt sương mai đem sức sống cho linh hồn khát bỏng! Linh hồn con đắm đuối trong Chúa. Một mình Chúa là đối tượng cho những ước vọng và nỗ lực của con. Xin hãy liên kết con thắm thiết với Chúa, với Chúa Cha, và với Chúa Thánh Thần. Mong sao con được sống và được chết trong Chúa.

502      Chỉ có tình yêu mới có ý nghĩa; tình yêu nâng những hành vi bé mọn nhất của chúng ta lên cõi vô cùng.

503      Lạy Chúa Giêsu của con, quả thật con không biết sẽ sống làm sao nếu thiếu vắng Chúa - thần trí con được hàn chặt vào Thần Trí Chúa.

            Không ai thực sự có thể hiểu được điều này; trước tiên người ta phải sống trong Chúa rồi mới có thể nhận ra được Chúa ở nơi tha nhân.

            (206)    Cracow, ngày 25 tháng 10 năm 1935

Những Quyết Định Tuần Tĩnh Tâm

504      Trong mọi sự, không làm điều gì nếu chưa có phép của cha giải tội và sự đồng ý của các bề trên, đặc biệt là về những soi động và những yêu sách của Chúa.

            Tất cả thời giờ rảnh rỗi, tôi sẽ ở bên vị Thượng Khách Thần Linh trong linh hồn; tôi sẽ giữ thinh lặng trong ngoài để Chúa Giêsu có thể nghỉ ngơi trong tâm hồn tôi.

            Chỗ nghỉ ngơi ngọt ngào nhất của tôi là phục vụ và làm ơn cho chị em, quên mình và nghĩ đến cách làm vui lòng chị em.

            Tôi sẽ không biện minh hoặc tìm cách bào chữa khi bị chỉ trích; cứ để người khác mặc ý xét đoán.

            Tôi chỉ có một Bạn Tri Âm để thổ lộ mọi sự, đó là Chúa Giêsu Thánh Thể, và vị đại diện của Người, đó là cha giải tội của tôi.

            Giữa mọi đau khổ xác hồn cũng như trong cảnh tối tăm và bị bỏ rơi, tôi sẽ im lặng như một bồ câu, không lời than thở.

            Tôi sẽ liên lỷ huỷ mình dưới chân Chúa để xin ơn thương xót cho các linh hồn đáng thương.

505      Trọn vẹn cái hư vô của con được đắm chìm giữa lòng biển cả xót thương của Cha. Với niềm tín thác của một con trẻ, ôi Cha Toàn Thương, con xin gieo mình vào vòng tay Cha để đền bồi cho thái độ bất tín của quá nhiều linh hồn sợ hãi việc tín thác vào Chúa. Ôi, có quá ít linh hồn thực sự hiểu biết Chúa! Con nồng nhiệt ước ao cho các linh hồn được biết đến đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa! Lòng Thương Xót là triều thiên các công trình của Chúa; Chúa dành cho mọi người một khối tình người mẹ dịu hiền nhất.

            (207) + J.M.J. Cracow, ngày 27 tháng 10 năm 1935

Cha Andrasz - Lời Linh Hướng

506      “Chị đừng làm điều gì mà không có phép của các bề trên. Ta phải suy nghĩ vấn đề này một cách kỹ lưỡng và phải cầu nguyện nhiều. Này chị, ta phải rất thận trọng về những điều này, trong tình trạng của chị hiện nay, thánh ý Chúa rất chắc chắn và rõ ràng, bởi vì chị thực sự đã được ràng buộc với hội dòng này bằng các lời khấn, mà lại là lời khấn trọn đời; vì thế, không nên nghi ngờ gì nữa. Này chị, những gì chị đang trải nghiệm trong lòng chỉ là những ánh chớp lập loè của một dự án. Thiên Chúa có thể thực hiện một số thay đổi, nhưng những điều như thế rất hiếm. Chị đừng vội vã, hãy chờ cho đến khi nhận thêm tri thức chắc chắn hơn nữa. Những việc của Thiên Chúa tiến hành chậm chạp. Nhưng nếu quả là việc của Chúa, chắc chắn chị sẽ nhận ra rõ ràng. Nếu không chúng sẽ biến mất; còn chị, nhờ đức vâng phục, chịsẽ không bị lầm lạc. Chị hãy thành thật trình bày mọi điều với cha giải tội và vâng lời ngài một cách tối mặt”.

            “Này chị, ngay lúc này, không có gì cho chị phải làm cho bằng việc chấp nhận đau khổ cho đến khi mọi sự được hanh thông; tức là mọi sự sẽ được giải quyết. Chị đã chuẩn bị tốt cho những vấn đề này, và hãy cứ sống như thế trong tinh thần đơn thành và vâng phục; đó là một tín hiệu tốt. Nếu chị tiếp tục sống trong thái độ ấy, Thiên Chúa sẽ không để chị bị lầm lạc đâu. Tuy nhiên, chị hãy giữ một khoảng xa hết sức có thể với những điều này, nhưng giả như chúng cứ đến, chị hãy tiếp nhận một cách thanh thản chứ đừng sợ hãi. Chị đang sống trong bàn tay của Thiên Chúa rất nhân lành. Về tất cả những gì chị đã trình bày với tôi, tôi không thấy một ảo tưởng hoặc một điều nào đối nghịch với đức tin. Những điều ấy tự chúng rất tốt, và quả thật nếu có một số linh hồn khẩn nài Chúa cho thế giới thì rất tốt, vì tất cả chúng ta đều cần đến lời cầu nguyện. Chị có một cha linh hướng tốt lành; hãy vâng theo ngài rồi an tâm. Hãy trung thành với thánh ý Chúa và hãy thực hiện thánh ý ấy. Về các phận sự, chị hãy luôn làm điều chị được truyền phải làm và làm như chị được truyền phải làm, cho dù nhục nhã hay vất vả đến mấy. Hãy luôn chọn chỗ rốt hết, và khi ấy người ta sẽ nói với chị: “Xin mời hãy lên trên”. Về tinh thần và cách cư xử, chị hãy nhận mình là người kém nhất trong tu viện và trong hội dòng. Trong mọi sự và mọi lúc, hãy hết sức trung thành với Chúa”.

507      (208) Lạy Chúa Giêsu của con, con ước ao chịu đau khổ và cháy lên ngọn lửa tình yêu Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Con thuộc về Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa, và con ước ao được tan biến trong Chúa, lạy Chúa Giêsu, con ước ao được biến tan trong vẻ xinh đẹp thần linh của Chúa. Chúa đeo bám con bằng tình yêu, ôi lạy Chúa; Chúa thấu nhập linh hồn con như một tia sáng mặt trời và biến đổi cõi tối tăm ấy thành nên ánh sáng của Chúa. Con cảm thấy sống động rằng con đang sống trong Chúa như một tia lửa nhỏ bé bị nuốt trửng trong lò lửa vô cùng Chúa đang bừng cháy, ôi Thiên Chúa Ba Ngôi tối cao! Không thể tìm ra niềm vui nào lớn hơn niềm vui được mến yêu Chúa. Ngay trên trần gian này, chúng con đã nếm hưởng hạnh phúc của các phúc nhân trên thiên đàng nhờ được kết hợp mật thiết với Chúa, một sự kết hợp phi thường và không sao hiểu thấu đối với chúng con. Người ta có thể đạt được ơn này bằng sự trung thành đơn sơ của linh hồn.

508      Khi tâm trạng miễn cưỡng và đơn điệu về các nhiệm vụ bắt đầu nhen nhúm trong tôi, tôi tự nhắc nhở rằng tôi là người sống trong nhà Chúa, nơi đây không có gì tầm thường, và tại đây, vinh quang Giáo Hội và sự thăng tiến của không ít linh hồn đang phụ thuộc vào hành vi rất nhỏ mọn, nhưng đã được thực hiện một cách siêu nhiên của tôi. Vì thế, không có gì tầm thường trong một cộng đồng tu trì.

509      Trong những nghịch cảnh phải vượt qua, tôi tự nhắc nhớ rằng thời gian chiến đấu vẫn chưa chấm dứt. Tôi phải võ trang cho bản thân bằng đức nhẫn nại, và như thế, tôi sẽ đánh bại kẻ tấn công.

510      Tôi không tìm kiếm sự trọn lành để thoả mãn tò mò, nhưng tôi tìm hiểu tinh thần Chúa Giêsu và chăm chú vào các hành vi của Người như đã được tóm lược trong Phúc Âm. Cho dù có sống cả ngàn năm đi nữa, tôi cũng không thể múc cạn những điều ẩn chứa trong đó.

511      Khi những ý hướng ngay lành của tôi không được công nhận nhưng bị kết án, tôi không quá ngạc nhiên vì biết rằng chỉ một mình Chúa là Đấng thấu suốt lòng tôi. Sự thật sẽ không chết; con tim bị đả thương sẽ tìm được bình an vào giờ đã định, và thần trí tôi được vững vàng qua những nghịch cảnh. Không phải lúc nào tôi cũng nghe theo những tiếng nói của mình, nhưng tiếp tục nài xin Chúa ban ánh sáng; vì khi cảm thấy đã đạt được sự quân bình, tôi sẽ nói thêm.

512      (209) Ngày tuyên lại lời khấn. Sự hiện diện của Chúa tràn ngập linh hồn tôi. trong giờ thánh lễ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu và Người phán với tôi: Con là niềm vui lớn lao cho Cha; lòng mến và sự khiêm nhượng của con làm cho Cha phải lìa bỏ ngai toà thiên đàng để xuống kết hợp với con. Tình yêu đổ đầy vực thẳm ngăn cách giữa sự cao cả của Cha và cái hư vô của con.

513      Tình yêu đang ngập lút linh hồn tôi; tôi được chìm đắm giữa một đại dương tình ái. Tôi cảm thấy mình bị ngất ngây và hoàn toàn biến mất trong Thiên Chúa.

514      Lạy Chúa Giêsu, xin làm trái tim con nên giống Trái Tim Chúa, hay đúng hơn là hãy biến đổi nó trong chính Trái Tim Chúa để con cảm nhận được các nhu cầu của những trái tim, nhất là của những ai đang phiền sầu đau khổ. Ước chi những tia sáng xót thương lưu lại mãi mãi trong trái tim con.

515      Buổi tối, khi đang tản bộ và lần hạt Mân Côi trong vườn, lúc đến nghĩa trang, [5] tôi mở hé cánh cổng và bắt đầu cầu nguyện một lúc, tôi thầm hỏi: “Các chị có hạnh phúc không?”. Khi ấy, tôi đã nghe những lời này: “Chúng tôi được hạnh phúc theo mức độ chúng tôi đã thực thi thánh ý Thiên Chúa”. Và sau đó lại tĩnh lặng như trước. Tôi trầm tư suy nghĩmột lúc về cung cách tôi đang thực thi thánh ý Thiên Chúa và lợi dụng thời giờ Người ban cho tôi.

516      Cũng buổi tối hôm đó, khi tôi đã về ngủ, một linh hồn hiện đến, gõ nhẹ lên chiếc bàn ngủ để đánh thức tôi dậy và xin tôi cầu nguyện. Tôi muốn biết chị ấy là ai, nhưng tôi đã kềm hãm tò mò và liên kết việc hãm mình nhỏ mọn ấy với lời kinh nguyện để cầu cho chị.

517      Một lần kia, khi viếng thăm một chị yếu bệnh [6] nổi tiếng nhân đức đã tám mươi tư tuổi, tôi hỏi chị: “Thưa chị, chị đã chắc chắn sẵn sàng ra trước toà Chúa hay chưa?”.

            Chị đáp: “Em hằng dọn mình suốt đời cho giờ phút ấy”. Chị còn nói thêm: “Tuổi già không chước chuẩn cho chúng ta khỏi phải chiến đấu”.

518      (210) + Trước ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn, tôi đi viếng nghĩa trang vào lúc chập tối. Mặc dù nghĩa trang được khoá, tôi cũng ráng hé chiếc cổng ra một chút và nói: “Nếu các chị cần gì, hỡi các linh hồn nhỏ đáng yêu của em, em sẽ sung sướng được giúp đỡ các chị theo phạm vi luật dòng cho phép”. Khi ấy tôi được nghe những lời này: “Hãy thực thi thánh ý Thiên Chúa; chúng ta được hạnh phúc tuỳ vào mức độ chúng ta đã thi hành thánh ý Thiên Chúa”.

519      Buổi tối, những linh hồn này đã đến xin cầu nguyện, và tôi đã cầu nguyện rất nhiều cho họ. Vào buổi tối, lúc cuộc rước từ nghĩa trang trở về, tôi nhìn thấy rất đông các linh hồn cùng đi với chúng tôi vào nhà nguyện và cầu kinh với chúng tôi. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều vì được các bề trên cho phép như vậy. [7]

520      Đang đêm, một linh hồn tôi đã gặp trước kia hiện đến gặp tôi. Linh hồn này không xin cầu nguyện nhưng quở mắng và chửi rủa tôi là đồ hư hốt vô tích sự... “vậy mà bây giờ lại còn ra chuyện cầu bầu cho thiên hạ đang khi mình thực sự còn đầy thói hư nết xấu”. Tôi trả lời trước kia tôi quả thật rất hư hốt vô tích sự, nhưng tôi đã xưng tội và đã làm việc đền tội vì sự mê muội ấy. Tôi tin tưởng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, và nếu đôi khi còn sa ngã, thì đó chỉ là sơ xuất chứ tôi không bao giờ cố tình, thậm chí ngay trong những điều rất nhỏ mọn. Tuy nhiên, linh hồn kia vẫn cứ quát mắng tôi: “Tại sao mày không ngoan ngoãn tôn nhận sự cao cả của tao? Tại sao một mình mày không tôn vinh tao vì những việc lẫy lừng của tao như tất cả thiên hạ đều làm?”. Lúc ấy, tôi đã nhận ra hắn là Satan đội lốt một linh hồn, và tôi đáp lại: “Vinh quang chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa. Hỡi Satan, hãy xéo đi!”. Lập tức, hồn ma này phóng xuống một hào sâu, kinh hãi không tả xiết. Tôi đã nói với hồn ma độc dữ này rằng tôi sẽ nói cho cả Giáo Hội về điều này.

521      Thứ Bảy, chúng tôi rời Cracow và trở về Vilnius. Trên đường, chúng tôi vào viếng đền thánh Czestochowa. Khi cầu nguyện trước ảnh thánh Đức Mẹ hay làm phép lạ, tôi thấy... rất sung sướng... [tư tưởng để ngỏ].

Về đầu trang

MUÔN ĐỜI CON SẼ CA TỤNG  LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

TẬP HAI  LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA NƠI LINH HỒN TÔI

 

NỮ TU M. FAUSTINA

NHẬT KÝ

 (1) + J.M.J.

522      + Muôn đời con sẽ ca tụng Lòng Thương Xót Chúa,

            Con sẽ ca tụng trước mọi người,

            Vì đó là ưu phẩm cao cả nhất của Chúa

            Và đối với chúng con là một phép lạ liên lỉ.

            Phát nguyên từ Thiên Chúa Ba Ngôi,

            Từ một cung lòng độc nhất sung mãn tình yêu,

            Lòng Thương Xót Chúa sẽ được tỏ hiện nơi linh hồn

            Với tất cả sự sung mãn, khi bức màn hạ xuống.

            Từ nguồn mạch lòng xót thương của Chúa, ôi lạy Chúa,

            Trào tuôn mọi hạnh phúc và sự sống,

            Và thế là mọi thụ tạo và toàn thể công trình tạo dựng

            Say sưa hát lên bài ca Lòng Thương Xót.

            Lòng Thương Xót của Chúa được khơi mở cho chúng con

            Qua đời sống Chúa Giêsu, chịu treo trên thập giá.

            Hỡi tội nhân, bạn đừng hoài nghi hay tuyệt vọng,

            Nhưng hãy tín thác vào Lòng Thương Xót, vì bạn cũng có thể nên thánh thiện.

            Hai dòng suối mang hình những luồng sáng

            Đã trào ra từ Trái Tim Chúa Giêsu,

            Không phải cho các sứ thần, minh thần, hay luyến thần,

            Nhưng cho phần rỗi của nhân loại tội lỗi.

            (2) + J.M.J.

523                  Ôi thánh ý Thiên Chúa,

                        Xin hãy là tình yêu của con.

            Lạy Chúa Giêsu của con, Chúa biết đáng lẽ con không viết một chữ nào về bản thân con, nhưng nếu con có viết, thì đó chỉ vì lệnh truyền hiển nhiên của đức vâng lời thánh thiện.

Thiên Chúa và Các Linh Hồn

Nữ tu M. Faustina.

Phép Thánh Thể [8]

524      + Ôi Chúa Giêsu, Thiên Chúa ẩn thân,

            Trái tim con cảm nhận được Chúa

            Mặc dù có các bức màn che khuất;

            Chúa biết con mến yêu Chúa.

            (3) + J.M.J.      Vilnius, ngày 24 tháng 11 năm 1935

                                    + Tập Hai

Nguyện Chúa Được Chúc Tụng!

525      Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, trong Chúa có cuộc sống nội tại của Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, niềm vui vĩnh hằng, tình yêu sâu thẳm vô biên, đã trào đổ trên mọi thụ tạo và làm nên hạnh phúc của chúng, nguyện danh dự và vinh quang đều qui về Thánh Danh Chúa cho đến thiên thu vạn đại. Amen.

            Lạy Thiên Chúa của con, khi suy tưởng đến sự cao trọng và vẻ xinh đẹp của Chúa, con vui mừng quá đỗi vì Thiên Chúa con phụng sự thật vĩ đại dường bao.

            Tôi thực thi thánh ý Chúa trong mến yêu và vui tươi; càng nhận biết Người, tôi càng ước muốn mến yêu Người. Tôi bừng cháy niềm thao thức mến yêu Người mỗi ngày một hơn.

526      (4)                    + Ngày thứ 14

            Thứ Năm này, lúc chúng tôi làm giờ chầu đêm, lúc đầu, tôi không thể cầu nguyện; một tình trạng khô khan bao trùm tôi. Tôi không thể suy tưởng về cuộc Khổ Nạn thảm thương của Chúa Giêsu. Thành ra, tôi sấp mình và hiến dâng cuộc Thương Khó quá thê thảm của Chúa Giêsu lên Cha trên trời để đền bồi tội lỗi của toàn thế giới. Sau lời cầu nguyện ấy, lúc chỗi dậy và đi về bàn quỳ của mình, tôi bỗng nhìn thấy Chúa Giêsu gần đó. Chúa Giêsu hiện ra trong lúc đang chịu đánh đòn. Tay Chúa cầm một chiếc áo trắng và mặc cho tôi; Chúa cũng cầm với một sợi dây và thắt cổ cho tôi, rồi đắp lên người tôi một chiếc áo choàng màu đỏ giống như chiếc áo người ta đã mặc cho Người trong hồi Thương Khó, và một chiếc khăn che mặt cũng màu đỏ. Và Chúa phán với tôi: Đây là cách con và các người đồng tâm với con sẽ được mặc. Cuộc đời Cha từ lúc giáng sinh cho đến khi chết trên thập giá sẽ là luật sống cho các con. Con hãy nhìn kỹ vào Cha và sống theo những gì con nhìn thấy. Cha ước mong con đi vào tâm trí của Cha sâu xa hơn nữa và hiểu (5) rằng Cha là Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

527      Một lần kia, tôi cảm thấy bị thôi thúc phải bắt tay vào việc và chu toàn những gì Thiên Chúa đang yêu cầu. Tôi vào nhà nguyện một lúc và nghe lời này trong linh hồn: Tại sao con sợ hãi? Con cho rằng Cha không đủ toàn năng để nâng đỡ con sao? Lúc đó, linh hồn tôi cảm nhận một sức mạnh phi thường; mọi nghịch cảnh xảy đến cản trở tôi thực hành ý định của Chúa dường như không còn là gì đối với tôi nữa.

528      Thứ Sáu, trong giờ thánh lễ, khi linh hồn được đắm chìm trong niềm hạnh phúc của Thiên Chúa, tôi đã được nghe những lời này trong linh hồn: Lòng Thương Xót của Ta đã trào tuôn cho các linh hồn qua Trái Tim nhân-thần Chúa Giêsu như một tia sáng mặt trời chiếu pha lê. Tôi cảm nghiệm tận thâm tâm và hiểu rằng tất cả mọi người đến được với Thiên Chúa đều nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, và qua Chúa Giêsu.

529      (6) Vào tối ngày cuối cùng [ngày 15] trong tuần cửu nhật tại Ostra Brama, sau khi hát kinh cầu, một linh mục đã đặt Mình Thánh vào mặt nhật. Vừa khi ngài đặt mặt nhật lên bàn thờ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng dang đôi tay nhỏ xíu, trước tiên về phía Mẹ Người lúc ấy cũng hiện ra sống động. Khi Mẹ Thiên Chúa nói chuyện với tôi, Chúa Giêsu lại dang đôi bàn tay nhỏ xíu của Người về phía cộng đoàn. Đức Mẹ dạy tôi hãy chấp nhận như một con trẻ tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi và đừng thắc mắc; nếu không sẽ không đẹp lòng Thiên Chúa. Vào lúc đó, Chúa Hài Nhi biến đi, và Mẹ Thiên Chúa không còn sống động nữa, bức hình của Mẹ trở lại như trước. Nhưng linh hồn tôi dạt dào chất ngất niềm hoan lạc, và tôi thân thưa với Chúa: “Xin hãy dùng con tuỳ ý Chúa; con sẵn sàng tất cả, nhưng lạy Chúa, xin Chúa đừng bỏ rơi con dù chỉ một phút giây”.

            (7) + J.M.J.

Cho Vinh Danh Thiên Chúa Ba Ngôi

530      Tôi xin Mẹ Bề Trên [Borgia] cho phép tôi được giữ chay bốn mươi ngày, mỗi ngày chỉ dùng một miếng bánh mì và một ly nước. Tuy nhiên, theo lời khuyên của cha giải tội của tôi [cha Sopocko], Mẹ Bề Trên đã không chuẩn cho bốn mươi ngày, mà chỉ cho bảy ngày. “Này chị, tôi không thể miễn chước hết các việc phận sự cho chị được, bởi vì các chị em khác có thể nhận ra điều gì đó. Tôi cho phép chị chuyên tâm cầu nguyện và ghi chép những điều này, còn về việc giữ chay, thật khó khăn cho tôi trong việc bao che cho chị. Quả thật, tôi không nghĩ ra được giải pháp nào cho việc này cả”. Và Mẹ nói tiếp: “Vậy bây giờ chị cứ ra đi, và một ánh sáng nào đó chắc sẽ đến với tôi”. Sáng Chúa Nhật, tôi đã hiểu ra Mẹ Bề Trên có ý cho tôi cơ hội giữ chay khi giao cho tôi nhiệm vụ coi cổng vào giờ cơm. Vào buổi sáng, tôi không đi điểm tâm, một lúc sau, tôi đến gặp (8) Mẹ Bề Trên và hỏi có đúng Mẹ cử tôi coi cổng để giúp tôi giữ hay mà không bị để ý phải không. Mẹ đáp lại: “Này chị, khi tôi cắt cử chị, [9] ý nghĩ ấy đã có trong đầu tôi”. Khi ấy, tôi thấy đúng như điều tôi đã nghĩ trước trong lòng.

531                              Ngày 24 tháng 11 năm 1935

            Chúa Nhật, ngày đầu tuần. Tôi đến trước Thánh Thể, và cùng với Chúa Giêsu hiện diện trong nhiệm tích cực thánh, tôi dâng mình cho Chúa Cha Hằng Hữu. Lúc ấy, tôi nghe những lời này trong linh hồn: Mục đích của con và các người đồng tâm của con là hãy hợp nhất với Cha hết sức mật thiết; bằng tình yêu, các con sẽ hoà giải trời với đất, các con sẽ làm nguôi cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa và các con sẽ khẩn nài lòng nhân từ cho thế giới. Cha giao cho các con hai hạt bích ngọc vô cùng quý báu đối với Trái Tim Cha: đó là linh hồn các linh mục và các tu sĩ. Các con hãy cầu nguyện đặc biệt cho các ngài; sức mạnh các ngài có được là do việc huỷ mình của các con. Các con hãy liên kết lời cầu nguyện, giữ chay, khổ chế, lao nhọc, và (9) tất cả những đau khổ của các con với lời cầu nguyện, chay tịnh, khổ chế, lao nhọc, và đau khổ của Cha, và rồi các ngài sẽ có được sức mạnh trước thánh nhan Cha của Cha.

532      Sau hiệp lễ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu, Người phán với tôi những lời này: Hôm nay, con hãy đi sâu vào tinh thần khó nghèo của Cha và sắp đặt mọi sự sao cho những người túng nghèo nhất cũng không có lý do để ganh tỵ với con. Cha tìm được niềm vui, không phải từ những toà nhà đồ sộ và những công trình kiến trúc nguy nga, nhưng từ một tâm hồn thanh sạch và khiêm nhượng.

533      Khi ở một mình, tôi bắt đầu suy gẫm về tinh thần khó nghèo. Tôi thấy rõ ràng Chúa Giêsu, dù là Chúa Tể muôn loài muôn vật, nhưng lại chẳng sở hữu vật gì. Từ một chiếc máng cỏ mượn tạm, Chúa đã bước vào cuộc đời thi ân cho mọi người, còn chính Người lại chẳng có lấy một chỗ tựa đầu. Và trên cây thập giá, tôi nhìn ra đỉnh cao đức khó nghèo của Chúa Giêsu, vì Người không có lấy một mảnh áo che thân. Lạy Chúa Giêsu, qua lời khấn trọng tuyên giữ đức khó nghèo, con ước ao được trở nên giống Chúa; đức nghèo sẽ là mẹ con. (10) Bề ngoài, chúng ta không nên sở hữu vật gì và không còn gì để tự ý định đoạt; còn bề trong, chúng ta không nên thèm muốn vật gì. Kìa trong bí tích Thánh Thể, cao cả thay đức khó nghèo của Chúa! Lạy Chúa Giêsu, đã từng có linh hồn nào bị ruồng rẫy như Chúa trên thập giá chưa?

534      Đức Thanh Tịnh. Không cần phải giải thích vì lời khấn này ngăn cấm tất cả những gì phạm đến giới răn thứ sáu và thứ chín trong hành vi, tư tưởng, ngôn ngữ, cảm tình... Tôi hiểu lời khấn trọng khác với lời khấn đơn; tôi hiểu điều này với tất cả những hàm ý trong đó. Đang lúc suy tư điều ấy, tôi đã nghe những lời này trong linh hồn: Em là hiền thê vĩnh viễn của Ta; đức thanh tịnh của em phải cao sang hơn của các thiên thần, bởi vì Ta không mời gọi một thiên thần nào vào tình thân ái như Ta đã gọi em. Hành vi nhỏ mọn nhất của hiền thê cũng có giá trị vô song. Một linh hồn thanh khiết có thế lực khôn cùng trước mặt Thiên Chúa.

535      (11) Đức Vâng Phục. Cha đã đến để thi hành thánh ý Chúa Cha. Cha đã vâng lời song thân của Cha, Cha đã vâng phục các lý hình và giờ đây Cha vâng lời các linh mục. Lạy Chúa Giêsu, con hiểu tinh thần vâng phục và tinh thần ấy cốt ở điều gì. Nó không những bao gồm việc chu toàn bên ngoài, mà còn cả trong trí năng, ý chí, và phán đoán.

            Khi vâng phục các bề trên là chúng ta vâng phục chính Thiên Chúa. Chẳng có gì khác biệt khi một thiên thần hoặc một con người đại diện cho Thiên Chúa truyền lệnh cho tôi; tôi luôn luôn phải vâng phục. Tôi không định viết nhiều về các lời khấn; bởi vì những điều ấy quá minh bạch và cụ thể. Ngược lại, tôi sẽ ghi ra một vài tư tưởng tổng quát về hội dòng này.

+ Tóm Lược Tổng Quát

536      Không bao giờ có những toà nhà tráng lệ, nhưng chỉ có một nhà nguyện nhỏ với một cộng đoàn nhỏ không quá mười người, cộng thêm hai người ngoại vụ đảm trách các việc bên ngoài cho cộng đoàn (12) và cho nhà nguyện. Hai chị này không mặc tu phục, nhưng mặc trang phục đời; các chị sẽ tuyên khấn đơn, và hết sức lệ thuộc vào bề trên là người sống trong nội vi. Các chị này sẽ được thông công mọi ơn ích thiêng liêng của hội dòng. Và không bao giờ con số vượt quá hai người, tốt hơn chỉ nên có một. Mỗi nhà độc lập với nhau trong bộ luật, các lời khấn, và tinh thần. Tuy nhiên, trong các trường hợp ngoại lệ, một chị từ nhà này có thể được thuyên chuyển sang một nhà khác; và trong trường hợp thành lập nhà mới, một số chị em từ một nhà khác có thể được chuyển đến nếu cần. Mỗi nhà sẽ lệ thuộc vào đấng bản quyền địa phương.

537      Mỗi chị sẽ có một phòng riêng, nhưng giữ đời sống cộng đoàn trong các giờ cầu nguyện, dùng bữa, và giải trí. Mỗi nữ tu, sau khi tuyên khấn, (13) sẽ không còn thấy thế gian nữa, cho dù qua song cửa, vì song cửa sẽ được bọc lại bằng vải màu sẫm, và các cuộc chuyện vãn cũng bị giới hạn nghiêm nhặt. Nữ tu sẽ như người điếc, không được thế gian hiểu mà cũng chẳng hiểu thế gian. Nữ tu phải đứng giữa trời và đất, liên lỉ nài xin Thiên Chúa xót thương thế giới và ban sức mạnh cho các linh mục để lời nói của các ngài không bị rỗng tuếch, và để các ngài - trong chức phẩm phi thường nhưng gặp nhiều nguy hại - vẫn giữ mình hoàn toàn trong trắng. Mặc dù số người không nhiều, nhưng đó là những linh hồn anh hùng. Sẽ không có chỗ cho những người nhút nhát hoặc uỷ mị.

538      Sẽ không có sự phân biệt giữa các nữ tu, không có các mẹ, [10] các chị đáng kính, các chị đáng trọng, nhưng tất cả đều bình đẳng, mặc dù như thế sẽ gặp những khó khăn rất lớn trong tương quan giữa họ với nhau. Chúng ta biết Chúa Giêsu là ai, thế mà Người đã tự hạ như thế nào và đã tương giao với những ai. Tu phục các nữ tu giống như của Chúa Giêsu trong cuộc Khổ nạn của Người, và không những mặc áo chùng mà thôi [như Chúa đã mặc]; (14) mà còn phải đính kết những dấu hiệu Người đã mang: đó là đau khổ và khinh bỉ. Mỗi người phải gắng sức bỏ mình và mến yêu đức khiêm nhượng; ai trổi vượt nhất trong nhân đức này sẽ là người có đủ khả năng lãnh đạo những người khác.

539      Vì Thiên Chúa đã cho chúng ta được thông phần Lòng Thương Xót của Người, và hơn thế nữa, còn là những người phân phát Lòng Thương Xót ấy, nên chúng ta phải hết lòng yêu thương từng linh hồn, trước tiên là các phúc nhân, và sau cùng là linh hồn chưa nhận biết Chúa. Bằng việc cầu nguyện và hãm mình, chúng ta sẽ mở đường đến các quốc gia kém văn minh nhất để dọn đường cho các nhà thừa sai. Chúng ta hãy nhớ rằng một chiến sĩ ngoài trận tuyến sẽ không thể đứng vững nếu thiếu sự hỗ trợ của lực lượng hậu phương, tuy không thực sự tham gia chiến đấu nhưng chu cấp mọi nhu cầu cho anh ta; vai trò cầu nguyện cũng như thế, vì vậy, mỗi người chúng tôi hãy trổi vượt với tinh thần tông đồ.

540      (15) Vào buổi tối, khi đang ghi chép, tôi nghe một tiếng nói trong phòng: “Mày chớ rời bỏ hội dòng này; phải thương lấy bản thân, những đau khổ kinh hồn đang chờ đón mày đó”. Khi nhìn về phía tiếng nói, tôi không thấy gì, nên cứ tiếp tục viết. Bỗng nhiên, tôi nghe một tiếng động và những lời này: “Khi mày ra đi, chúng tao sẽ huỷ diệt mày. Mày đừng có mà làm khổ chúng tao”. Tôi rảo mắt nhìn chung quanh và thấy nhiều hình thù gớm ghiếc. Vì vậy, tôi làm dấu Thánh Giá trong đầu và bọn chúng liền biến mất. Satan thật xấu xa kinh hãi! Những linh hồn bị trầm đoạ khốn nạn cứ phải ở bên cạnh hắn! Chỉ thấy hắn mà thôi còn kinh tởm hơn mọi cực hình hoả ngục khác.

541      Một lúc sau, tôi được nghe lời này trong linh hồn: Con đừng sợ hãi gì cả; không gì nghịch với thánh ý Cha xảy đến với con được. Sau những lời ấy của Chúa, một sức mạnh lạ thường tràn vào linh hồn tôi. Tôi vui mừng khôn xiết vì Thiên Chúa thật quá tốt lành.

542      (16) Thời gian thỉnh tu. [11] Tuổi nhận vào dòng: bất kỳ thiếu nữ nào trong độ tuổi từ mười lăm đến ba mươi. Trước tiên, phải xét đến tinh thần chí nguyện sinh đã thấm nhiễm và đức tính của họ, xem họ có ý chí mạnh mẽ và can đảm theo chân Chúa Giêsu với sự vui tươi hoan hỉ hay không vì Thiên Chúa mến yêu kẻ cho một cách vui tươi. Họ phải khinh chê thế gian và bản thân. Việc thiếu của hồi môn không bao giờ ngãng trở việc thu nhận. Mọi vấn đề liên quan đến chí nguyện sinh phải minh bạch, không nên thu nhận các trường hợp rắc rối.

            Không được thu nhận những người u uất hay buồn bực, những người mắc bệnh truyền nhiễm, những người tính khí thất thường, những người dễ nghi ngờ kẻ khác, những người không thể thích nghi với đời sống tu trì. Các phần tử phải được tuyển chọn hết sức cẩn trọng, bởi vì chỉ một phần tử không xứng hợp mà thôi cũng đủ đưa cả cộng đoàn đến chỗ xáo trộn.

543      Thời gian thỉnh tu. Thời gian thỉnh tu sẽ kéo dài một năm. (17) Trong thời gian này, chí nguyện sinh phải xét xem có yêu thích nếp sống này không và có thích hợp với họ hay không. Người hữu trách cũng phải ân cần cứu xét đương sự có thích hợp với nếp sống này hay không. Sau một năm, nếu thỉnh sinh tỏ dấu chứng cho thấy một ý chí vững vàng và tha thiết phụng sự Thiên Chúa thì sẽ được nhận vào tập viện.

544      Tập viện. [12] kéo dài một năm, không gián đoạn. Trong thời gian này, tập sinh sẽ được huấn luyện về những nhân đức liên quan đến các lời khấn và tầm quan trọng của các lời khấn. Vị giám tập phải làm hết sức để cung cấp một chương trình huấn luyện chắc chắn. Vị giám tập hãy huấn luyện các tập sinh tập đức khiêm nhượng, bởi vì chỉ có tâm hồn khiêm nhượng mới dễ dàng giữ được các lời khấn và cảm hưởng được những niềm vui lớn lao mà Thiên Chúa trào đổ cho linh hồn trung tín.

            Không nên giao phó cho các tập sinh những công việc đòi hỏi trách vụ, để họ thong dong chuyên tâm vào việc thánh hoá bản thân. Họ phải giữ các lề luật và quy định nghiêm ngặt, các thỉnh sinh cũng thế.

545      (18) Sau năm tập, nếu tỏ ra trung thành, tập sinh có thể được nhận cho tuyên khấn trong thời hạn một năm. Việc này sẽ được lặp lại trong ba năm. Lúc này, nữ tu có thể được giao phó các công việc đòi hỏi trách vụ. Tuy nhiên, nữ tu vẫn thuộc về tập viện, và mỗi tuần một lần, phải tham dự các buổi hội cùng với các tập sinh, và phải sống trong tập viện trong thời gian đủ sáu tháng cuối cùng để chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc tuyên lời khấn trọng. [13]

546      Dùng bữa. Chúng ta sẽ không dùng thịt. Các bữa ăn của chúng ta phải thế nào để ngay cả những người nghèo túng cũng không có lý do mà ganh tị với chúng ta. Tuy nhiên, các ngày lễ có thể hơi khác với ngày thường. Các nữ tu sẽ dùng ba bữa một ngày. Các ngày giữ chay, nhất là trong hai kỳ giữ chay quan trọng, sẽ được tuân giữ nghiêm ngặt theo đúng tinh thần nguyên thuỷ. Thực phẩm phải như nhau cho mọi nữ tu, không (19) có ngoại lệ, để đời sống chung được bảo đảm. Điều này không những liên quan đến thực phẩm mà còn cả trong vấn đề y phục, đồ đạc, và phòng riêng nữa. Tuy nhiên, nếu trường hợp lâm bệnh, nữ tu sẽ được cứu xét.

547      Cầu nguyện. Một giờ đồng hồ nguyện gẫm, thánh lễ và hiệp lễ, các kinh, hai lần hồi tâm, kinh Thần Vụ, [14] kinh Mân Côi, đọc sách thiêng liêng, một giờ cầu nguyện trong đêm. Về vấn đề thời dụng biểu, tốt hơn cứ giữ như hồi chúng ta khởi đầu sống nếp sống này.

548      Bỗng nhiên, tôi được nghe những lời này trong linh hồn: Hỡi ái nữ của Cha, Cha đảm bảo cho con về nguồn thu nhập mãi mãi cho các con sinh nhai. Nhiệm vụ các con là tín thác hoàn toàn vào lòng nhân lành của Cha, còn nhiệm vụ của Cha là ban cho các con tất cả những gì các con cần thiết. Cha bắt mình phải lệ thuộc vào lòng tín thác của các con: nếu lòng tín thác các con lớn lao, khi ấy lòng quảng đại của Cha sẽ không còn giới hạn.

549      (20) Lao công. Như những người nghèo khó, các nữ tu sẽ làm mọi công việc trong tu viện. Ai nấy hãy vui tươi khi được giao phó một công việc hèn mọn hoặc không phù hợp sở thích, vì điều này giúp ích rất nhiều cho việc huấn luyện nội tâm. Bề trên hãy thường xuyên thay đổi các phận sự cho các nữ tu, và qua đó giúp họ ly thoát hoàn toàn với những chi tiết nhỏ nhặt mà giới nữ thường bị dính bén. Quả thật, tôi thường lấy làm lạ khi chính mắt tôi thấy các linh hồn đã từ bỏ những sự vật lớn lao để rồi dính bén vào những thứ vớ vẩn, tức là những thứ nhỏ mọn. Mọi nữ tu, kể cả bề trên, hãy giúp việc nhà bếp trong một tháng. Mỗi người hãy luân phiên làm mọi thứ công việc cần thiết trong tu viện.

550      Trong mọi lúc và mọi công việc, các nữ tu phải có chủ ý ngay lành, bởi vì mọi hình thức pha tạp trong ý hướng đều làm mất lòng Thiên Chúa. Hãy thú ra các sai lỗi bề ngoài, (21) và xin bề trên ra việc đền tội. Hãy làm việc này với tinh thần khiêm nhượng.

            Hãy yêu thương nhau bằng một tình yêu thánh thiện, một tình yêu trong sạch, nhìn chính hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi chị em. Đức ái phải là đặc điểm của cộng đoàn nhỏ bé này, vì thế không được khoá chặt tâm hồn nhưng hãy ôm ấp toàn thể thế giới theo ơn gọi của mình. Nếu chúng ta sống thể hiện xót thương, chính chúng ta sẽ được thương xót.

551      Tình yêu mỗi người dành cho Giáo Hội phải thật lớn lao! Như người con nhỏ bé nguyện cầu cho người mẹ yêu dấu thế nào, mỗi tín hữu cũng hãy cầu nguyện cho Giáo Hội, người mẹ của mình như vậy. Huống hồ phải nói gì về chúng ta là những nữ tu, những người đã hiến thân để cầu nguyện cho Giáo Hội? Vì thế, sứ vụ tông đồ của chúng ta tuy ẩn khuất nhưng thật lớn lao. Tất cả những việc không tên nhỏ bé hằng ngày của chúng ta sẽ được đặt dưới chân Chúa Giêsu như một của lễ khẩn cầu cho thế giới; nhưng để (22) được đẹp lòng Thiên Chúa, của lễ chúng ta cần phải tinh sạch. Và để nên tinh sạch, con tim cần phải được giải thoát mọi dính bén tự nhiên, và mọi cảm tình phải được quy hướng về Đấng Tạo Hoá, yêu mọi thụ tạo trong Người và theo thánh ý Người; và một khi đã hành động như thế, với tinh thần nhiệt thành, mỗi người sẽ đem lại niềm vui cho Giáo Hội.

552      Ngoài các lời khấn, tôi còn thấy một điều luật rất quan trọng. Mặc dù mọi lề luật đều quan trọng, nhưng tôi đặt điều này lên hàng đầu, đó là luật thinh lặng. Quả thật, nếu luật này được giữ nghiêm ngặt, tôi sẽ không phải lo lắng về những luật khác. Nữ giới thường rất ham nói, trong khi Chúa Thánh Thần lại không nói với một linh hồn chia trí và lắm lời. Chúa Thánh Thần nói qua những soi động lặng lẽ của Người với một linh hồn tịnh tâm, một linh hồn biết giữ thinh lặng. Nếu luật thinh lặng được giữ nghiêm chỉnh, thì sẽ không có những xầm xì, cay đắng, vu khống, nói hành, và đức ái sẽ không bị sứt mẻ. (23) Tóm lại, nhiều điều sai quấy sẽ không xảy ra. Những môi miệng thinh lặng là vàng ròng và là chứng từ của sự thánh thiện.

553      Nhưng tôi muốn nói ngay đến luật thứ hai: đó là lời nói. Im lặng khi phải nói là một bất toàn và có khi còn là một tội. Vì thế, tất cả chị em hãy tham gia giờ giải trí, và bề trên không nên chước chuẩn cho họ, trừ khi vì vấn đề rất can hệ. Giải trí là cơ hội để thông cảm lẫn nhau. Mỗi người hãy bộc lộ tâm tư mình một cách đơn thành để xây dựng người khác, đừng theo thói kẻ cả. Xin Chúa đừng để xảy ra thái độ gây gổ, bởi vì điều này không phù hợp với đường trọn lành và tinh thần tu trì của chúng ta là ơn gọi phải được thể hiện đặc biệt qua đức ái. Mỗi ngày sẽ có hai lần giải trí, mỗi lần nửa giờ đồng hồ. Nếu phá thinh lặng ngoài giờ ấy, (24) đương sự phải lập tức thú lỗi với bề trên và xin việc đền tội, và bề trên hãy sửa phạt những vi phạm này bằng những việc đền tội công khai. Nếu không, bề trên sẽ phải trả lẽ về điều này trước mặt Chúa.

554      Nội vi. [15] Không ai được vào nội vi trừ khi có phép đặc biệt của đấng bản quyền địa phương và trong những hoàn cảnh rất đặc biệt, chẳng hạn như ban bí tích Xức Dầu cho bệnh nhân giúp họ dọn mình chết lành, hoặc cử hành nghi lễ an táng. Khi cần thiết, cũng có thể cho thợ vào sửa chữa, nhưng đòi phải có phép đặc biệt. Cửa vào nội vi phải luôn khoá kỹ và đích thân bề trên giữ chìa khoá này.

555      Sử dụng phòng khách. Không nữ tu nào được ra phòng khách mà không có phép đặc biệt của bề trên, và bề trên đừng nên thường xuyên ban phép tiếp khách. (25) Những người đã chết cho thế gian không nên ngoái đầu trở lại, cho dù bằng những cuộc chuyện trò. Nếu thấy chính đáng, bề trên hãy cho phép nữ tu ra phòng khách, nhưng phải giữ những hướng dẫn sau đây. Chính bề trên phải cùng đi với nữ tu ấy, và nếu không làm được như vậy, thì hãy sắp xếp một nữ tu đáng tin khác, cam đoan giữ kín và không được lặp lại [cho chị em] những gì đã nghe thấy, nhưng phải thông tri tất cả cho bề trên. Những cuộc chuyện vãn phải ngắn gọn, trừ khi được phép thêm giờ vì lợi ích của khách. Tuy nhiên, không được vén bức màn ra, ngoại trừ trong những trường hợp rất đặc biệt, chẳng hạn cha mẹ tha thiết xin như vậy.

556      Thư từ. Mỗi nữ tu có thể viết thư kín cho đấng bản quyền nơi nhà dòng trực thuộc. Còn bất kỳ thư từ nào khác đều buộc phải có phép, và nữ tu hãy giao bức thư để trống cho bề trên. Bề trên phải được tinh thần đức ái (26) và khôn ngoan hướng dẫn, có quyền gởi đi hoặc giữ lại thư ấy, liệu sao cho Chúa được vinh danh hơn. Tuy nhiên, tôi rất muốn những cách liên lạc như thế phải bị hạn chế hết sức có thể. Chúng ta hãy giúp đỡ tha nhân bằng lời cầu nguyện và hãm mình, chứ không phải bằng thư từ.

 557     Xưng tội. Các linh mục giải tội thường xuyên và ngoại lệ cho cộng đoàn sẽ được vị [giám mục] bản quyền chỉ định.[16] Sẽ có một cha giải tội thường xuyên, giải tội cho chị em mỗi tuần một lần. Linh mục giải tội ngoại lệ sẽ đến cứ ba tháng một lần, và mọi nữ tu buộc phải gặp ngài, cho dù không xưng tội. Hai linh mục giải tội giữ chức vụ trong tu viện với thời hạn ba năm. Sau đó sẽ có một cuộc bầu phiếu kín, và bề trên sẽ đệ trình kết quả cho đấng bản quyền. Cha giải tội có thể được tái chỉ định thêm ba năm nữa, và được chỉ định thậm chí đến lần thứ ba. (27) Các nữ tu sẽ cáo mình qua một lưới sắt có khoá và che màn màu sẫm. Các nữ tu đừng bao giờ bàn tán với nhau về vấn đề xưng tội hoặc về các linh mục giải tội; tốt hơn, hãy cầu xin Chúa ban ánh sáng để các ngài có đủ khả năng hướng dẫn linh hồn họ.

558      Hiệp lễ. Các chị em đừng bao giờ bàn tán ai hiệp lễ nhiều ai hiệp lễ ít. Hãy kềm hãm đừng xét đoán vấn đề này vì không liên can đến mình. Mọi phán đoán trong vấn đề này thuộc về linh mục giải tội. Bề trên có thể nói chuyện với chị em, nhưng đừng hỏi vì sao chị ấy không hiệp lễ, đơn giản hãy dự liệu điều kiện giúp họ xưng tội. Các bề trên đừng bao giờ liều lĩnh đi vào lãnh vực lương tâm của chị em. Bề trên thỉnh thoảng có thể sắp xếp để cộng đoàn hiệp lễ (28) theo một ý chỉ nào đó. Mỗi chị em hãy cố giữ linh hồn trong trắng để có thể tiếp đón vị Thượng Khách Thần Linh mỗi ngày.

559      Vào một dịp kia, khi vào nhà nguyện, tôi nhìn thấy những bức tường của một toà nhà trong tình trạng hư nát [một toà nhà sụp đổ]. [17] Các cửa sổ đều thiếu những tấm pa-nô, các cửa ra vào chỉ có khung mà không có phần gỗ chắn. Khi ấy, tôi được nghe những lời này trong linh hồn: Đây sẽ là chỗ của tu viện. Tôi hơi thất vọng vì những đống tan hoang này sẽ trở thành tu viện.

560      Thứ Năm. Tôi cảm thấy bị thôi thúc phải hết sức nhanh chóng xúc tiến công cuộc Chúa đang đòi hỏi. Khi xưng tội, tôi bám vào tư kiến hơn là ý của cha giải tội. Lúc đầu, tôi không nhận ra điều này, nhưng khi làm giờ thánh, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu (29) như trong bức hình, và Người bảo tôi phải thưa lại với cha giải tội và các bề trên tất cả những gì Người đã nói hoặc yêu cầu tôi... và hãy chỉ làm những điều nào con được phép. Chúa cho tôi biết Người rất buồn phiền với những kẻ theo ý riêng, và tôi nhận ra mình là một trong những kẻ ấy. Tôi nhìn thấy bóng tối ý riêng nơi mình. Trước uy nghi Chúa, tôi đã gieo mình vào đất bụi. [18] Với tâm hồn tan nát, tôi đã nài xin Chúa thứ tha. Nhưng Chúa Giêsu không để tôi trong tình trạng này lâu. Ánh nhìn thần linh của Người trào đổ vào tâm hồn tôi một niềm hoan lạc không lời nào diễn tả được. Chúa Giêsu cho biết tôi nên bàn hỏi và tìm lời khuyên của Người nhiều hơn nữa. Quả thật, thánh nhan Chúa thật hồn hậu; đôi mắt Người thấu suốt linh hồn tôi đến những tầng sâu thẳm kín nhiệm nhất. Tâm trí tôi được trao đổi với Chúa mà không phải thốt lên một lời nào. Tôi ý thức Chúa đang sống trong tôi, và tôi sống trong Người.

561      (30) Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy bức hình trong một nhà nguyện nhỏ, và lúc đó tôi lại thấy nhà nguyện ấy trở nên một đền thánh khang trang xinh đẹp. Trong đền thánh này, tôi nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa đang bồng Chúa Hài Nhi trên tay. Một lúc sau, Chúa Hài Nhi Giêsu biến mất khỏi tay Mẹ Người, và tôi thấy bức hình Chúa Giêsu chịu đóng đinh trở nên sống động. Mẹ Thiên Chúa dạy tôi hãy làm những điều trước kia Mẹ đã làm, và ngay cả khi vui tươi, tôi cũng phải luôn chăm chú nhìn lên thánh giá. Mẹ cho tôi biết các ơn Chúa đang ban cho tôi không phải vì một mình tôi, nhưng còn vì các linh hồn khác nữa.

562      Khi nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng trong thánh lễ, tôi thấy Người không phải lúc nào cũng như nhau: đôi khi Người rất vui tươi, nhưng đôi khi Người không thèm nhìn vào nhà nguyện nữa. Hiện nay, thường thì Người rất vui tươi khi cha giải tội [cha Sopocko] dâng thánh lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên vì Chúa Giêsu Hài Đồng yêu thương ngài nhiều đến thế. Đôi khi, tôi thấy Chúa mặc một chiếc áo khoác sặc sỡ. [19]

563      (31) Trước khi đến Vilnius và gặp vị linh mục giải tội này, tôi đã nhìn thấy ngài một lần trong một nhà thờ nhỏ kia, và gần đó là hội dòng này. [20] Tu viện có mười hai phòng: mỗi chị sống riêng biệt. Tôi nhìn thấy vị linh mục [cha Sopocko] đang giúp tôi sửa dọn tu viện, ngài là người vài năm sau tôi mới được gặp, nhưng tôi đã biết ngài trong một thị kiến. Tôi thấy ngài đang sắp đặt mọi sự trong tu viện hết sức cẩn trọng, với sự giúp đỡ của một linh mục khác [có lẽ cha Wantuchowski [21]] mà tôi chưa từng gặp qua. Tôi nhìn thấy chắn song sắt được phủ vải sẫm, và các nữ tu không phải ra ngoài để đến nhà thờ.

564      Vào ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, trong giờ thánh lễ, tôi nghe tiếng sột soạt của vải rồi nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa Rất Thánh với một vẻ xinh đẹp tuyệt trần. Mẹ mặc trang phục trắng, dây thắt lưng (32) màu thiên thanh. Mẹ phán với tôi:Con cho Mẹ một niềm vui lớn lao khi tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi vì [Người] đã ban cho Mẹ và các thánh ân và đặc ân.Sau đó, Mẹ liền biến đi.

Về đầu trang

Các Việc Đền Tội và Hãm Mình

565      Các việc hãm mình bề trong chiếm ưu tiên, nhưng ngoài ra, chúng ta còn phải nghiêm chỉnh thực hành các việc hãm mình bề ngoài mà ai cũng có thể làm được. Những việc này gồm: mỗi tuần ba ngày, thứ Tư, thứ Sáu, thứ Bảy, sẽ giữ chay ngặt; thứ Sáu hằng tuần, mọi chị em - ai ở phòng nấy - sẽ đánh tội [22] trong lúc đọc thánh vịnh 50, và mọi người sẽ làm việc này cùng lúc, tức là vào ba giờ chiều, để cầu cho các tội nhân đang hấp hối. Trong hai ngày giữ chay trọng, [23] các ngày tuần chay, [24] và các đêm canh thức, [25] thực phẩm chỉ gồm một miếng bánh mì và một ít nước lã, mỗi ngày chỉ dùng một bữa.

            Chớ gì mỗi chị em hãy cố gắng tuân giữ những việc khổ chế đã được quy định (33) cho mọi người. Nhưng nếu có ai muốn làm thêm, phải xin phép bề trên. Một việc hãm mình chung khác nữa là: không chị nào được phép vào phòng người khác khi không có phép đặc biệt của bề trên, nhưng bề trên thỉnh thoảng nên bất chợt vào phòng chị em, không phải để dò xét, nhưng trong tinh thần đức ái và theo trách nhiệm trước mặt Chúa. Không chị nào phải khoá bất cứ sự gì; luật dòng sẽ là khoá chung cho tất cả.

566      Một hôm, sau giờ hiệp lễ, tôi bỗng nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Nhi đang đứng gần bên và bám vào bàn quỳ của tôi bằng đôi tay nhỏ xíu của Người. Mặc dù Chúa chỉ là một con trẻ bé bỏng, nhưng linh hồn tôi đầy niềm kính sợ, vì tôi nhìn thấy Người là Thẩm Phán, là Thiên Chúa, và là Đấng Tạo Hoá của tôi, đến các thiên thần còn phải run sợ trước sự thánh thiện của Người. Nhưng đồng thời, linh hồn tôi cũng ngập lút một tình yêu khôn tả (34) đến độ tôi tưởng sẽ chết dưới tác động ấy. Giờ đây, tôi biết Chúa Giêsu trước tiên đã cho linh hồn tôi được mạnh sức và cho nó khả năng được sống bên Người, nếu không có lẽ tôi không thể chịu nổi kinh nghiệm như thế, dù chỉ một giây phút.

Tương Quan giữa Chị Em với Bề Trên

567      Mọi chị em phải tôn kính bề trên như chính Chúa Giêsu, như điều tôi đã đề cập khi nói về lời khấn vâng phục. Các chị em phải đối xử với bề trên trong niềm trẻ thơ tín thác, đừng bao giờ xầm xì hay chỉ trích các mệnh lệnh của ngài, vì điều này rất mất lòng Chúa. Chớ gì mỗi chị em đều được tinh thần đức tin hướng dẫn trong tương giao với các bề trên; chị em hãy đơn sơ xin ngài tất cả những thứ cần thiết. Xin Chúa đừng bao giờ để xảy ra hoặc tái diễn việc một chị em nên căn cớ làm cho bề trên phải buồn sầu hay khóc lóc. Mỗi người hãy biết rằng giới răn thứ bốn đòi buộc con cái phải tôn kính cha mẹ, cũng thế, tu sĩ buộc phải tôn kính bề trên của mình. Chỉ có tu sĩ hư hốt (35) mới mặc sức xét đoán bề trên. Chớ gì các chị em hãy thành thực với bề trên, trình bày cho ngài về mọi sự và về những nhu cầu của mình với lòng đơn sơ như con trẻ.

            Các nữ tu hãy xưng hô với bề trên như thế này: “Thưa chị Bề Trên, xin phép chị”. Đừng bao giờ hôn tay bề trên, nhưng mỗi khi gặp ngài nơi hành lang hoặc khi vào phòng ngài, chị em hãy chào bằng câu: “Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô”, và khẽ cúi đầu.

            Các nữ tu hãy xưng hô với nhau bằng “chị”, và thêm tên riêng sau đó. Sự tương giao giữa chị em với bề trên phải chứa đựng tinh thần đức tin chứ không phải cảm tình hoặc xu nịnh, vì những điều này bất xứng và hạ giá nữ tu rất nhiều. Một nữ tu phải tự do như một nữ hoàng, và chỉ có thể đạt được điều ấy nếu họ sống trong tinh thần đức tin. Chúng ta phải vâng lời và tôn kính bề trên, không phải vì ngài tốt lành, thánh thiện, hay khôn ngoan, nhưng chỉ vì ngài là đại diện Thiên Chúa, và vâng lời ngài là vâng lời chính Thiên Chúa.

            (36)      Tương Giao giữa Bề Trên với Chị Em

568      Bề trên phải trổi vượt về đức khiêm nhượng và đức ái đối với từng chị em mà không phân biệt. Ngài đừng để mình bị chi phối bởi những sở thích hoặc chán ghét, nhưng chỉ bởi tinh thần Chúa Kitô. Chớ gì ngài ý thức Thiên Chúa sẽ đòi ngài phải tính sổ về từng chị em. Ngài không nên dạy suông, nhưng tốt hơn hãy nêu cho chị em một gương sáng về đức khiêm nhượng và sự bỏ mình sâu xa; chính đây là bài học hiệu quả nhất ngài có thể trao lại cho các thuộc quyền. Ngài hãy nghiêm nghị nhưng đừng bao giờ khắt khe. Giả sử có phải trả lời cả trăm lần cho cùng một câu hỏi, thì ngài hãy làm với sự điềm tĩnh. Ngài hãy cố dự liệu các nhu cầu của chị em hơn là chờ đến khi họ đến xin của này thứ nọ, vì tâm tính người ta khác biệt nhau.

            Nếu nhận thấy một chị em buồn bã hay đau khổ, bề trên hãy cố hết sức giúp đỡ và an ủi. Ngài hãy cầu nguyện tha thiết và xin ánh sáng để (37) biết cách cư xử với từng chị em, vì mỗi linh hồn là một thế giới riêng biệt. Thiên Chúa có nhiều cách thế phong phú để giao tiếp với các linh hồn, những cách này thường vượt quá trí hiểu và phân biệt của chúng ta. Vì thế, bề trên hãy cẩn trọng đừng ngăn trở hoạt động của Thiên Chúa trong một linh hồn. Ngài đừng bao giờ quở trách chị em đang lúc nóng giận; tốt hơn, lời quở trách phải luôn được hoà lẫn trong lời khích lệ. Người được giúp đỡ sẽ thừa nhận và thấy ra lỗi lầm của họ mà không bị đay nghiến.

            Bề trên phải trổi vượt về đức ái đối với chị em và minh chứng điều này qua hành động. Ngài hãy cam nhận mọi gánh nặng để làm nhẹ bớt gánh nặng cho các chị em. Đừng đòi chị em phục vụ mình, nhưng hãy tôn trọng họ như những hiền thê của Chúa Giêsu, và luôn luôn sẵn sàng phục vụ họ, ngày cũng như đêm. Chớ gì ngài hãy nhờ vả hơn là ban lệnh. Tâm hồn của ngài hãy rộng mở trước những đau khổ của chị em, và chính ngài hãy chăm chú nhìn và học tập từ quyển sách rộng mở là Chúa Giêsu tử giá. Ngài hãy cầu nguyện tha thiết để xin ánh sáng, nhất là khi phải giải quyết một vấn đề hệ trọng nào đó (38) với một chị em. Ngài hãy cẩn phòng đừng can dự vào lương tâm chị em, vì một linh mục mới được ơn ấy. Nhưng nếu một chị em nào cảm thấy cần thổ lộ chuyện tâm hồn với bề trên, trong trường hợp này, bề trên có thể lắng nghe, nhưng buộc phải giữ kín, vì không có gì làm khổ một người cho bằng đem những điều họ tâm sự hoặc nói kín ra nói lại với người khác. Nữ giới thường rất yếu mềm về phương diện này; hiếm khi tìm được một người nữ có đầu óc nam nhi. Bề trên hãy nỗ lực đạt đến sự kết hợp sâu xa với Thiên Chúa, và để Thiên Chúa cai trị qua ngài. Đức Mẹ Rất Thánh chính là bề trên [26] của tu viện, còn chúng ta hãy là những người con tín trung của Đức Mẹ.

569                              Ngày 15 tháng 12 năm 1935

            Hôm nay, ngay từ sáng sớm, một sức mạnh lạ lùng thôi thúc tôi hành động, không cho tôi một phút giây ngơi nghỉ. Một trạng thái sốt sắng đã được hun đốt trong tâm hồn thúc bách hành động, và tôi không thể ngưng lại được. Đây là một cuộc tử đạo kín nhiệm chỉ mình Chúa biết, nguyện xin Người hãy xử (39) với tôi tuỳ ý; tâm hồn tôi xin sẵn sàng tất cả. Lạy Chúa Giêsu, Tôn Sư rất yêu dấu của con, xin đừng ruồng rẫy con dù chỉ một phút giây. Lạy Chúa Giêsu, Chúa quá biết chính sự yếu đuối của con đã bắt Chúa phải ở cùng con luôn mãi.

570      Vào một dịp kia, tại nhà kính, tôi thấy Chúa Giêsu trong trang phục trắng. [Người phán bảo tôi] Con hãy ghi chép những điều Cha nói với con. Niềm vui sướng của Cha là được kết hợp với các con. Với lòng khao khát sâu xa, Cha chờ đợi và mong mỏi giờ phút được đến ngụ cư một cách nhiệm tích trong tu viện của các con. Tâm trí Cha sẽ nghỉ ngơi trong tu viện ấy, và Cha sẽ chúc lành cho vùng lân cận một cách đặc biệt. Vì yêu thương các con hết thảy, Cha sẽ chuyển đổi những hình phạt được nghiêm xử theo phép công thẳng của Chúa Cha. Hỡi ái nữ của Cha, Cha đã chiều lòng theo những lời kêu nài của con. Công việc và nhiệm vụ của con ở đời này là nài xin Lòng Thương Xót cho (40) toàn thế giới. Không một linh hồn nào sẽ được công chính hoá trước khi quay về với Lòng Thương Xót Cha trong niềm tín thác, đó là lý do Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh sẽ là đại lễ kính Lòng Thương Xót Cha. Trong ngày đó, các linh mục hãy nói cho mọi người về Lòng Thương Xót vĩ đại khôn dò của Cha. Cha đang làm cho con trở nên thừa tác viên Lòng Thương Xót của Cha. Con hãy cho cha giải tội biết rằng bức hình phải được trưng bày công khai trong Giáo Hội chứ không phải chỉ trong nội vi tu viện. Qua bức hình, Cha sẽ ban nhiều ân sủng cho các linh hồn; vậy hãy để mọi người đến được với bức hình ấy.

571      Lạy Chúa Giêsu của con, Chân Lý Hằng Hữu, con không sợ hãi, dù gian truân hay khổ ải; con chỉ lo sợ một điều, đó là xúc phạm đến Chúa. Lạy Chúa Giêsu của con, con thà không được hiện hữu trên đời còn hơn là làm cho Chúa phải buồn. Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết tình yêu của con chẳng dành cho ai khác, ngoài một mình Chúa. Linh hồn con đắm đuối trong Chúa.

572      (41) Ôi, lòng sốt sắng của mọi linh hồn sống trong tu viện ấy phải lớn lao biết bao, vì Thiên Chúa ước muốn ngự đến và sống với chúng ta! Chớ gì mọi người hãy nhớ rằng, là những nữ tu mà chúng ta không cầu nguyện trước Thiên Chúa, thì còn ai sẽ làm? Mỗi người chúng ta hãy bừng cháy như một của lễ tinh tuyền trước uy nhan Chúa, nhưng để đẹp lòng Chúa, mỗi người hãy kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chỉ với Người, trong Người, và nhờ Người, chúng ta mới có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa.

573                              Ngày 21 tháng 12 năm 1935

            Một ngày kia, cha giải tội [cha Sopocko] bảo tôi đi coi một ngôi nhà kia xem có đúng là ngôi nhà tôi đã được thấy trong thị kiến hay không. Khi cùng ngài đến xem ngôi nhà, hay đúng hơn là những đống hoang tàn, vừa nhìn thấy, tôi đã nhận ra đúng là ngôi nhà tôi đã thấy trong thị kiến. Lúc tôi chạm vào những mảnh gỗ được đóng ghép vào nhau thay thế các cánh cửa, một sức mạnh như tia chớp đã thâm nhập linh hồn tôi, đem đến cho tôi một (42) niềm thâm tín không lay chuyển. Tôi nhanh chóng rời khỏi ngôi nhà, lòng đầy hân hoan, dường như có một sức mạnh nào đó ràng buộc tôi với nơi ấy.

            Tôi rất hạnh phúc khi thấy mọi sự đều hoàn toàn trùng khớp với những gì tôi đã thấy trong thị kiến. Khi cha giải tội bàn với tôi về việc sắp đặt các phòng và những điều khác, tôi nhận thấy mọi sự đều tương tự như Chúa Giêsu đã phán bảo trước với tôi. Tôi vui sướng vì Thiên Chúa đang hoạt động qua cha giải tội của tôi, nhưng không ngạc nhiên vì Thiên Chúa ban cho ngài quá nhiều ánh sáng như vậy. Thiên Chúa chính là Ánh Sáng, Người sống trong một tâm hồn thanh sạch và khiêm nhượng, mọi đau khổ và chống đối chỉ làm sáng tỏ sự thánh thiện của linh hồn ấy hơn mà thôi. Lúc về đến nhà, tôi liền ghé vào nhà nguyện để nghỉ ngơi một lúc. Khi ấy, bỗng nhiên tôi nghe lời này trong linh hồn: Con đừng sợ hãi gì cả. Cha ở với con. Những vấn đề này nằm trong bàn tay Cha, và Cha sẽ đưa đến thành quả theo Lòng Thương Xót của Cha, vì không gì có thể đối nghịch với thánh ý Cha.

(43)                  Vọng Giáng Sinh, năm 1935

574      Ngay từ sáng sớm, thần trí tôi đã đắm chìm trong Thiên Chúa. Sự hiện diện của Người thấu suốt hữu thể tôi. Đến tối, trước giờ dùng bữa, tôi lên nhà nguyện một phút để - dưới chân Chúa Giêsu - bẻ bánh với những người xa cách, những người Chúa Giêsu hết lòng yêu thương và tôi vẫn thọ ơn sâu đậm. Ngay khi vừa bẻ bánh trong tinh thần với một vị kia [có lẽ là cha Sopocko], tôi nghe những lời này trong lòng: Tâm hồn ngài là một thiên đàng cho Cha trên trần gian. Khi tôi ra khỏi nhà nguyện, ngay lập tức quyền toàn năng của Thiên Chúa bao phủ tôi. Tôi hiểu Thiên Chúa hết sức yêu thương chúng ta. Ôi, ít là người ta thấu đáo và hiểu ra điều này được phần nào!

                                                Giáng Sinh

575      Thánh lễ nửa đêm. Trong giờ thánh lễ, tôi lại được nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng bé nhỏ, cực kỳ xinh đẹp, vui vẻ đưa đôi tay nhỏ xíu của Người cho tôi. (44) Sau hiệp lễ, tôi được nghe những lời này: Cha luôn ở trong tâm hồn con; không những khi con tiếp đón Cha khi hiệp lễ, mà còn luôn mãi. Tôi đã sống những ngày lễ này trong niềm vui bao la.

576      Lạy Ba Ngôi chí thánh, Thiên Chúa Hằng Hữu, tâm trí con đắm say trong vẻ xinh đẹp của Chúa. Những thời đại chẳng là gì trước mắt Chúa. Chúa mãi mãi vẫn vĩnh tồn. Ôi, vĩ đại thay uy nghi của Chúa. Lạy Chúa Giêsu, sao Chúa lại che giấu uy nghi của Chúa, sao Chúa lại bỏ thánh ngai trên thiên đàng của Chúa đến cư ngụ giữa chúng con? Chúa đã trả lời tôi: Hỡi ái nữ của Cha, tình yêu đã kéo Cha xuống đây, và tình yêu vẫn giữ Cha lại đây. Ái nữ của Cha ơi, nếu con biết được một hành vi mến yêu tinh ròng dâng cho Cha sẽ mang lại công trạng và phần thưởng thế nào, có lẽ con sẽ chết vì vui mừng. Cha nói điều này để con được liên lỉ kết hợp với Cha bằng tình yêu, bởi vì đó là mục đích cuộc sống của linh hồn con. Hành vi này là một hành vi của ý chí. Con hãy biết rằng một linh hồn thanh khiết là một linh hồn khiêm nhượng. (45) Khi con tự hạ và trút rỗng mình ra trước uy nghi Cha, Cha sẽ đổ đầy cho con những ân sủng của Cha và dùng quyền toàn năng của Cha để nâng con lên.

577      Một lần kia, khi cha giải tội bảo tôi đọc kinh Lạy Cha để đền tội, tôi đã mất quá nhiều thời gian; tôi bắt đầu đi bắt đầu lại nhiều lần, nhưng không sao đọc xong được, bởi vì tâm trí tôi được kết hợp với Thiên Chúa và không thể dõi theo lời kinh. Rất thường xuyên như thế, tôi bất chợt được bao phủ bởi quyền năng Thiên Chúa và đắm đuối trong tình yêu của Người, và khi ấy tôi không còn biết những gì đang xảy ra chung quanh. Khi tôi thưa cha giải tội rằng kinh nguyện này thường làm mất nhiều thời giờ của tôi và thậm chí nhiều khi tôi cũng không sao đọc xong được, ngài bảo tôi hãy đọc ngay trong toà giải tội. Tuy nhiên, tâm trí tôi đắm chìm trong Thiên Chúa, và mặc dù cố gắng tôi cũng không thể suy tưởng được như ý mình. Và thế là cha giải tội bảo tôi: “Vậy chị hãy đọc theo tôi”. (46) Tôi lặp lại từng chữ, nhưng trong khi đang đọc từng chữ một, tâm trí tôi lại đắm đuối trong chính Đấng mà tôi đang kêu cầu thánh danh.

578      Trong một dịp khác, Chúa Giêsu cho tôi biết về một vị linh mục kia [có lẽ cha Sopocko], mà năm tháng hiện giờ sẽ trở thành triều thiên cho đời sống linh mục của ngài. Những ngày đau khổ dường như bao giờ cũng dài hơn nhưng rồi thế nào cũng trôi qua, mặc dù chúng trôi lững lờ như thể đang đi lùi. Tuy nhiên, cùng tận của chúng đã gần kề, rồi sau đó là niềm vui bất tận không thể tưởng tượng. Muôn đời! Ai có thể hiểu được chữ này, một chữ xuất phát từ Thiên Chúa, lạy Chúa vô cùng, chỉ một chữ mà thôi: muôn đời!

579      Tôi biết những hồng ân Chúa ban cho tôi cũng thường dành riêng cho một số linh hồn nào đó. Ý thức điều này làm tôi tràn đầy vui sướng; tôi luôn luôn vui mừng về sự lành của các linh mục như của chính mình.

580      (47) Vào một dịp kia, Chúa phán bảo tôi: Cha bị đả thương đau đớn vì những bất toàn nhỏ mọn của các linh hồn ưu tuyển hơn là vì tội lỗi của những người sống ngoài thế gian. Điều này khiến tôi rất buồn vì các linh hồn ưu tuyển mà cũng làm Chúa Giêsu phải đau khổ. Chúa phán bảo tôi: Những bất toàn nhỏ mọn này chưa phải là tất cả đâu. Cha sẽ tỏ cho con một bí mật của Trái Tim Cha: những điều Cha phải thống khổ vì các linh hồn ưu tuyển. Thái độ bội bạc trước vô số hồng ân chính là của ăn thường xuyên của Trái Tim Cha phải chịu đối với một linh hồn như thế. Tình yêu của họ hâm hâm dở dở, và Trái Tim Cha không sao chịu được; những linh hồn này cưỡng ép Cha phải loại bỏ họ. Những kẻ khác thì hoài nghi lòng nhân lành của Cha và không thèm cảm hưởng tình thân ngọt ngào trong tâm hồn họ, họ đi tìm Cha ở tận xa vời và không tìm thấy Cha. Việc họ ngờ vực lòng nhân lành của Cha khiến Cha rất đớn đau. Nếu cái chết của Cha vẫn chưa làm các con chịu tin vào tình yêu Cha, thế thì còn gì nữa? Thường có linh hồn gây vết thương chí mạng cho Cha, thế mà có ai an ủi Cha đâu. (48) Họ sử dụng ân sủng Cha ban để xúc phạm đến Cha. Có những linh hồn khinh dể những ân thánh và bằng chứng tình yêu của Cha. Họ không muốn nghe lời mời gọi của Cha, nhưng tiếp tục lao xuống vực thẳm hoả ngục. Sự hư mất của các linh hồn này đẩy Cha vào một nỗi phiền sầu đến chết. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Cha không thể giúp đỡ một linh hồn như thế, vì họ khinh dể Cha; họ có ý chí tự do, nên có thể khinh bỉ hoặc yêu mến Cha. Còn con, con là thừa tác viên quảng phát Lòng Thương Xót của Cha, con hãy nói cho toàn thế giới về lòng nhân lành của Cha, và như vậy, con sẽ an ủi Trái Tim Cha.

581      Cha sẽ cho con biết nhiều hơn khi con tâm sự với Cha trong thẳm sâu linh hồn. Ở đó, không ai có thể quấy rối những hành động của Cha. Ở đó, Cha nghỉ ngơi như trong khu vườn rào kín.

582      Nội tâm linh hồn tôi như một thế giới bao la huy hoàng, chỉ có Thiên Chúa và tôi sống ở đó. Ngoại trừ Thiên Chúa, không ai được phép vào trong đó. Lúc khởi đầu cuộc sống với Chúa, (49) tôi bị choáng ngợp và sợ hãi. Sự chói chang của Chúa khiến tôi bị mù, và tôi tưởng Người không ở trong tâm hồn tôi; tuy nhiên, đó lại là những giờ phút Thiên Chúa đang hoạt động trong linh hồn tôi. Tình yêu ngày càng trở nên tinh ròng mạnh mẽ hơn và Thiên Chúa đã đưa ý chí tôi đến chỗ kết hợp thắm thiết hơn với thánh ý Người. Không ai sẽ hiểu được những gì tôi trải nghiệm trong lâu đài tráng lệ linh hồn tôi, nơi tôi được liên lỉ chung sống với Người Dấu Yêu của tôi. Không vật ngoại lai nào cản trở được sự kết hợp giữa tôi với Người. Cho dù tôi có dùng những lời mạnh mẽ nhất đi nữa, chúng cũng chẳng diễn tả được một chút việc linh hồn tôi hân hoan trong hạnh phúc và tình yêu khôn xiết, vĩ đại và tinh tấn như dòng suối trào tuôn là chính Thiên Chúa. Tâm trí tôi được ngập tràn Thiên Chúa đến độ thể xác cũng cảm nhận được, và được chia sẻ những niềm hoan lạc này. Mặc dù Thiên Chúa có những cách tiếp xúc khác nhau với cùng một linh hồn, tuy nhiên, tất cả đều phát nguyên từ một nguồn mạch.

583      (50) Vào một dịp nọ, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu khát lả, và Người phán với tôi: Cha khát. Khi tôi dâng nước cho Chúa, Người cầm lấy nhưng không uống và liền biến đi. Trang phục của Chúa giống như trong hồi Thương Khó.

584      Khi con suy nghĩ về những điều Cha cho con biết từ nơi thẳm sâu tâm hồn con sẽ được nhiều lợi ích hơn là khi đọc nhiều sách vở. Ôi, nếu các linh hồn muốn lắng nghe tiếng Cha nói trong nơi sâu thẳm tâm hồn, họ sẽ đạt đến đỉnh cao trọn lành trong một thời gian chóng vánh.

Về đầu trang

585                              Ngày 8 tháng 1 năm 1936

            Khi đến gặp Đức Tổng Giám mục [Jalbrzykowski], tôi thưa với ngài rằng Chúa Giêsu yêu cầu tôi hãy khẩn cầu Lòng Thương Xót Chúa cho thế giới, và Người còn muốn có một hội dòng để cầu khẩn Lòng Thương Xót cho thế giới. Tôi xin ngài ban phép cho tất cả những điều Chúa Giêsu đang yêu cầu tôi. Đức Tổng Giám mục (51) đáp rằng: “Này chị, về vấn đề cầu nguyện, tôi ban phép và thậm chí còn khuyến khích chị hãy cầu nguyện hết sức cho thế giới, và khẩn nài Lòng Thương Xót Chúa, vì Lòng Thương Xót Chúa là điều tất cả chúng ta đều cần thiết. Và tôi tin rằng cha giải tội của chị chắc chắn cũng không cấm chị cầu nguyện với ý chỉ này. Nhưng này chị, về vấn đề hội dòng mới, chị hãy chờ đợi một thời gian nữa để mọi sự có thể thuận lợi hơn. Điều này tự nó là tốt, nhưng không cần phải vội vàng. Nếu đó là thánh ý Thiên Chúa thì sẽ được thực hiện, dủ sớm hoặc muộn hơn một chút. Tại sao lại không được nhỉ? Hiện đã có nhiều hội dòng khác nhau: hội dòng này cũng sẽ ra đời nếu Thiên Chúa muốn như vậy. Chị hãy hoàn toàn an tâm. Chúa Giêsu có thể làm được mọi sự. Chị hãy nỗ lực sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa và đừng nản lòng”. Những lời này làm tôi ngập tràn niềm vui.

586      Khi tôi rời Toà Tổng Giám mục, tôi được nghe những lời này trong linh hồn: Để củng cố tâm trí con, (52) Cha nói qua các vị đại diện của Cha phù hợp với những gì Cha đòi hỏi con, nhưng con hãy biết rằng điều này sẽ không phải luôn luôn như vậy đâu. Người ta sẽ chống đối con trong nhiều việc, và qua đó ân sủng Cha sẽ tỏ hiện nơi con, và đó là bằng chứng hiển nhiên cho thấy vấn đề này chính là hoạt động của Cha. Riêng với con, con đừng sợ gì hết; Cha luôn ở với con. Hỡi ái nữ của Cha, con hãy biết điều này: mọi thụ tạo, dù biết hay không biết, dù muốn hay không muốn, họ luôn luôn làm trọn thánh ý của Cha.

587      Một lần kia, tôi bỗng nhiên nhìn thấy Chúa Giêsu trong uy linh cao trọng, và Người phán những lời này với tôi: Hỡi ái nữ của Cha, nếu con muốn, Cha sẽ lập tức tạo thành một thế giới mới, xinh đẹp hơn thế giới này, và con sẽ sống suốt cuộc đời còn lại của con ở đó. Tôi liền thưa lại: “Con không muốn một thế giới nào hết. Con chỉ muốn Chúa, lạy Chúa Giêsu. Con muốn mến yêu Chúa, bằng chính tình yêu Chúa đã mến thương con. Con chỉ khẩn nài Chúa một điều: xin ban cho trái tim con khả năng mến yêu Chúa. (53) Con rất ngạc nhiên về đề nghị của Chúa, lạy Chúa Giêsu của con; những thế giới này có là gì với con đâu? Cho dù Chúa ban cho con một ngàn thế giới đi nữa, chúng có là gì với con đâu? Lạy Chúa Giêsu, Chúa quá biết trái tim con đang mòn mỏi khát mong Chúa. Tất cả những gì không phải là Chúa đều chẳng là gì với con cả”. Vào lúc ấy, tôi không còn thấy gì nữa, nhưng một sức mạnh lạ lùng xâm chiếm linh hồn tôi, một ngọn lửa kỳ diệu bừng lên trong tâm hồn tôi, và tôi chịu một cơn hấp hối vì Chúa. Khi ấy tôi nghe những lời này: Cha không kết hợp với linh hồn nào mật thiết như với con và như cách Cha đang làm với con, đó là vì lòng khiêm nhượng sâu xa và lòng mến nồng nàn con dành cho Cha.

588      Vào một dịp kia, tôi được nghe những lời này trong mình: Mỗi cái động của trái tim con Cha đều biết hết. Hỡi ái nữ của Cha, con hãy biết rằng một ánh mắt của con hướng về một người khác sẽ gây ra thương tích cho Cha (54) hơn là nhiều tội lỗi của một người khác.

589      Tình yêu xua trừ sợ hãi. Vì tôi đã đến được chỗ mến yêu Thiên Chúa bằng tất cả hữu thể và tất cả sức mạnh của tâm hồn, nên nỗi sợ hãi đã xa lánh tôi. Giả như có nghe thấy những điều đáng sợ về phép công thẳng của Thiên Chúa, có lẽ tôi cũng không sợ hãi chút nào, vì tôi rất hiểu Người. Thiên Chúa là tình yêu, và Thần Khí của Người là an bình. Giờ đây, tôi thấy các việc tôi đã làm vì tình yêu thì trọn lành hơn các việc tôi đã làm vì sợ hãi. Tôi phó thác toàn thân cho thánh ý Chúa; xin Người hãy dùng tôi tuỳ ý, và tôi vẫn yêu mến Người.

590      Khi hiệp lễ, tôi kêu nài và khẩn xin Đấng Cứu Thế chữa lành lưỡi tôi, để tôi đừng lỗi đức ái với người lân cận.

591      (55) Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết con tha thiết ước ao được ẩn mình đi để đừng ai còn biết đến con nữa, ngoài trừ Trái Tim rất dịu dàng của Chúa. Con muốn là một nụ hoa đổng thảo bé mọn, ẩn mình giữa bụi cỏ, vô danh giữa một khu vườn lộng lẫy rào kín, trong đó có những bông huệ và bông hồng xinh đẹp. Người ta có thể nhận ra bông hồng xinh đẹp và bông huệ khả ái từ xa, nhưng để nhìn thấy một bông hoa đổng thảo bé bỏng, người ta phải cúi mình xuống; chỉ có hương thơm của nó là ngát bay. Ôi, hạnh phúc biết bao nếu con có thể ẩn mình như thế! Ôi Đấng Lang Quân thần linh của con, bông hoa tâm hồn con và hương thơm tình yêu trong sạch của con đều là cho Chúa. Linh hồn con đắm đuối trong Chúa, ôi Thiên Chúa Hằng Hữu. Kể từ phút giây Chúa lôi cuốn con đến với Chúa, ôi Chúa Giêsu, càng hiểu biết Chúa, con càng tha thiết khát khao Chúa.

592      Trong Trái Tim Chúa Giêsu, tôi đã biết rằng giữa thiên đàng còn có một thiên đàng khác, không phải cho tất cả, nhưng chỉ các linh hồn ưu tuyển mới được vào. Hạnh phúc vô biên cho linh hồn nào được ngụp lặn trong đó. Ôi Thiên Chúa của con, con làm sao diễn tả được điều này, dù chỉ trong một mức độ sơ sài nhất. (56) Các linh hồn được thần tính Chúa thấu nhập, và chuyển đi từ ánh sáng này đến ánh sáng khác, ánh sáng bất biến, không bao giờ đơn điệu, luôn luôn tân kỳ mặc dù bất biến. Ôi Thiên Chúa Ba Ngôi, xin Chúa tỏ mình Chúa cho các linh hồn!

593      Lạy Chúa Giêsu của con, không gì tốt hơn cho một linh hồn bằng những sỉ nhục. Trong sự khinh dể có bí quyết hạnh phúc khi linh hồn nhận thực rằng tự mình, họ chỉ là sự xấu xa và hư vô, còn những gì tốt đẹp nơi họ đều là tặng ân Thiên Chúa. Khi linh hồn nhìn thấy mọi sự đều được ban nhưng không, và từ mình, linh hồn chỉ có sự khốn nạn, thì đó là sức nâng đỡ cho linh hồn trong hành vi liên lỉ sấp mình trước uy nghi Thiên Chúa. Khi nhìn thấy linh hồn trong tâm tình ấy, Thiên Chúa sẽ đeo bám họ bằng những ân sủng của Người. Linh hồn tiếp tục dìm mình sâu hơn trong vực thẳm hư vô và nhu cầu của họ và Thiên Chúa dùng quyền toàn năng của Người để nâng linh hồn ấy lên. Nếu có một linh hồn thực sự hạnh phúc trên trần gian này, thì chỉ có thể (57) đó là linh hồn khiêm nhượng. Lúc đầu, tính tự ái sẽ phải đau đớn vì điều này, nhưng sau khi linh hồn đã chiến đấu can trường, Thiên Chúa sẽ ban nhiều ánh sáng cho họ nhìn thấy mọi sự đều xấu xa và giả dối. Chỉ còn một mình Thiên Chúa trong lòng họ. Một linh hồn khiêm nhượng không tự tín, nhưng đặt tất cả sự tín thác của họ nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa bảo vệ linh hồn khiêm nhượng và tỏ cho họ những bí nhiệm, linh hồn được sống trong niềm hạnh phúc tràn ngập mà không ai có thể hiểu được.

594      Một tối kia, một người chị em đã qua đời, người trước kia đã từng viếng thăm tôi một vài lần, hiện đến với tôi. Lần đầu tiên khi tôi gặp chị, chị rất đau đớn, và dần dần những đau đớn này được giảm bớt; lần này, chị rạng rỡ trong hạnh phúc và cho tôi biết chị đã về thiên đàng. Chị cho tôi biết Thiên Chúa đã thử thách (58) nhà dòng chúng tôi vì Mẹ Tổng Quyền [Michael] đã ngã theo những ngờ vực và không tin những điều tôi đã trình cho Mẹ về linh hồn này. Hơn nữa, như một bảo chứng về việc chị hiện giờ đã ở trên thiên đàng, Thiên Chúa sẽ chúc lành cho nhà dòng chúng tôi. Sau đó, chị đến gần bên và ôm hôn tôi một cách chân tình rồi chào: “Bây giờ, em phải ra đi”. Tôi hiểu được ba trạng thái của cuộc sống một linh hồn rất gắn bó với nhau; tức là cuộc sống ở trần gian, dưới luyện ngục, và trên thiên đàng [các thánh thông công].

595      Tôi đã nhiều lần nhận thấy Thiên Chúa thử thách một số người về những điều mà Người đã tỏ cho tôi, vì thái độ hoài nghi làm phiền lòng Chúa Giêsu. Một lần kia, thấy Thiên Chúa đã thử thách Đức Tổng Giám mục [Jalbrzykowski] vì ngài chống đối và ngờ vực về công cuộc, tôi cảm thấy hối tiếc và nài xin Chúa và Người đã giảm bớt đau khổ cho ngài. Thiên Chúa rất buồn phiền về thái độ thiếu tin tưởng vào Người, và vì thế một số linh hồn đã đánh mất nhiều ân sủng. Sự ngờ vực (59) gây đau khổ cho Trái Tim Chúa Giêsu vô cùng nhân lành và yêu thương chúng ta. Một linh mục đôi khi cũng nên hoài nghi để xác minh tốt hơn tính cách xác thực các ân huệ được ban cho một linh hồn; nếu ngài làm như thế cốt đưa linh hồn đến chỗ kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa, ngài sẽ được một phần thưởng cao trọng khôn tả. Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa điều này với thái độ khinh dể và nghi ngờ các ơn thánh nơi một linh hồn đơn thuần chỉ vì không thể thấu hiểu hoặc cậy vào trí khôn để dò xét những vấn đề; thái độ sau này làm mất lòng Chúa. Tôi rất thương hại cho những linh hồn gặp phải các linh mục thiếu kinh nghiệm.

596      Một lần kia, một linh mục [cha Sopocko [27]] xin tôi cầu nguyện cho ngài. Tôi hứa cầu nguyện và xin phép ngài để được thực hiện một hành vi khổ chế. Khi được phép (60) rồi, tôi ước mong nhường hết những ân sủng lòng nhân lành Chúa muốn ban cho tôi trong ngày hôm ấy cho vị linh mục, và tôi nài xin Chúa Giêsu đoái thương trút xuống mình tôi tất cả những đau khổ cực hình trong ngoài mà lẽ ra vị linh mục sẽ phải lãnh nhận trong ngày hôm ấy. Chúa đã đáp ứng phần nào lời xin của tôi. Tức thì mọi thứ khó khăn và chống đối không biết từ đâu thình lình ập tới nhiều đến nỗi một chị đã nhận định Chúa Giêsu đã phải nhúng vào, vì mọi người đều làm khó dễ tôi. Những lời tố cáo hoàn toàn vô căn cứ đến độ những điều các chị này trưng ra thì các chị khác lại phủ nhận, còn tôi hiến mình chịu đựng tất cả trong im lặng để cầu nguyện cho vị linh mục.

            Nhưng như thế vẫn chưa hết; tôi bắt đầu cảm nghiệm những đau khổ nội tâm. Lúc đầu, tôi bị đè bẹp dưới cơn buồn nản và nẩy sinh ác cảm với các chị em, sau đó một tâm trạng bấp bênh (61) làm tôi rất khổ sở. Tôi không sao cầm trí được trong giờ cầu nguyện, nhiều chuyện đâu đâu chi phối đầu óc tôi. Khi đã mệt nhoài, tôi vào nhà nguyện, thế rồi một nỗi đau đớn kỳ lạ xâm chiếm linh hồn khiến tôi bật khóc tấm tức. Bấy giờ, tôi nghe một tiếng nói trong linh hồn: Kìa ái nữ của Cha, sao con lại khóc? Dù sao con cũng đã hiến mình đón nhận những đau khổ này mà. Con hãy biết những gì con đang gánh chịu thay cho linh hồn kia chỉ mới là một phần nhỏ mà thôi. Ngài còn đau khổ hơn con rất nhiều. Tôi liền thưa với Chúa: “Sao Chúa lại xử với ngài như vậy?”. Chúa cho tôi biết những đau khổ ấy đem lại ba triều thiên cho ngài: triều thiên trinh khiết, triều thiên linh mục, và triều thiên tử đạo. Lúc ấy, một niềm hoan hỉ vô bờ dạt dào linh hồn tôi khi thấy vinh quang cao vời đang chờ đón ngài trên thiên quốc. Ngay lúc đó, tôi cất tiếng hát kinh Te Deum [28] để tạ ơn Chúa vì hồng ân đặc biệt này; tức là được biết cách Chúa đối xử với những linh hồn được tuyển chọn để sống mật thiết với Người. Như thế, mọi đau khổ đều chẳng là gì khi sánh với những điều đang chờ đợi chúng ta trên thiên đàng.

597      (62) Một hôm, sau thánh lễ, tôi bỗng nhiên nhìn thấy cha giải tội [cha Sopocko] đang dâng lễ trước bức hình Mẹ Thiên Chúa tại nhà thờ thánh Micae. Lúc ấy đang giờ dâng lễ vật, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng bám chặt vào cha như đang chạy trốn điều gì và đến nương náu nơi Cha. Đến giờ hiệp lễ, Chúa biến đi như thường lệ. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa dùng áo choàng che chở cho cha và nói: Hãy can đảm lên, con Mẹ, can đảm lên. Mẹ còn nói điều gì nữa mà tôi không nghe thấy.

598      Ôi, tôi tha thiết khát mong mọi linh hồn đều ca ngợi Lòng Thương Xót Chúa. Hạnh phúc cho linh hồn nào kêu cầu Lòng Thương Xót Chúa. Họ sẽ thấy Chúa bảo bọc họ như vinh quang riêng của Người như chính Người đã phán. Ai dám chống lại Thiên Chúa? Hỡi tất cả các linh hồn, hãy ca tụng Lòng Thương Xót Chúa (63) bằng cách suốt đời tin tưởng vào Lòng Thương Xót ấy, nhất là trong giờ lâm tử. Hỡi linh hồn dấu yêu, đừng sợ hãi, cho dù bạn là ai. Lạy Chúa, tội nhân càng khốn nạn, càng được quyền lớn lao đối với Lòng Thương Xót Chúa. Ôi Đấng Chí Thiện vô song ! Thiên Chúa đã cúi mình xuống với tội nhân trước. Ôi Chúa Giêsu, con ước ao tán dương Lòng Thương Xót Chúa thay cho muôn vàn linh hồn. Ôi Chúa Giêsu của con, con biết rõ mình sẽ phải nói mãi cho các linh hồn về lòng nhân lành Chúa, về Lòng Thương Xót khôn lường của Chúa.

599      Vào một dịp kia, khi có người xin tôi cầu nguyện, tôi được gặp Chúa và thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con đặc biệt yêu mến những linh hồn được Chúa yêu thương”. Và Chúa Giêsu đáp lại: Còn Cha, Cha ban những ơn đặc biệt cho những linh hồn được con cầu nguyện.

600      Chúa Giêsu bảo vệ tôi một cách kỳ diệu; thực vậy, đó là một hồng ân đặc biệt Chúa ban mà tôi đã được cảm nghiệm từ lâu nay.

Về đầu trang

[1] Kỳ tĩnh tâm ba ngày từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 8 năm 1938 được tổ chức tại Vilnius do cha Rzyczkowski, dòng Tên giảng phòng, sau này ngài trở thành giám tỉnh dòng Tên miền Bắc Ba Lan có trụ sở tại Warsaw.

[2] Đức Tổng Giám mục Vilnius lúc bấy giờ là Đức Cha Romuald Jalbrzykowski (1876-1955). Ngài tốt nghiệp chủng viện Petersburg (1898-1902), và được thụ phong linh mục năm 1901. Ngài trở thành giáo sư chủng viện và kinh sĩ ở Sejny. Trong thời kỳ Thế Chiến I, ngài chuyển đến Minsk và thi hành các công tác mục vụ, giáo dục, và xã hội rất tích cực. Sau nhiều năm lưu lạc, ngài trở về Sejny năm 1917. Được vinh thăng giám mục năm 1918, ngài làm giám mục phụ tá đảm trách phần bên lãnh thổ Ba Lan của giáo phận Sejny. Từ năm 1921, ngài là đại diện tông toà, và năm 1926, là giám mục bản quyền đầu tiên của giáo phận Lomza mới được thiết lập. Khi Đức Tổng Giám mục Jan Cieplak của Tổng giáo phận Vilnius từ trần, ngài đã coi sóc giáo phận này từ ngày 8 tháng 9 năm 1926. Ngày 13 tháng 3 năm 1940, ngài bị Đức Quốc Xã bắt và giam giữ tại các đan viện các cha dòng Đức Bà ở Mariampol tại Lithuania. Ngài trở về Vilnius ngày 5 tháng 8 năm 1944. Tháng 12 năm ấy, ngài lại bị bắt và bị giam tại Vilnius. Khi Thế Chiến II kết thúc, ngài chuyển về Bialystok và dành trọn sức lực cho việc tổ chức giáo phủ Tổng giáo phận này, chỉ định các linh mục cho các giáo xứ và giải quyết nhiều vấn đề cần thiết khác.

Trong tương giao với người khác, Đức Tổng Giám mục Jalbrzykowski rất bình dị, dễ gần, thông cảm và kiên nhẫn. Nhưng ngài lại rất nghiêm khắc với bản thân. Ngài qua đời tại Bialystok ngày 19 tháng 6 năm 1955.

[3] Cha Sopocko cho in chuỗi kinh Thương Xót như trong Nhật Ký của nữ tu Faustina vào phía lưng tấm hình (in lại bức hình do hoạ sĩ Kazimierowski vẽ ở Vilnius) và nhờ nhà xuất bản Cebulski tại Cracow phát hành (x. Các thư, # 75, 87-90).

[4] Vì không dám chắc về những soi động của chị Faustina về việc thành lập cộng đoàn mới, cha Sopocko muốn chuyển vấn đề sang một linh mục khác. Ngài bảo chị Faustina trình bày tất cả những mệnh lệnh chị đã nhận được cho cha giải tội trước kia của chị là cha Andrasz dòng Tên tại Cracow.

[5] Dòng Đức Mẹ Nhân Lành có một nghĩa trang tại Cracow, trong một thửa đất, và được phân cách với phần còn lại bằng một bức tường dày với một chiếc cổng lớn. Tất cả các nữ tu và người nội trú qua đời tại Cracow được mai táng ở đây. Thi hài của chị thánh Faustina được mai táng tại đây cho đến khi được cải táng vào ngày 25 tháng 11 năm 1966.

[6] Nữ tu Vitalina Maslowska sinh ngày 4 tháng 12 năm 1852, và qua đời ngày 6 tháng 1 năm 1939.

[7] Trong những lần gặp hằng tháng với bề trên, các nữ tu xin phép đọc thêm các kinh nguyện tư không có trong luật dòng (x. 72).

[8] Trong dòng Đức Mẹ Nhân Lành không có thói quen thêm tên hiệu vào tên thánh. Nhưng các nữ tu có thể tự thêm vào tuỳ lòng sốt sắng cá nhân, chẳng hạn như chị Faustina đã thêm “phép Thánh Thể” vào tên của mình.

[9] Trong phòng ăn của các nữ tu, có một bảng thông cáo ghi tên các nữ tu được bề trên cắt đặt vào các công tác trong tuần. Trong trường hợp này, có ý chỉ về công tác coi cổng trong giờ ăn chung của cộng đoàn.

[10] Trong hiến pháp cũ, danh xưng “Mẹ” được dành cho các nữ tu trong hội đồng cố vấn của hội dòng và tất cả các vị bề trên tu viện. Các người nội trú cũng gọi nữ tu phụ trách mình với danh xưng ấy.

[11] Thỉnh viện là thời gian thử thách đầu tiên trong dòng. Trong thời gian này, chí nguyện sinh tìm hiểu về hội dòng mà họ muốn trở thành một phần tử, và tương tự, hội dòng cũng hiểu biết hơn về đương sự.

[12] Sau thời gian thỉnh viện, chí nguyện sinh sẽ tĩnh tâm tám ngày. Trong nghi thức mặc áo, đương sự sẽ được nhận tu phục, một tên mới, và bắt đầu thời gian nhà tập. Đây là một bước nữa để thử nghiệm đời sống tu trì đối với chí nguyện sinh; đồng thời, họ có cơ hội hiểu biết thêm về hội dòng mà họ muốn trở thành một phần tử.

Trong dòng Đức Mẹ Nhân Lành, năm tập kéo dài hai năm. Năm đầu, được gọi là năm tập theo Giáo Luật, mục đích để đào sâu vào đời sống thiêng liêng và những công việc trong đời tu. Trong thời gian này, tập sinh không được học hành lấy bằng cấp, cũng không dùng thời giờ để học tập hoặc thi hành bất kỳ công việc nào gây phân tâm.

Trong năm thứ hai, ngoài những việc đạo đức, tập sinh có thể học tập hoặc làm việc dưới sự hướng dẫn của các nữ tu khấn.

Sau thời gian này, nếu cả hội dòng lẫn tập sinh đều thoả nguyện, tập sinh sẽ được tuyên khấn từng năm một, và như thế suốt 5 năm liên tiếp. Trong thời gian này, nữ tu khấn có thể từ bỏ hội dòng hoặc bị thải hồi. Nếu mọi sự đều tỏ ra tích cực, nữ tu ấy được nhận cho khấn trọn (Hiến pháp dòng Đức Mẹ Nhân Lành).

[13] Trong dòng Đức Mẹ Nhân Lành, các nữ tu tuyên các lời khấn đơn. Trong dòng do chị Faustina cổ xướng, các nữ tu sẽ tuyên các lời khấn trọng.

[14] Kinh Thần Vụ - là kinh nguyện phụng vụ của Giáo Hội, gồm các thánh vịnh và các bài đọc khác. Tất cả mọi nữ tu đều buộc phải đọc kinh Thần Vụ.

[15] Nội vi là khu vực giới hạn trong tu viện dành riêng cho các nữ tu.

[16] Đấng bản quyền địa phương chỉ định cho mỗi tu viện một linh mục để giải tội thường xuyên cho các nữ tu. Theo quy định Giáo Luật, đấng bản quyền địa phương cũng chỉ định một linh mục giải tội ngoại lệ cho mọi tu viện. Nhiệm vụ của vị này là đến thăm tu viện và giải tội ít là bốn lần một năm. Mọi nữ tu đều phải gặp ngài, dù không xưng tội, và ít nhất cũng được chúc lành.

[17] Đầy Tớ Chúa đã được thị kiến về tu viện tương lai của cộng đoàn, đó là một đống hoang tàn ở số 12 phố thánh nữ Anna. Cha Sopocko đã trùng tu lại ngôi nhà này bằng tiền riêng của ngài và dự định cho một cộng đoàn đến ngụ tại đó. Cuộc Thế Chiến II đã làm ngưng trệ việc thực hiện các chương trình này (x. Thư cha Sopocko, ngày 31 tháng 3 năm 1972).

[18] “Ném mình vào đất bụi”- một kiểu nói biểu trưng của Đầy Tớ Chúa về thái độ của chị khi cảm thấy tội lỗi của mình.

[19] Áo ngoài có thể chỉ về nhiều kiểu áo. Con nít mặc thay cho áo sơ mi, chị Faustina nghĩ về điều ấy trong tâm trí.

[20] Chị Faustina có lẽ nhìn thấy ngôi nhà của dòng Đấng Cứu Độ Xót Thương tại Mysliborz.

[21] Có lẽ cha Ladislaus Wantuchowski dòng Tên, người đã coi sóc dòng Đấng Cứu Độ Xót Thương trong thời gian mười năm khi cha Sopocko đi ẩn.

[22] Một sợi roi, cây roi, hoặc một dụng cụ tương tự thường được các tu sĩ dùng để đánh tội.

[23] Có lẽ là những ngày giữ chay: thứ Tư lễ Tro và thứ Sáu tuần Thánh.

[24] Giáo Hội Ba Lan đã chấp nhận việc đạo đức ấy vào mỗi quý trong năm, ba ngày thứ Tư, thứ Sáu, và thứ Bảy được gọi là ba ngày “tuần chay” - được dành riêng để ăn chay và đền tạ, đọc thêm một số kinh để cầu nguyện cho các linh mục và ơn gọi linh mục tu sĩ.

[25] Thời gian ấy Giáo Hội buộc ăn chay vào ngày vọng các đại lễ: Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đức Mẹ Lên Trời, và Các Thánh.

[26] Một số dòng tu, kể cả dòng Đức Mẹ Nhân Lành, qua nghi thức long trọng đã nhận Mẹ Thiên Chúa làm bề trên, và phó thác tất cả mọi việc đời này và đời sau cho Mẹ. Nghi thức này đã được cử hành vào ngày 5 tháng 8 năm 1937 tại nhà mẹ ở Warsaw, với sự tham dự tất cả các vị bề trên. Từ đó, nghi thức này được lặp lại ở mọi tu viện khác của dòng vào ngày 15 tháng 8 năm 1937, với sự tham dự của tất cả các nữ tu trong dòng.

[27] Vị linh mục ấy là cha Sopocko, người đã viết trong hồi ký của ngài về chị Faustina như sau: “... Những phiền não của tôi lên đến cực điểm vào năm 1936. Tôi chưa bao giờ thổ lộ với bất kỳ ai, và đến ngày quan trọng ấy, tôi đã xin chị Faustina cầu nguyện. Tôi hết sức kinh ngạc, mọi phiền não của tôi đều tan biến vào chính ngày hôm ấy, và chị Faustina cho tôi biết chị đã nhận thay mọi phiền não của tôi và cảm thấy chưa bao giờ phải đớn đau như ngày hôm ấy” (A. SF. Recol.).

[28] Kinh Te Deum là một thánh thi tạ ơn, được hát trong tất cả các ngày đại lễ và nghi lễ tạ ơn. Các dòng tu thường hát kinh này vào giờ kinh Sáng. Thánh Amrôxiô được cho là tác giả kinh này, vì thế kinh này còn được gọi là “thánh thi thánh Amrôxiô”

 

 

 

 

 

back to top
Filters