News Filters

MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ *** Bài I : NIỀM HY VỌNG HẰNG SỐNG *** Nhờ ăn Bánh Hằng Sống, PHẦN 1 (bài 1-15) *** Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR

29 Tháng Năm 2021

MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ, PHẦN I

 

@@@@@_BÀI 1_@@@@@

 

Lm. Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR

 

 

 

MẶC KHẢI

VỀ THÁNH THỂ

trong Gioan 6.1-59

 

 

 

 

Nguồn :

ĐỌC TIN MỪNG

THEO YOAN, TẬP III :

BÁNH TRƯỜNG SINH BẤT TỬ

Lm. Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR

 

 

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

2013

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong kỳ họp Liên Hội Đồng các Giám Mục Á Châu (FABC) lần IX, tháng 8-2009, các Đức Giám Mục đưa ra lời kêu gọi linh mục và giáo dân cống hiến những sáng kiến giáo dục giúp tín hữu tái khám phá tâm điểm của việc cử hành Bí Tích Thánh Thể…

Để đáp ứng lời kêu gọi ấy, chúng tôi xin đóng góp phần mình qua loạt ba bài dưới đây với nhan đề

 

MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ

TRONG  GIOAN  6

 

 

 

Bài một :

 

 

NIỀM HY VỌNG HẰNG SỐNG

Nhờ đến với Chúa Giêsu

Bánh Sự Sống

 (Ga 6.1-50)

 

 

 

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta ! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh

niềm hy vọng sống động,

 nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không tỳ ố và không tàn lụi.

Gia tài này dành sẵn ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ đã sẵn sàng được mặc khải trong thời sau hết.”

(1 Pr 1.3-5)

TỪ PHÉP LẠ HÓA BÁNH ĐẾN BÁNH SỰ SỐNG  (6.1-35)

 

Trước hết mời đọc đoạn Tin Mừng về Phép lạ hóa bánh (Ga 6.1-15) :

1Sau đó, Đức Giêsu đi qua bên kia biển Galilê - cũng là biển hồ Tibêria. 2Có đông dân chúng đi theo Người, vì họ đã chứng kiến những dấu lạ Người làm cho những người đau ốm. 3Đức Giêsu lên núi, và ngồi đó với môn đệ của Người. 4Lễ Vượt qua, đại lễ của người Do Thái đã gần.

 5Ngước mắt lên, Đức Giêsu thấy có đông dân chúng đến với mình, Người nói với Philiphê : “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn?" 6Người nói thế để thử ông vì Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7Philiphê đáp: “Có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng không đủ cho mỗi người được một chút!" 8Một môn đệ khác, Anrê, anh ông Simôn Phêrô nói với Người: 9“Đây có em bé có năm cái bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy thì thấm vào đâu ?" 10Đức Giêsu nói: “Anh em hãy bảo người ta ngồi xuống”. Nơi ấy có nhiều cỏ. Họ ngồi xuống, con số khoảng chừng năm ngàn người đàn ông.

11Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, đoạn phân phát cho những người dùng bữa, và cá cũng thế, ai muốn bao nhiêu tùy ý. 12Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu nhặt các mảnh vụn dư lại, kẻo có gì hư đi mất”. 13Họ thu nhặt lại và đổ đầy mười hai giỏ mảnh vụn, do năm chiếc bánh lúa mạch người ăn còn để dư lại. 14Thấy dấu lạ Đức Giêsu làm, dân chúng nói: “Ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" 15Đức Giêsu biết rõ là họ sắp đến bắt lấy Người để tôn làm vua, thì Người lại lánh đi lên núi một mình.

 

Hình : Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh nuôi 5000 người.

Sau phép lạ vĩ đại hóa bánh ra nhiều nuôi 5000 người ăn no, dân chúng nhất định coi Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng Thiên Chúa xức dầu và sai đến cứu dân Người, cho nên họ định công kênh Người lên làm Vua (Ga 6.15) để lo cho họ được no cơm ấm áo, thay đổi số phận hẩm hiu hiện tại họ đang phải chịu dưới ách đô hộ sắt máu của người Rôma.

Thấy dân chúng hiểu lầm sứ mệnh thiên sai của mình quá nhiều, Đức Giêsu liền lánh lên núi, còn các Tông đồ đang phấn khởi bởi phép lạ và cũng muốn hùa vào phe với dân chúng, thì Người bắt họ xuống thuyền đi sang bên kia biển hồ Galilê. Và khi đêm xuống, thuyền họ gặp sóng lớn, thì Người đi trên sóng nước Biển Hồ mà đến với các môn đệ và thuyền đã cập bến bình an nơi họ muốn tới. (cc.16-21)

Hôm sau, vì không thấy Đức Giêsu trên núi, nơi xảy ra phép lạ, dân chúng kẻ xuống thuyền, kẻ đi vòng quanh bờ hồ đến Ca-phac-na-um tìm Người. (cc.22-25) Và khi thấy họ vất vả tìm gặp Người như thế, Đức Giêsu chỉ ra cho họ thấy công lao vất vả của họ thật uổng phí : họ đi tìm Người không vì được thấy “dấu lạ” qua việc hóa bánh ra nhiều, nhưng chỉ vì được ăn no bánh mà thôi (c.26). Thay vì mong được ăn bánh, nếu ngược lại họ ra công tìm hiểu dấu lạ, nó sẽ hướng dẫn họ khám phá những kho tàng ẩn dưới “dấu lạ hóa bánh” kỳ diệu đó. “Dấu lạ” hay “dấu chỉ” giống như mũi tên chỉ đường, nó chỉ cho người ta một hướng đi đúng để đạt tới đích.

Phải thú thực : làm sao loài người phàm hèn có thể hiểu được hàm ý sâu sắc, cao cả và siêu phàm ẩn giấu trong phép lạ ấy được ? Dấu lạ hóa bánh ra nhiều đó báo trước một ân huệ vĩ đại, tuyệt diệu : Bánh Sự Sống (Bread of Life) là chính Bản Thân Chúa Giêsu và Lời của Người, được trao ban cho nhân loại để họ được nuôi dưỡng bằng sự sống thần linh. Phép lạ hóa bánh ra nhiều đó còn là biểu tượng cho Bánh Hằng Sống (Living Bread) mà Chúa Giêsu sẽ ban cho loài người sau này: là chính Thịt Máu Người đã được thần hóa sau khi đã hiến tế trên thập giá và sống lại, sẽ được ban phát vô hạn lượng làm thực phẩm thần linh nuôi sống loài người đang hấp hối vì tội lỗi này.

@@@@@_BÀI 2_@@@@@

HƯỚNG ĐẾN LƯƠNG THỰC TRƯỜNG TỒN (6.26-29)

Chúa biết những người Do Thái hôm nay chạy theo Người chỉ vì miếng ăn (“các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”, c.26) (xem hình dưới), là nhu cầu vật chất thường ngày, là những thứ không tồn tại lâu dài, không giữ được sự sống vĩnh cửu nên Chúa khuyên bảo tìm thứ lương thực trường tồn ấy :

"Các ông hãy ra công làm việc không phải để có lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại sự sống đời đời, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã đóng ấn xác nhận." (c.27)

Nói cho người Do Thái, Chúa cũng muốn nhắc nhở chúng ta. Đành rằng một khi đã mang lấy cái thân xác này, con người cần cơm ăn áo mặc, các của cải và tiện nghi vật chất… Nhưng quả thật chúng ta đã lãng phí quá nhiều thời gian, lao tâm khổ trí mất bao tâm huyết để gây dựng những chuyện chóng qua, để đạt được những thứ vật chất mau hư nát, để rồi khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta cũng đành buông trôi tất cả, chẳng mang theo được gì. Thật là phí công vô ích như "dã tràng se cát” mà thôi ! Chẳng lẽ tất cả cuộc đời của ta chỉ là để cho có những của vật chất ấy thôi sao, mà không còn biết có một thứ lương thực cao quí hơn, mang lại sự sống đời đời ? Lời Chúa Giêsu nhắc nhở trên đây có lay tỉnh được ta không ?

Có biết bao người con của Chúa vì nỗi lo lắng sự đời về cơm áo gạo tiền, địa vị, danh vọng mà ngày lo, đêm nghĩ. Rồi những cuộc vui thế gian, cơn mê lạc thú, chạy theo các tiện nghi, máy móc hiện đại, ngay cả những thú vui lành mạnh như tivi, sách báo…cũng làm họ mê mải mà quên rằng đó là những sự vật chất chóng qua. Tất cả như cơn sóng kéo chúng ta ra xa khỏi bến bờ sự sống đời đời. Đôi mắt chúng ta chỉ chăm nhìn vào thế gian, và tay ta muốn nắm giữ mọi thứ, cho đến giờ phút cuối cùng mới choàng mở mắt thấy mọi sự thế gian là hư ảo, và cuộc sống thế trần ngắn ngủi như cỏ hoa sớm nở chiều tàn...

NGUYỆN CẦU

Lạy Chúa, chúng con xin cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con lương thực trường tồn đem lại sự sống đời đời, sự sống quí giá vô cùng này, nhưng gần cả một cuộc đời chúng con chưa biết trân trọng sự sống Chúa trao ban. Chúng con đã phí phạm biết bao thời gian mà không đi kiếm sự sống trường tồn cho tâm hồn, còn nói chi đến sinh lời lãi gì cho Nước Chúa. Biết bao hạt giống Chúa gieo trồng, chúng con để rơi bên vệ đường, trên nơi sỏi đá hay vào bụi gai mà không biết xót xa tình Chúa. Gần hết cả cuộc đời chúng con chỉ lao công gắng sức vì lương thực mau hư nát, làm những việc vô ích như loài dã tràng…vì không đem lại cho chúng con sự sống thường tồn.

   Lạy Chúa, chúng con nay trở về quì gối tạ tội trước Thánh Nhan Chúa, như con chiên lạc loài mong Chúa mở lượng hải hà thứ tha. Amen.

 

*

 

Người Do Thái nghe Đức Giêsu nói đến sự phải ra công làm việc để có lương thực thường tồn mang lại phúc trường sinh, thì lập tức theo thói quen giữ luật, họ lại hiểu là "làm các việc Luật dạy", nên liền hỏi Người là họ sẽ phải làm những việc luật dạy nào trong số mấy ngàn điều luật lớn nhỏ? (6.28). Một lần nữa họ lại đi trật đường rầy ! Sống trong não trạng Cựu Ước, làm các điều Lề luật dạy là điều kiện để được Sự Sống Đời Đời.

Nhưng nay thì khác rồi, Đức Giêsu đã đến khai mạc một kỷ nguyên mới, trong thời kỳ này, để được Sự Sống Đời Đời, đức tin thay thế cho Lề luật. Do đó Đức Giêsu đáp lời họ:

"Việc Thiên Chúa muốn (cho các ông làm,) là tin vào Đấng Người đã sai đến."(6.29)

Thánh Phaolô, trước kia là một người theo bè Biệt phái giữ luật rất nghiêm ngặt, mong nhờ đó mà được cứu rỗi, nhưng sau khi được ơn trở lại, ông đã hiểu việc giữ luật không đi đến đâu, cho nên ông nói :

"Nay Thiên Chúa công chính hóa người ta mà không cần đến luật…Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính (tức là được sự sống đời đời) nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô." (Rm 3.21-22).

Ở mấy câu sau ông lặp lại lần nữa :

"Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy." (Rm 3.28).

Tại sao vậy? Thánh nhân giải thích :

"Người nào làm việc, thì lương trả cho người ấy không (được) kể là ân huệ, mà là nợ. Trái lại, người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính." (Rm 4.4-5).

Thánh Phaolô đã diễn tả đúng: một người giữ luật chặt chẽ tương tự như người làm công, làm xong việc chờ được chủ (Chúa) trả lương (là Sự Sống Đời Đời). Nhưng trong kế hoạch cứu rỗi của Tân Ước, để được sự sống đời đời, Thiên Chúa không còn thích hay không còn muốn người ta cậy vào công trạng tuân giữ các luật lệ mà là tin vào một người, đúng như Đức Giêsu tuyên bố với người Do Thái :

"Việc Thiên Chúa muốn (cho các ông làm,) là tin vào Đấng Người đã sai đến"(Ga 6.29).

Để minh họa chân lý ấy, Đức Giêsu kể dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện (Lc 18.10-14) : người thứ nhất là Biệt phái (Pharisêu) tự mãn kể công trạng mình đã làm là giữ được các việc luật dạy…, và ông ta chỉ còn chờ Thiên Chúa trả công cho ông là Sự Sống Đời Đời ; còn người thứ hai là người thu thuế, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, vi phạm nhiều điều luật, chẳng có công trạng gì, chỉ biết đấm ngực xưng thú tội và tin cậy vào lòng Thiên Chúa thương xót. Và kết luận thật bất ngờ: Chúa Giêsu phán quyết thế này: người thu thuế tội lỗi ra về được Chúa tha thứ tội lỗi và được nên công chính, trái lại người Biệt phái thì không!

Những lời của Thánh vịnh 103.8-22 sau đây ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta quả là tuyệt vời không đâu sánh kịp :

CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
 Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
 Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
 Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
 Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
 Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ : ta chỉ là cát bụi.
 Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
 một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
 Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
 cả những ai giữ giao ước của Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.
 CHÚA đặt ngai báu trên trời cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
 Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
[…] Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi !

Chúa Giêsu đã đến và tỏ bày lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân :

“Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần…. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9.12-13)

 "Không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi của họ có đỏ như máu…" Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa ngày xưa đã phán với dân Israen :

“Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết ; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông. (Is 1.18).

Quả thật là một Tin mừng cho chúng ta : Dù chúng ta đang sống trong tội lỗi như anh thu thuế trên đây, chẳng giữ Luật, chẳng làm việc lành, chẳng có công trạng gì, thì cũng đừng nản lòng, đừng mặc cảm, rồi lánh xa Chúa…, vì Thiên Chúa không nhìn chúng ta theo kiểu chúng ta tự nhìn mình đầy tội lỗi, mà Thiên Chúa nhìn chúng ta có nhờ lòng Tin để được ở trong Đức Giêsu Kitô hay không.

Thánh Phêrô giảng chân lý ấy cho ông Cor-nê-liô, một sĩ quan ngoại giáo trong quân đội Rôma :

"Hết thảy các tiên tri đã chứng thực rằng ai tin vào Đức Giêsu thì được lãnh ơn tha tội nhờ Danh Người." (Cv 10.43).

Sau đó, ngay ở giữa Công đồng chung Giê-ru-sa-lem, ông còn tuyên bố :

"Thiên Chúa đã tẩy sạch (tội lỗi trong) lòng người ta bằng đức tin." (15.9).

Chịu ảnh hưởng Cựu Ước và Do Thái giáo, đạo Công giáo chúng ta thời trước đây, và có lẽ cả bây giờ, vẫn còn chú trọng nhiều vào việc giữ luật, vào việc lập công để được thưởng lên Thiên Đàng. Đành rằng đó là điều tốt và cần, nhưng không nhấn mạnh đến niềm tin cho đủ.

Nếu có nói đến đức tin, thì coi đó như là một việc của trí khôn chấp nhận những chân lý mầu nhiệm. Điều đó đúng, song đó chỉ là bước đầu đến với Chúa. Thế mà xong bước đầu ấy, người ta coi như là thủ đắc được đức tin rồi, và thôi không đào sâu, không chịu học hỏi Thánh Kinh hay giáo lý để thêm hiểu biết về Thiên Chúa, về Chúa Giêsu mà tăng lòng tin, lòng mộ mến, gắn bó với Chúa thân thiết hơn. Họ giống như những người ở đời, chỉ học cho biết đọc biết viết, rồi tưởng rằng với một dúm chữ nghĩa ấy ra đời là có thể thành đạt.

 

@@@@@_BÀI 3_@@@@@

Với tình trạng ấy, rất nhiều tín hữu dễ lỏng lẻo, chệch choạc về đức tin, hễ gặp chuyện trục trặc, khó khăn trong cuộc sống…, cầu xin với Chúa và Đức Mẹ một hồi không được, là yếu lòng tìm đến các thầy bói, đi xem tướng số tử vi, và nhiều thứ mê tín dị đoan khác nữa. Ai làm những việc tin vơ thờ quấy đó thực sự là không còn tin Chúa, cũng là chối bỏ đức tin, và xin nói thẳng : họ phạm tội trọng vì tin cậy vào thần thánh tà đạo, không còn tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ đời sống mình, cũng là Cha vô cùng tốt lành, an bài lo liệu mọi sự cho ai tin tưởng nơi Người (Mt 6.25-34).

Cách sống đó là “nhị tâm”, là “bắt cá hai tay”, còn ngôn sứ Êlia thì nói đó là “nhảy khập khiễng hai chân” (1 V 18.21), đúng vậy, thấy có người nói: “Con có đạo là con tin Chúa chứ, song tin Chúa một tí, tin thần Phật một tí, tin thầy bói một tí!” Thật hết biết !

Họ không ngờ rằng trong Cựu Ước, Chúa phạt một cách khủng khiếp tội nhị tâm ấy mà Người gọi là "ngoại tình" (mời đọc một vài đoạn ví dụ : Gr 7.29-8.3; 44.1tt; Gs 24.14-20; Đnl 30.15-20 ; Đn 9.4ttt; v.v….). Và trong Tân Ước, Chúa Giêsu Thẩm phán tối cao tuyên bố lời phán quyết chung tận : “Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành (Giêrusalem thiên quốc) ! Những quân chó má, làm phù phép, gian dâm, sát nhân, thờ ngẫu tượng, cùng với mọi kẻ thích điều gian dối và ăn gian nói dối, hãy xéo ra ngoài.” (Kh 22.14-15). Những kẻ thờ tà thần, ngẫu tượng, mê tín dị đoan bị loại cùng một hàng với “những quân chó má !”

Với nhiều người Công giáo khác, thì theo đạo chỉ có nghĩa là giữ “đạo”, là giữ luật. Do đó, họ đi dự Thánh Lễ cho đúng luật, nhận lấy các Bí Tích theo như luật truyền…còn trong lòng không có tâm tình thân thiết gắn bó với Chúa.

Tin không phải là giữ “đạo”, giữ luật cho thật chặt nhưng cốt yếu là đến với Chúa, tin cậy yêu mến Chúa, sống gắn bó mật thiết với Chúa với cả tâm hồn, với trọn trái tim của người con thảo đối với Cha trên trời, rồi sau đó mới tính đến việc thi hành những việc giữ luật, những việc đạo đức thường quen.

Như thế, lòng tin được đặt ở vị trí ưu tiên trên việc giữ luật và việc đạo đức. Thánh Phaolô đã xác định dứt khoát :

"…Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy." (Gl 2.16).

Nói vậy không phải là bảo chỉ cần tin, không cần giữ luật và thi hành các việc đạo đức như xưng tội, đọc kinh, dự Lễ, Rước Lễ, làm việc thiện v.v… Nhưng muốn bảo rằng phải Tin trước, rồi sẽ giữ luật và làm các việc đạo đức sau để củng cố lòng tin ấy.

Lấy một ví dụ cho dễ hiểu : Thử hỏi nếu ta chỉ ra công cuốc đất, bón phân, tưới nước v.v.., thì như thế liệu có thể làm từ đất nẩy ra một cây xoài cát thơm ngon được không ? Chắc là không! Muốn có cây xoài ấy thì chỉ có một cách là mua hay xin từ nơi khác đem về trồng. Cũng vậy, không thể cứ nhờ giữ luật và làm các việc đạo đức (ví như cuốc sới, bón phân, tưới nước) mà làm nảy ra ơn công chính hóa và Sự Sống của Thiên Chúa được ! Chỉ còn cách là đến xin Thiên Chúa ban cho, hay đến “mua”, “mua” bằng lòng tin. Nói khác đi, khi ta thật tâm tin vào Chúa Giêsu, thì Thiên Chúa sẽ ban ơn công chính hóa và Sự Sống thần linh ấy cho ta.

Nối tiếp ví dụ trên, sau khi xin hay mua được cây xoài đem về trồng, lúc đó phải dùng xẻng cuốc, bón phân tưới nước để giữ cho cây tươi tốt và lớn lên, rồi sinh hoa quả. Cũng vậy, sau khi nhờ lòng tin mà được Thiên Chúa ban ơn công chính hóa và sự sống, thì từ đây, ta sẽ ra công giữ luật và làm các việc đạo đức, mà tưới bón cho (cây) Sự Sống và Công Chính ấy không bị héo tàn, trái lại được tươi tốt, trổ sinh hoa quả.

Tóm lại : Tin trước đã, sau sẽ ra công giữ luật và thi hành các việc đạo đức để bồi dưỡng, củng cố lòng tin.

Vì thế, cần nhắc đi nhắc lại rằng :

TIN là điều kiện tiên quyết và cực kỳ cần thiết !

Tin là được sống, không Tin là sẽ chết.

Xin nêu thêm vài câu Thánh Kinh nữa để thêm xác tín :

Dân Israen phạm tội, Chúa phạt, cho rắn độc đến cắn chết nhiều người, họ bèn hối lỗi cầu xin Chúa cứu. Người sai Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây, ai lấy lòng tin nhìn lên, sẽ khỏi chết (Ds 21.4-9).

Dựa vào tích truyện Thánh kinh ấy, Đức Giêsu nói :

“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao (lên thập giá) như vậy, để ai (nhìn lên và) tin vào Người thì (khỏi phải chết mà) được sống muôn đời.” (Ga 3.14-15)

Mấy câu Tin Mừng tuyệt vời sau đây nữa :

- "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…" (Ga 3.16)

- "Thật, Tôi bảo thật các ông : ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống." (Ga 5.24)

Tại sao LÒNG TIN lại có giá trị tuyệt đối như thế ?

Xin trả lời : Vì tin vào Chúa Giêsu mới lãnh được Thần khí tuyệt đối cần thiết cho đời sống linh hồn :

"Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống. Đức Giêsu muốn nói về Thần khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận" (Ga 7.38-39).

Xem gương dân Israen : vì không có Thần khí nên họ không có sức giữ luật, đã phạm đủ các giống tội, khiến Thiên Chúa phạt họ bị các cường quốc xâm lăng, đánh chiếm, khiến nhà tan cửa nát, bị lưu đày ; nhưng sau đó, Thiên Chúa đoái thương hứa sẽ ban Thần khí, nhờ đó họ sẽ giữ được các luật Chúa mà được sống :

“Chính Thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.” (Ed 36.27).

Và Thiên Chúa đã giữ lời hứa, Người trao cho Chúa Giêsu Thần khí để ban xuống:

Sau khi vâng ý Chúa Cha mà chịu chết khổ hình thập giá, thì Người "được Thiên Chúa ra tay uy quyền nâng lên (ngự bên hữu), và nhận từ Chúa Cha Thánh Thần… mà đổ xuống…" (Cv 2.33; x. Ga 20.22).

Chính Thần khí sẽ tái sinh ta để ta có thể vào Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô :

"Thật tôi bảo thật ông, không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần khí" (Ga 3.5).

Đồng thời, Thần khí cũng làm ta được trở nên con cái Thiên Chúa:

"Anh em nhận được một Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên (với Thiên Chúa): 'Ap-ba! Cha ơi!" (Rm 8.15).

Nhờ Ngài, ta có sức mạnh để không còn sống theo tính xác thịt, đam mê và tội lỗi nữa mà bị trầm luân muôn kiếp :

"Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi (tội lỗi) của thân xác, thì anh em sẽ được sống.”(Rm 8.13).

Phải chết vì sao ? Vì tính xác thịt gây ra đủ thứ tính mê, nết xấu và tội lỗi (Gl 5.19-21), chỉ Thần khí mới làm trổ sinh những hoa quả nhân đức tốt lành (Gl 5.22-23).

Tóm lại, lòng tin có giá trị tuyệt đối như thế là bởi vì nhờ tin mà có Thần Khí, và có Thần khí là có tất cả mọi sự tốt lành nói trên, không có Thần khí, thì chẳng có gì hết, chỉ có sự chết !

Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho ta tất cả mọi sự như thế : Con Một của Người, Người để cho chịu chết mà cứu ta khỏi chết đời đời ; Thần khí, Người cũng ban để ta được sống. Và Người chỉ mong một điều là ta đáp lại bằng lòng tin, tức là mở lòng ra đón nhận ơn ban sự sống của Người, thử hỏi : Thiên Chúa chỉ đòi ta có chừng đó thôi, có gì quá đáng chăng ?

*

 

TIN THẬT HAY TIN GIẢ ?

Vậy vấn đề là chúng ta có tin Chúa thật sự không hay chỉ tin trên môi miệng ?

Tôi (Têrêsa K.L.) đã được nghe kể chuyện có những chị vừa nguyện kinh Lòng Chúa Thương Xót xong lại rủ nhau đi xem bói vì nhà chị có chuyện buồn ! Có những người vì xin ơn theo ý mình không được thì thôi đến nhà thờ, thôi đọc kinh, cầu nguyện. Có người buôn bán thì cũng cúng ông Địa nơi bán hàng hay ở trong nhà : trên là bàn thờ Chúa, ở dưới chưng ông Thần Tài. Có người trót lỡ phạm tội thì sợ hãi không muốn đến với Chúa nữa….

Ôi ! Thật là xót xa cho Lòng Chúa Xót Thương !

Nếu chúng ta tin Chúa là Đấng Cứu Thế, Đấng cứu thoát ta khỏi mọi sự dữ thì ta sẽ đến với Chúa và Người sẽ vực chúng ta dậy ra khỏi tội lỗi, gian nan, khốn khó như người con hoang đàng biết tin cậy cha của mình nên đã quay trở về, đã được cha tha thứ và phục hồi mọi vinh dự đã mất... 

NGUYỆN CẦU

Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa lời thánh ca cũng là lời thống hối của chúng con :

"Lạy Chúa, xin dủ lòng xót thương

 vì chúng con đây đắc tội với Ngài.

Lạy Chúa, xin dủ lòng xót thương

vì chúng con đây đắc tội lắm thay."

 

 

*

*    *

 

@@@@@_BÀI 4_@@@@@

ĐỨC GIÊSU CÓ BAN ĐƯỢC MANNA TỪ TRỜI NHƯ ÔNG MÔSÊ KHÔNG ? (6.30-34)

Trở lại với bản văn Tin Mừng Gioan, thì thấy người Do Thái không phải là kẻ dễ tin đâu. Họ vừa nghe Đức Giêsu nói: Phải tin. Họ chấp nhận : Được, phải tin. Nhưng tin ai ? Đức Giêsu bảo : "Tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến !" Họ hiểu ngay là Chúa muốn ám chỉ về chính mình. Người Do Thái liền thách thức:

"Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? Ông sẽ làm gì đây ? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời." (6.30-31)

Người Do Thái đòi hỏi một dấu lạ hay phép lạ như thế để họ tin, yêu cầu đó không phải là điều gì quá đáng, vì trong đời thường, chúng ta cũng đòi người ta phải đưa ra một bằng chứng hay một vật gì bảo đảm để ta tin họ, nhất là trong những chuyện hệ trọng. “Chọn mặt mà gửi vàng !”. Người Do Thái lại càng phải cẩn thận hơn, vì Thiên Chúa thường hay sai các tiên tri đến dạy bảo và sửa đổi cách ăn nết ở của họ. Muốn cho họ chấp nhận sứ điệp, các vị này thường phải làm những phép lạ để minh chứng mình đã được Thiên Chúa sai đến. Không làm được dấu lạ, đó là bằng chứng Thiên Chúa không ở với vị tiên tri ấy, chỉ là tiên tri giả, không  do Thiên Chúa sai đến, như vậy không thể tin được.

Ông Nicôđêmô là bậc thầy trong dân Do Thái, một đêm kia đến thỉnh vấn Chúa Giêsu cũng nói: "Chúng tôi biết Ngài tự Thiên Chúa mà đến… vì không ai làm được các dấu lạ Ngài làm trừ phi Thiên Chúa ở với người ấy." (Ga 3.2). Vậy nếu người Do Thái ở đây đòi Đức Giêsu làm dấu lạ để họ tin là theo đúng truyền thống mà họ đòi.

Đòi Đức Giêsu phải làm dấu lạ, chưa đủ, họ còn đưa ra một nhân vật lớn trong đạo họ, hình như để thách Người có làm được dấu lạ bằng ông ấy không:

"Môsê đã ban cho chúng tôi bánh bởi trời qua phép lạ manna, còn ông có làm được bằng ông ấy không ?” (6.31).

Ngày nay, chúng ta cũng như họ, không dễ tin ngay, cũng đòi Chúa đưa ra những dấu hiệu của tình thương của Chúa, qua những cái tưởng như gây hạnh phúc cho ta như công  ăn việc làm, sức khỏe, tiền bạc, tiện nghi khoa học kỹ thuật, xe hơi, tivi, máy tính v.v… Chúa có cho ta được những cái như thế không ? Có được những cái đó, ta sẽ tin vào Chúa! Nếu ta đọc đoạn Tin Mừng Gioan trên đây (6.27), ta sẽ nghe Đức Giêsu trả lời : tất cả những thứ đó chỉ là những vật phù vân, mau hư nát”, dùng tạm cho đời sống hiện tại, chứ chúng không ban sự sống thật và trường sinh !

*

Trước thách thức của người Do Thái trên đây, Đức Giêsu phản bác hai điều :

1- Thiên Chúa ban Manna chứ không phải Môsê:

"Quả thật, Tôi bảo các ông không phải ông Môsê đã cho các ông bánh bởi trời, mà chính là Cha Tôi" (6.32).

Đọc sách Xuất hành 16.4 thì thấy rõ ràng :

"Giavê phán với Môsê : "Này Ta sẽ cho mưa bánh bởi trời xuống cho các ngươi và dân hãy ra mà lượm lấy…". Môsê chỉ là người báo điều ấy cho dân.

2- Manna không phải là bánh bởi trời, nó chỉ là một thứ bột (của một cây gì đó tiết ra) mà Thiên Chúa làm cho từ không trung rơi xuống cho dân lượm lấy mà ăn đỡ đói.

Còn bánh đích thật do Thiên Chúa ban mới "là bánh bởi trời xuốngban Sự Sống cho thế gian" (6.33).

Tóm lại, để được coi là bánh đích thực của Thiên Chúa, thì phải có hai điều kiện :

  1. a) từ trời, tức là từ thiên giới nơi Thiên Chúa mà xuống và
  2. b) ban sự sống muôn đời cho thế gian, chứ không phải ban cho người ta một sự sống tạm bợ ăn rồi vẫn phải chết.

Bị khuất phục, người Do Thái xin Đức Giêsu ban bánh kỳ diệu ấy

Đến đây, có vẻ người Do Thái tỏ ra “tâm phục khẩu phục” bèn ngỏ lời xin ban cho họ thứ bánh ấy :

“Thưa Ngài, xin luôn luôn ban thứ bánh ấy cho chúng tôi” (6.34).

Được lời xin này mở lối đưa đường, Đức Giêsu liền ban cho họ một Diễn từ, để họ hiểu

Bánh Sự Sống ấy là thế nào,

làm sao mà lãnh được,

và Bánh ấy sinh hiệu quả thần diệu đến chừng nào.

Đó là nội dung của Diễn từ về Bánh Sự Sống.

 

ššV››

 

 

@@@@@_BÀI 5_@@@@@

II/  DIỄN TỪ VỀ BÁNH SỰ SỐNG

(Ga 6.35-58)

Diễn từ quan trọng này sẽ được triển khai qua hai phần :

  1. Phần nhất (6.35-50) : Bánh Sự Sống là Bản Thân Chúa Giêsu và Lời của Chúa, ta lãnh nhận bằng tâm trí và bởi đức tin.
  2. Phần hai (6.51-58) : Bánh Sự Sống là Thịt Máu Người, ta lãnh nhận bằng cách ăn uống, và cũng bởi lòng tin.

--------------------------------------

(Chúng ta thấy 2 phần của Diễn từ này tương ứng với 2 phần của Thánh Lễ : A/ Ngôn Lễ (Lời Chúa). B/ Tế lễ và Rước Lễ (Mình Chúa). Công Đồng Vatican II, Hiến chế Phụng vụ Thánh cũng nói : Thánh Lễ có hai bàn tiệc: Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Thánh Chúa.)

-----------------------------------------------

  1. PHẦN THỨ NHẤT (6.35-50)

A.1/ Mời đọc đoạn đầu của Phần nhất này (6.35-40)

35 Đức Giê-su bảo họ : “Chính Tôi là bánh sự sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói ; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ ! 36 Nhưng Tôi đã bảo các ông : các ông đã thấy Tôi mà không tin. 37 Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi đều sẽ đến với Tôi, và ai đến với Tôi, Tôi sẽ không loại ra ngoài, 38 vì Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý Tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Tôi. 39 Mà ý của Đấng đã sai Tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho Tôi, Tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý của Cha Tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”

Qua đoạn Diễn từ này, chúng ta có thể thấy

CHÚA GIÊSU BAN 4 LỜI HỨA TUYỆT VỜI

CHO KẺ ĐẾN VỚI NGƯỜI :

Tôi là bánh Sự Sống,

  1. a) Ai đến với Tôi, không hề phải đói ; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ ! (c.35)
  2. b) Tôi sẽ không loại ra ngoài và không được để hư đi điều gì. (cc.37, 39) ;
  3. c) Có Sự Sống Đời Đời

đ)  Và ngày sau hết Tôi sẽ cho họ Sống lại (c.40)

Ta hãy cẩn thận cứu xét những lời hứa tuyệt vời ấy.

Mở đầu Đức Giêsu khẳng định:

"Chính Tôi là Bánh Sự Sống."(6.35)

Sở dĩ Đức Giêsu nói "Tôi là Bánh ban Sự Sống" vì Người muốn dùng một hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống : cái “bánh” vốn là thực phẩm nuôi người ta khỏi chết đói, thì đây Tôi” Bản Thân và Lời Tôi “là Bánh ban Sự Sống”, sẽ nuôi họ khỏi chết phần linh hồn.

   Các sách Khôn ngoan của Cựu Ước thường ví Đức Khôn Ngoan và Lề luật như bánh, ăn vào sẽ nuôi sống tâm linh con người :

Đức Khôn Ngoan đã … hạ thú vật, pha chế rượu,

dọn bàn ăn….  
Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi :
“Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây !”
Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo :
“Hãy đến mà ăn bánh của ta

và uống rượu do ta pha chế !
Đừng ngây thơ khờ dại nữa,

và các con sẽ được sống….” (Cn 9.1-6).

Nếu Đức Khôn ngoan và Lề luật có thể nuôi sống tâm linh người ta như vậy, huống chi chính Lời Thiên Chúa là Đức Giêsu.

Vì thế Đức Giêsu mới nói rằng Bánh Sự Sống ấy là Tôi, là chính Bản Thân Tôi.

Mà Bản Thân Người là ai mà dám có cao vọng nuôi tất cả loài người không những khỏi đói khát mà còn được Sống Đời Đời và ngày sau hết sẽ được Sống lại ?

Chúng ta, Kitô hữu, đã nghe quen lời này rồi, nên không thấy làm chướng, nhưng thử đứng vào địa vị một người ngoài, tất sẽ cho lời ấy là cuồng vọng nếu không phải là lời của một kẻ mất trí !

Nhưng chúng ta, người tín hữu, những kẻ có may mắn “đã tin” vào Đức Giêsu, chúng ta sẽ ráng nhẫn nại hơn mà tìm hiểu xem : Người là ai ? Cao cả chừng nào ? Quyền phép bao nhiêu ? Tốt lành thế nào ? Để chúng ta khâm phục mà sẵn lòng đón nhận Người và Lời Người làm Bánh Ban Sự Sống!

Tin Mừng Gioan đưa ra lời giải đáp :

1) Người chính là Thiên Chúa hằng có từ thuở đời đời :

"Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.” (Ga 1.1-2)

2) Người có quyền phép tạo thành vạn vật trong vũ trụ :

“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành." (Ga 1.3)

3) Và đã xuống thế mặc xác làm người :

"Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ ở giữa chúng ta" (Ga 1.14).

   Ngày xưa, trong Cựu Ước, Đức Khôn Ngoan mời người ta đến ăn bánh tinh thần là ăn các lời dạy khôn ngoan để nhờ đó tâm hồn họ được sống..., thì nay, thời Tân Ước, Ngôi Lời, Đấng Toàn Năng tạo thành vạn vật, từ “cõi siêu việt vĩnh hằng” đã xuống mặc xác thịt, trở nên Con Người Giêsu hữu hình bằng xương bằng thịt và ở giữa loài người, để có miệng lưỡi mà nói ra những lời thần linh ban sự sống của Thiên Chúa : "Lời Tôi là Thần Khí và là Sự Sống" (Ga 6.63); nhất là nói bằng tiếng nói của loài người, để ai ai cũng có thể nghe và hiểu được, nói cách thân tình như Thầy nói với trò, như cha nói với con, như bạn bè nói với nhau :

“Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã nói cho anh em biết.” (Ga 15.15)

Giả sử Người, vốn là Thiên Chúa, cứ ở trên trời, thì lời nói của Người mấy ai nghe được ? Mà dù có nói thì tiếng Người oai nghi quá đỗi như sấm như sét, loài người chúng ta không chịu nổi. Dân Israen đã kinh nghiệm những lời sấm sét không chịu nổi đó, khi Thiên Chúa nói với họ từ trên núi Sinai để ký kết giao ước với họ. Đoạn Thánh kinh sau đây thuật lại :

Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa ; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì ĐỨC CHÚA ngự trong đám lửa mà xuống ; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm.

[…] ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê : “Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem ĐỨC CHÚA, kẻo nhiều người phải lăn ra chết. Ngay các tư tế đến gần ĐỨC CHÚA cũng phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, kẻo bị ĐỨC CHÚA đánh phạt.” (Xh 19.16-22).

Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với ông Mô-sê : “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe ; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất !” (Xh 20.18-19)

Nhưng đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã đổi chiến thuật : Người biết rằng muốn nói cho loài người tất cả toàn bộ sự thật, Người phải đến gần loài người, phải làm người, phải nói ngôn ngữ loài người, như thế mới lọt tai họ.

Truyện ngắn sau đây của nhà văn Mỹ Louis Cassels đã minh họa cách giản dị mà sâu sắc điều ấy :

“Người đàn ông tôi sắp giới thiệu với quí bạn … là một người tử tế, lịch sự, rộng lượng với gia đình, đúng đắn trong trong tiếp nhân xử thế, nói chung ông là người tốt.

Có điều ông không tin chuyện Thiên Chúa xuống thế làm người, như các nhà thờ vẫn rao giảng mỗi dịp Giáng Sinh. Chuyện ấy theo ông chả có nghĩa lý chi. Và bởi lẽ ông quá trung thực nên không giả vờ tin được. Ông bảo vợ, (một phụ nữ siêng năng đi nhà thờ) :

- Anh thật sự xin lỗi em, nhưng anh sẽ không cùng em đi lễ nhà thờ đêm Giáng sinh.

Ông bảo : ông không muốn làm kẻ đạo đức giả, (không tin mà cứ vờ đi nhà thờ), nên tốt hơn ông ở lại nhà. Nhưng ông sẽ thức khuya đợi vợ con tan lễ trở về. Thế là ông ở nhà, còn vợ con đi dự Thánh Lễ nửa đêm.

Vợ con ông lái xe đi, chẳng mấy chốc thì tuyết bắt đầu rơi. Ông ra đứng ở cửa sổ, dõi mắt nhìn cơn mưa tuyết bất ngờ đang mỗi lúc một trở nên dữ dằn hơn. Rồi ông trở lại chiếc ghế kê bên cạnh lò sưởi để đọc báo. Mấy phút sau, ông giật mình vì có gì đó rớt nghe cái phịch. Lại thêm tiếng nữa, và tiếng nữa.

Thoạt đầu ông ngỡ ắt hẳn ai đó vò tuyết thành cục ném vào cửa sổ phòng khách nhà mình. Nhưng khi bước ra cửa trước xem xét, ông thấy một đàn chim khốn khổ túm tụm vào nhau giữa trời tuyết lạnh. Chúng gặp bão tuyết, và trong lúc tuyệt vọng tìm chỗ trú ẩn, đã cố sức đâm nhào vào ô cửa kính lớn của phòng khách nhà ông.

Ông không thể để cho các sinh vật đáng thương này nằm ngoài trời chết cóng. Ông nhớ đến cái chuồng đám trẻ nhà ông dùng nhốt chú ngựa con. Chuồng ngựa là chỗ trú ẩn ấm áp, nếu ông có thể lùa hết đàn chim vào trong đó.

Ông nhanh nhẹn khoác áo choàng, mang ủng lội tuyết, rồi giẫm lên lớp tuyết dầy đi ra chuồng ngựa. Ông mở toang cửa, thắp đèn lên, nhưng lũ chim không chịu vào. Ông nghĩ thức ăn sẽ dụ chúng được. Thế là ông vội vàng trở vào nhà, tìm vụn bán mì và rắc lên mặt tuyết trắng. Ông rải thành con đường, từ chỗ đàn chim suốt tới cửa chuồng ngựa đang mở toang và đèn sáng trưng. Nhưng nản quá,  lũ chim chẳng ngó ngàng tới chỗ vụn bánh mì, cứ tiếp tục vỗ cánh tuyệt vọng trong tuyết.

Ông cố chộp lấy chúng. Ông cố lùa chúng vào chuồng ngựa bằng cách đi quanh đàn, xua tay lia lịa, mồm thì xuỵt xuỵt liên tục. Lũ chim chỉ tản mác ra chứ chẳng chịu ùa vào cái chuồng sáng đèn ấm áp. Ông biết lũ chim sợ ông.

Ông suy luận : với chúng thì ta là kẻ lạ và đáng sợ. Ước gì ta có thể nghĩ ra cách chi đó, để giúp chúng hiểu rằng : chúng có thể tin cậy ta, rằng ta không cố ý làm hại chúng, mà chỉ đang cố gắng cứu giúp chúng. Nhưng cách chi đây ?

Ông nhủ thầm : “Ước gì ta biến thành chim, nhập bọn với chúng và nói ngôn ngữ loài chim. Thế thì ta có thể bảo chúng chớ có sợ. Khi ấy ta có thể dẫn dắt cả đàn đi vào chuồng ngựa an tòan, ấm áp. Ước gì ta là một con chim cùng đàn, để chúng thấy ta, nghe ta và hiểu được ta.”

Ông vừa nghĩ tới đó thì chuông nhà thờ đổ rền. Tiếng chuông vang vọng thấu tai ông, át luôn tiếng gió rít. Ông đứng đó lắng nghe những hồi chuông ngân vang khúc hoan ca mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và ông khuỵu xuống, quỳ luôn trên nền tuyết lạnh.

Ông chắp tay thì thầm : “Nay con hiểu rồi. Con đã hiểu vì sao Thiên Chúa phải xuống thế làm người.”

 (Nguồn : Louis Cassels story the parable of the birds, lấy theo bản dịch của Huệ Khải, đăng trong Tuần báo Công giáo & Dân tộc, số 1887-88, tháng 12.2012) 

 

@@@@@_BÀI 6_@@@@@

Thiên Chúa đã hạ cố đến mức ấy để có thể nói với loài người, thế mà thật đáng buồn, đối với một số Kitô hữu, Lời Chúa vẫn bị rẻ rúng, coi là xa thực tế cơm áo gạo tiền, như có lần nghe họ nói :

“Bảo tôi đi học lời Chúa hả ? Thế học rồi, Chúa có ban cho tôi cơm ăn áo mặc không ?”

Họ không dám phản đối, song chưa nhận thức được Lời Chúa là lương thực nuôi dưỡng linh hồn và cả thể xác nữa, như Đức Giêsu đã nói :

"Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4.4).

Vì thế, trong sự khôn ngoan vô cùng, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Lời Chúa làm Bánh mang đến Sự Sống, để phàm nhân như chúng ta không còn phải đói khát, thiếu thốn, èo uột nữa.

Lời Chúa thật sự là Thần Khí và Sự Sống !

Cụ thể là đã thấy xảy ra có nhiều bệnh nhân, thay vì uống thuốc ba lần trong ngày, thì họ lại đọc Thánh Kinh với niềm tin yêu mãnh liệt, và bệnh của họ được thuyên giảm rõ rệt. Đó là một trong nhiều chứng từ làm chứng Lời Chúa mang lại sức sống cho cả hồn xác con người.

Một điều cũng đáng tiếc nữa là khi nghe nói "Tôi là Bánh Sự Sống", rất nhiều tín hữu không biết là Chúa muốn nói về Lời Chúa mà lại chỉ thường hiểu về Mình Thánh Chúa. Hiểu như thế không phải là sai, song đúng hơn trong Phần Thứ Nhất này của Diễn từ, Đức Giêsu chưa nói minh bạch đến Mình Máu Thánh, Người sẽ nói ở Phần Thứ Hai. Chính vì hiểu đơn giản như thế, nên nhiều tín hữu thường chỉ quí trọng Mình Thánh : nào đi chầu Mình Thánh, nào rước kiệu trọng thể mừng lễ Mình Thánh, nào đến viếng Nhà Chầu nơi Chúa Giêsu âm thầm ngự v.v…, mà rất lơ là với Lời Chúa, chẳng đọc và học Thánh Kinh, và có khi lãng quên hẳn. Cũng có những gia đình mua sách Thánh Kinh hay sách Tin Mừng, song mua về để đó, có người cất vào kệ sách cùng với các sách đời khác, chẳng có chút gì tôn kính, có người đặt sách trên góc bàn thờ, mặc cho nó bụi bậm mốc meo… Đáng lẽ sách Thánh Kinh phải được đặt vào chỗ danh dự trong nhà. Và mỗi ngày cả gia đình cùng nhau đọc một đoạn Thánh Kinh với tình yêu như đó là Lời Thiên Chúa đang sống động.

Người Do Thái, một dân sống nhờ lời Chúa, mỗi khi họ không còn được Chúa phán dạy thì họ rất lo sợ ; mỗi khi Chúa đe dọa không ban lời cho họ nữa, họ coi đó là một sự trừng phạt đáng sợ nhất :

“Đây sắp đến những ngày
- sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -
Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này,
không phải đói bánh ăn,

cũng không phải khát nước uống,
mà là đói khát lời ĐỨC CHÚA.
Chúng sẽ thất thểu từ biển này qua biển nọ,
từ phương bắc đến phương đông,
chúng sẽ lang thang để kiếm tìm lời ĐỨC CHÚA

mà không gặp được.” (Am 8.11-12)

Quên lãng Lời Chúa còn là đánh mất nguồn sống và ánh sáng, đi lầm lũi trong tối tăm lạc hướng và sẽ bị loại khỏi Nước Trời bởi vì họ không có Kinh Thánh làm sao biết ý Thiên Chúa muốn gì để thi hành mà được sống ! Chẳng phải Chúa Giêsu đã phán :

“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa ! Lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. […] Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ (những kẻ không thi hành ý muốn của Thiên Chúa) : Ta không hề biết các ngươi ; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !” (Mt 7.21-23)

 Mà làm sao thi hành Ý muốn của Thiên Chúa, nếu không biết, không nghe, không đọc và học Thánh Kinh lời Chúa, trong đó Thiên Chúa bày tỏ Ý muốn của Người?

Thế mà nhiều người Công giáo ngày nay vẫn lơ là hay không thích nghe lời Chúa, thậm chí chẳng cần lời Chúa. Ngay cả lúc tham dự Thánh Lễ, được nghe Lời Chúa qua vị linh mục, họ cũng chỉ nghe như là tiếng gió thoảng bên tai, nghe tai này lọt ra tai kia, rồi không còn nhớ nữa ; lời Chúa như hạt giống gieo bên vệ đường, nên “quỉ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng” (Mt 13.4,19), bởi vậy chẳng đâm rễ, lớn lên, sinh hoa kết quả gì. Mỗi Chúa Nhật, họ đến nhà thờ rồi lại vô tâm ra về, chứ không mang Lời Chúa dạy về mà thực hành trong cuộc sống mình. Vì thế đời sống họ tệ đến nỗi chẳng khác gì người ngoại đạo, tuy vẫn xưng mình là con nhà có đạo.

Ước gì tất cả những ai đã yêu mến phép Thánh Thể, cũng hãy quí trọng Lời Chúa là Thần Khí và là Sự Sống.

***

Tiếp theo lời khẳng định “Tôi là Bánh Sự Sống”, Đức Giêsu hứa :

  1. a) "Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ." (6.35)

Vì Đức Giê-su nói với phụ nữ Samari : “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4.13-14)

Chúa nói : đến với Chúa thì không còn đói và không còn khát bao giờ nữa. Vì khi ta đến với Chúa, ăn lấy Bánh Sự Sống là chính Người và Lời Người ; uống dòng nước sự Sống là Thần Khí từ lòng Người chảy ra, các sự ấy trở thành mạch nước sự sống vọt lên trong ta, thỏa mãn mọi khát vọng tìm kiếm sự thật của tâm trí ta, lấp đầy những khao khát yêu thương của trái tim ta, khiến ta không còn thèm khát những sự đời này, chúng chỉ giảm khát của ta chốc lát rồi khát lại….

Quả thật : Chỉ Thiên Chúa, trọn tốt trọn lành, gồm có mọi sự thiện hảo… mới làm thỏa mãn khát vọng của ta. Còn tất cả mọi sự thế trần không thể làm được. Chỉ cần bình tâm một chút là cảm nghiệm được sự ấy. Kinh nghiệm đã cho ta biết : Những cái ta ưa thích và ham muốn nhất, cố tìm mọi cách chiếm cho được, chẳng bao lâu ta sẽ thấy nhạt nhẽo và chán ngán ! Thế rồi ta lại bắt đầu chạy theo một cái mới…Và cứ thế…cứ thế…

Đành rằng sống ở đời ta phải lo kiếm tiền, lo học hành, đỗ đạt, lo có công ăn việc làm, lo xây dựng nhà cửa, lo dựng vợ gả chồng  v.v… nhưng một khi đã đến với Chúa rồi, ta sẽ không còn khao khát và đôn đáo miệt mài tìm kiếm tất cả những cái đó, y như thể chúng là cứu cánh đời sống của mình nữa. Không đến với Chúa, dù có được tất cả những cái đó, con người tự trong thâm sâu lòng mình, vẫn không thấy thỏa mãn, vì sao ? Chỉ vì con người không chỉ có thể xác, còn có phần linh hồn mà các sự vật chất không làm thỏa mãn được.

Một nhân chứng lỗi lạc trong chuyện này – thánh Aogutinô – ông đã có được đủ mọi sự trên đời hầu như không thiếu sự gì, tình, tiền, danh vọng, lạc thú … nhưng cuối cùng đã thú nhận: “Thiên Chúa đã tạo dựng con cho Người, nên tâm hồn con luôn mãi khắc khoải, cho đến khi được yên nghỉ nơi Chúa!”

Điều đáng buồn là người ta không mấy khi chịu hiểu như thế! Người ta vẫn cứ đem hết sức lực và thời giờ lao vào việc tìm kiếm mọi thứ không làm cho họ thỏa mãn : họ vẫn luôn mãi đói khát !

Đói khát tiền tài, danh vọng, địa vị, tiện nghi…; họ theo đuổi, đổ vào mãi…nhưng cái túi tham dường như không đáy; họ đôn đáo tìm mọi của ngon vật lạ, nhưng những thứ ấy chỉ lấp đầy dạ dầy chứ tâm hồn vẫn trống rỗng ; họ khao khát tình yêu và tìm hưởng đủ mọi lạc thú mà chẳng bao giờ hạnh phúc … Nhưng họ không thể dừng lại được nữa. Giống như con rắn nuốt phải cái đuôi của mình, mà vẫn không hết đói, và có nguy cơ sẽ tự nuốt lấy mình cho đến chết. Trong một lớp học vào giờ Vạn vật dạy về loài trăn, rắn… cô giáo có kể rằng: có lần con rắn nuốt nhằm cái đuôi của nó, nhưng nó không thể nhả ra được, vì hàm răng của nó xuôi vào bên trong, nên nó cứ phải nuốt mãi cho đến khi…không thể nuốt được nữa và cuối cùng chỉ có chết mà thôi.

Vì thế, Chúa mời gọi chúng ta đến với Chúa, tin vào Chúa để được no đầy khỏi bị dày vò bởi đói khát.

 

@@@@@_BÀI 7_@@@@@

Nhưng vấn đề là :

CHÚNG TA ĐÃ ĐẾN VỚI CHÚA CHƯA ?

Đối với vị Thánh Sử Gioan, chữ “đến” thường đồng nghĩa với “tin”. Ta thấy rõ điều ấy trong câu Đức Giêsu nói ở trên : "Ai đến với Tôi sẽ…=  và kẻ tin vào Tôi sẽ…"

Vậy “đến” là thế nào ?

Có mặt chưa phải là đến. Ngày xưa, bao nhiêu người Do Thái đã có mặt trước Chúa Giêsu, các Thượng tế Hanna và Caipha, quận vương Hêrôđê, Philatô v.v…đã có mặt trước Chúa mà đâu phải họ đến với Chúa, tin Chúa ? Họ chưa thực sự gặp gỡ Chúa. Chỉ gặp gỡ thật sự khi hai tâm hồn rung lên cùng một nhịp đồng cảm, thành tri âm tri kỷ với nhau, tin tưởng nhau, yêu mến nhau.

Qua những việc chúng ta đọc kinh như máy móc, những lần dự Thánh Lễ vì luật buộc, bao lần rước Mình Thánh Chúa cách chiếu lệ v.v…, như thế làm sao có thể gọi là chúng ta đã thật sự đến với Chúa được ? Thảo nào …! Chúng ta vẫn cắm đầu cắm cổ mê mải tìm những sự vật đời này như những kẻ đói khát ! Hễ ai còn thấy mình miệt mài tìm kiếm các sự vật thế trần, như thể chỉ có chúng mới đem lại hạnh phúc cho mình, đó là dấu người ấy chưa thật sự đến với Chúa. 

SUY NIỆM

Khi chúng ta suy gẫm về Ngôi Lời là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả, uy linh mà lại hạ cố làm người phàm trần, sống giữa thế gian, nhưng “thế gian không nhận biết Người và cũng không chịu đón nhận Người” thì ta như thấy trong lòng có một nỗi ngậm ngùi, xót xa.

   Con người Giêsu phong sương ấy không nề gian khổ, dong ruổi trên khắp nẻo đường đời gió bụi để rao giảng Tin Mừng, để chữa lành, để trừ ma quỉ, để cứu giúp, giải quyết mọi nỗi khó khăn của loài người…, và cuối cùng là đem hết tình yêu thí mạng trên thập giá để đền tội cho ta.

Tất cả những điều ấy Chúa Giêsu đã làm hết, và có thể nói không còn gì có thể làm mà Người đã không làm, tất cả chỉ cốt đem lại cho chúng ta một cuộc đời hạnh phúc, cái hạnh phúc thật mà thế gian không thể đem đến cho ta được, để ta không còn phải đói khát, khổ sở chạy theo các sự vật tầm thường và phù vân tạm bợ trần gian…

Nghĩ đến công ơn của Người to tát như vậy, có làm tâm hồn ta lay động, xao xuyến không ? Ta có khóc thương Con Người Giêsu phải chịu đau khổ vì loài người trần gian ? Hay khóc cho chính ta đã bao năm quá thờ ơ, lãnh đạm, bội bạc trước Tình Yêu vô biên, vĩ đại ấy ?

Hơn 2000 năm về trước, Chúa Giêsu đã trách người Do Thái: "Các ông đã thấy (việc) Tôi (làm) mà không tin." (Ga 6.36). Còn chúng ta bao năm qua đã vinh hạnh được học hỏi mà thấy Chúa làm tất cả những việc ấy vì ta, nhưng có điều là ta đã tin thật vào Chúa và đến thật với Chúa hay chưa?

Vậy mà, mặc cho tình người đen bạc, Chúa vẫn đến với chúng ta với tất cả ân tình, vẫn chờ đợi chúng ta như kẻ tình si, vẫn tìm cách nhắc nhở, kêu gọi chúng ta hãy đến với Người :

 “Này Ta đã đứng bên cửa mà gõ ! Ai nghe tiếng Ta mà mở cửa, thì Ta sẽ vào với người ấy, và Ta sẽ dùng bữa tối với người ấy và người ấy với Ta.” (Kh 3.20). 

   Vì mong mỏi rằng, với ngọn lửa yêu đương cháy bỏng của Người, thì trái tim chai đá của chúng ta sẽ ra mềm mại, trí óc mờ đặc của chúng ta sẽ trong trẻo vẻ thông minh, khôn ngoan của Thần Khí, và chúng ta sẽ đến gần Người, thật sự gặp gỡ Người với trọn niềm tin và yêu mến, vì “ TIN là bước vào tương giao thân tình với Thiên Chúa.” (Sách : Đọc Tin Mừng theo Yoan, Tập III, tr.111)

   Thiên Chúa Cha yêu quí loài người biết bao, và đã thể hiện tình thương ấy qua Tình Yêu hữu hình của Chúa Giêsu khi Người nói rằng : "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy." (Ga 15.9). Chúa yêu thương chúng ta và Chúa cũng mong mỏi chúng ta đáp trả tình yêu Chúa. Chúa muốn ta thấu hiểu Lời Chúa, và thực hành Lời Chúa dạy, như những kẻ tri âm, tri kỷ hiểu nhau bằng trái tim chứ không qua môi miệng mà thôi.

   Thiên Chúa là Đấng giàu sang, phú quí tột đỉnh, Người đều có mọi sự cách sung mãn vì Người là Chúa tể vũ trụ này. Sự có mặt của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng “sự trình diện” của chúng ta trước Thánh Nhan Chúa, lại mang đến cho chúng ta nhiều ân sủng và phúc lộc: "Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác." (Ga 1.16)

Chính Chúa đã kêu gọi :

"Tôi là Bánh Sự Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ !" (Ga 6.35)

Đến với Chúa với trọn vẹn trái tim như thế cũng có nghĩa ta tin rằng: Người là Tất Cả ! Thế nên chúng ta sẽ không còn cảm thấy đói khát, thiếu thốn bất cứ điều gì, sự gì khác nữa. Bởi vì:

“Tất cả khát khao và ước vọng sâu thẳm nhất của tâm linh họ đã được thỏa mãn đầy đủ. Dĩ chí họ còn coi sự đói khát và cái chết phần xác như không còn ý nghĩa quyết định. Vậy chính Đức Giêsu mới là Đấng mà mọi người phải đến, để được bồi dưỡng sức mạnh và sự sống của mình, mà sự chết không diệt được.” (Sách ĐTMTYoan đã dẫn, tập 3, tr.150)

Còn gì hạnh phúc hơn khi chúng ta được sống trong vòng tay yêu thương, che chở của Chúa, dù cuộc đời có khó khăn, vất vả nhưng ơn Chúa sẽ giúp mọi sự trở nên nhẹ nhàng, vì Chúa bảo vệ, đỡ nâng ta trong mọi nghịch cảnh. Trong Chúa, chúng ta luôn được niềm vui và bình an tuyệt diệu của trời cao, vì Chúa là nơi an nghỉ, là Bánh mang đến Sự Sống, dưỡng nuôi tất cả những ai ĐẾN với Chúa, được no thỏa không còn phải âu lo, đói khát nữa.

"Tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi, hồi sức…" (Mt 11.28-29)

Tóm lại, tất cả vấn đề ở đây là chúng ta có Tin và Đến với Chúa thật sự hay không ?

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, Chúa luôn chờ đợi và mời gọi mọi người đến với Chúa. Chúng con hoan hỉ những tưởng đã đến với Chúa rồi, vì bây giờ chúng con đã biết yêu quí Thánh Kinh, hàng ngày chúng con đã biết đọc Thánh Kinh, cũng như gắng áp dụng Lời Chúa vào trong cuộc sống để hoàn thiện mình, chúng con đã…và đã…

Nhưng lạy Chúa, khi suy gẫm tình yêu tuyệt đỉnh của Chúa trên thập giá, thì chúng con nhận ra mình thật bất xứng, đã chưa bao giờ đến với Chúa cho đủ, và chẳng bao giờ có thể đủ được. Tình yêu của Chúa thật cao cả, vĩ đại lại thẳm sâu, nhiệm mầu vì đó là "tình yêu vượt quá sự hiểu biết của loài người" chúng con.

Niềm tin của chúng con đối với Chúa thì hời hợt, nông cạn, ít ỏi lắm. Tình yêu của chúng con đối với Chúa thì nhỏ nhoi, như hạt cát trong đại dương, mong manh như bọt nước mau tan giữa mặt biển khơi.

Lạy Chúa, Chúa là núi đá, thành trì cho chúng con tựa nương. Xin Chúa ban cho con thêm niềm tin, thêm tình yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn.

Xin cho con được đến học với Chúa hiền lành và khiêm nhường, đơn sơ và bé nhỏ. Xin cho trái tim con khao khát Chúa, là Bánh Sự Sống, là Nước Hằng Sống trong bữa yến tiệc huy hoàng ở thiên cung, để linh hồn con được no đầy ơn phúc của Tin Mừng vĩnh cửu.

Xin cho con được đến với Chúa thật sự, thật sự phó thác cuộc đời mình trong tay Chúa, như trẻ thơ tin tưởng trọn vẹn vào tình thương và quyền năng của Cha trên trời.

Nhất là cho con vững tin rằng đối với chúng con: CHÚA LÀ TẤT CẢ. Amen.

*  *

*

 

@@@@@_BÀI 8_@@@@@

Đức Giêsu nói tiếp :

Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi, đều sẽ đến với Tôi”,

và Người hứa rằng : “Ai đến với tôi,

b) Tôi sẽ không loại ra ngoài và để hư đi. (6.37,39)

Khi nghe Chúa nói như vậy, ta cảm nhận niềm hạnh phúc được Chúa yêu thương, chăm sóc, giữ gìn : Nào là Chúa Cha lấy chúng ta từ giữa thế gian tội lỗi khốn nạn mà trao ban cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đón nhận lấy và không bao giờ loại trừ chúng ta, vì Người vâng lệnh Cha đã truyền là không được loại bỏ hay làm hư đi sự gì (c.39), bởi vì Thiên Chúa Cha là tình yêu bao dung, không muốn ai phải chết (Kn 1.13; Ed 18.23,32). Người là Chúa tể hiếu sinh (Kn 11.26), bởi vậy dù loài người sa ngã phạm tội và “là người của ma quỷ” (1 Ga 3.8), đáng phải chết trầm luân muôn kiếp (Eph 2.1), nhưng Người cũng không để cho chết, mà luôn kiên nhẫn, chờ đợi loài người hối cải, để Người giải thoát họ khỏi thống trị của quỉ dữ (Dt 2.14-15) mà được sống (Ed 18.23). Chỉ trừ những kẻ ngoan cố nhất định từ chối đến cùng, không chịu hối cải và nhận ơn cứu độ.

   Còn cứ theo như tính loài người, Chúa Giêsu có thể tức giận mà loại bỏ chúng ta, vì Người thấy ta chưa đủ “tiêu chuẩn”. Chẳng phải có lần ta thấy Người nộ khí xung thiên cầm roi đánh đuổi những người buôn bán gây ô uế nơi Đền Thờ; hoặc khi Chúa nổi giận khiển trách tông đồ Phêrô là “Satan xéo đi ra sau”; hay khi quở mắng hai ông Gioan và Giacôbê, không có tinh thần khoan dung của Thầy thánh, đã tức tối muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt làng người Samari, vì đã không tiếp đón Chúa…(Lc 9.54)

   Đúng vậy, Chúa Giêsu đã từ trời xuống không để làm theo ý riêng mình mà là theo ý Cha (6.38). Mà ý của Cha là:

"Không được loại bỏ và để hư đi điều gì" (6.39).

Chúng ta hãy suy gẫm để thấm tình Chúa Cha yêu thương chúng ta dường nào. Chúa yêu thương chúng ta không chỉ với tình một người Cha, mà còn như người mẹ chia sẻ cho ta phần máu thịt mình, để tạo nên tấm hình hài chúng ta, và nuôi dưỡng chúng ta bằng những giọt sữa, bằng tình yêu âu yếm của mẹ.

Hỏi rằng có người mẹ nào lại không thương con? Có người mẹ nào lại bỏ đứa con bà đã cưu mang chín tháng mười ngày trong dạ, và ba năm cho bú mớm? Tình yêu của mẹ bao la như “biển Thái Bình” ; không hề vơi cạn “như nước trong nguồn chảy ra”…

Thế mà, "cho dù có người mẹ nào (tệ đến nỗi) nỡ bỏ con mình, thì – theo lời tiên tri Isaia 49.15 – Ta, Thiên Chúa, ta không hề bỏ các ngươi". Một tình yêu khắc khoải đợi chờ, vì loài người mê đắm thế gian đi xa lạc khỏi vòng tay yêu thương của Người…biết bao giờ mới biết quay trở lại.

   Trong một đoạn Thánh Kinh khác, Chúa Giêsu còn khẳng định  một cách mạnh mẽ hơn rằng Người cũng như Chúa Cha sẽ không bỏ rơi chúng ta :

"Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi; Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi." (Ga 10.27-28)

E rằng người nghe vẫn chưa thấy đủ bảo đảm, Đức Giêsu thêm câu này :

"Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho Tôi thì lớn lao hơn tất cả mọi sự, và không ai giật chúng khỏi tay Chúa Cha được." (Ga 10.29)

Ai có thể cướp, có thể giật chúng ta là chiên của Chúa khỏi tay Chúa Giêsu, khỏi tay Chúa Cha ?

Ma quỉ ? Thế gian ? Xác thịt ư ?

Ba thù đó đáng sợ thật, chúng là những kẻ thù nguy hiểm nhất của loài người. Nhìn về quá khứ đời mình, hầu như ai cũng thấy mình bị ma quỉ cám dỗ, thế gian lôi cuốn, xác thịt đòi hỏi, làm ta mắc vào đủ thứ đam mê dục vọng, ham muốn… mà vấp ngã, mà phạm tội không biết bao nhiêu tội lỗi…, khiến ta sợ hãi : không biết mình có mất linh hồn hay không, vì hình như với tình trạng kể trên, mình thấy như một chân đã ở dưới hỏa ngục rồi… (vì “ai phạm tội, kẻ ấy là người của quỉ dữ”, 1 Ga 3.8).

 Tuy vậy, đừng nhìn lui mà sợ, mà nản lòng, hãy nhìn về phía trước, hay đúng hơn, nhìn lên Chúa. Thử hỏi, khi lái xe, mà ta cứ chỉ nhìn chằm chằm vào kính chiếu hậu, thì cái gì sẽ xảy ra ?

Đừng nhìn lui. Hãy nhìn lên Chúa.

Vì khi ta đến và tin vào Chúa là ta đã tìm được nơi nương náu vững chắc nơi Chúa, chẳng còn gì có thể giật chúng ta khỏi tay Chúa. Các người trong Cựu Ước cũng chẳng hơn gì chúng ta, nhưng họ đã tin vào Chúa, và tìm được nơi ẩn náu nơi Chúa chống lại mọi địch thù. Vì thế, qua các Thánh vịnh, họ thường hay ca ngợi Chúa là "núi đá cho tôi nương tựa", là "chốn ẩn náu vững chắc" cho tôi trong mọi cơn khốn khó, là "khiên mộc che đỡ cho tôi" trước mọi tên lửa của những kẻ địch thù hung tợn v.v… (Tv 7.11; 18.3; 32.7; 46.2; 92.16; 119.114 v.v…)

Thánh Phaolô đã liệt kê tất cả những kẻ thù cũng như mọi khó khăn, nguy nan, thử thách…, và kết cục ông nhận định chẳng có cái gì có thể giật chúng ta ra khỏi Chúa chúng ta cả :

"Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?... Nhưng trong mọi thử thách ấy chúng ta dư sức toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, Thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta." (Rm 8.35-39)

Nhưng buồn thay,

CÓ MỘT KẺ CÓ THỂ GIẬT CHÚNG TA

RA KHỎI TAY ĐỨC KITÔ

Phải, có một kẻ có thể làm được chuyện ấy ! Cho dù chúng ta đã can trường vượt qua được các gian nan, đau khổ, thử thách, thắng được ma vương ác quỉ... Nhưng trớ trêu thay! Chúng ta lại dễ dàng quị ngã bởi kẻ thù là chính mình. Lời cảnh cáo của Chúa còn đang vang vọng trong các thánh đường trên trần gian này:

"Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai ghét mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời." (Ga 12.25)

"Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, hãy vác lấy thập giá của mình mỗi ngày mà theo; quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ tìm được mạng sống ấy." (Lc 9.23-24)

“Yêu quí mạng sống mình” hay “muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”nghĩa là thế nào ?

Đó là khi ta không chịu hy sinh, từ bỏ mà cứ nuông chiều tính xác thịt lăng loàn, và để nó chi phối, thống trị cuộc đời mình. Nào là lòng tôn thờ tiền bạc, tôn thờ nhan sắc, mê đắm xác thịt, tham lam ham hố vật chất, say mê ăn uống, nhậu nhẹt…; nào là tự ái, kiêu ngạo, bất hòa, chia rẽ, ghen tị, nóng giận, ích kỷ, nói hành, nghĩ xấu, xét đoán, chỉ trích, phê bình…; nhất là lòng tin vơ, thờ quấy, mê tín dị đoan, bói toán, tử vi, bùa ngải…: chắc chắn các đam mê ấy sẽ làm ta lìa bỏ Chúa mà lâm vào họa diệt vong !

Ông Môsê đã ngăm đe dân Do Thái và gián tiếp cả chúng ta nữa :

“Hôm nay tôi (Môsê) truyền cho anh em phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống,.… và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, chúc phúc cho anh em …. Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết : chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, … tôi lấy trời đất làm chứng…” (Đnl 30.16-19)

Nói tóm, chúng ta không biết làm chủ bản thân, không từ bỏ những đam mê, ước muốn tội lỗi để vác lấy ách luật của Chúa, tức là vác thập giá mình mỗi ngày mà đi theo Chúa.

Vác thập giá mình “mỗi ngày”, không phải là bằng lòng chịu đựng các bệnh tật, như chúng ta thường hay nói để an ủi các bệnh nhân: “Xin hãy vui lòng vác thánh giá”, vì đâu phải ngày nào cũng đều có bệnh tật để vác, mà là muốn nói đến sự từ bỏ mình, mà việc này là xảy ra mỗi ngày : bỏ tội lỗi, đam mê bất chính, bỏ các dục vọng, các ham muốn trái phép, để  tuân giữ các luật Chúa … Các hy sinh từ bỏ đó quả thật là rất nặng nề đau đớn, cho nên coi như thể vác thập giá vậy.

Còn nếu chúng ta buông mình theo tính xác thịt, mê đắm dục vọng, và chìm sâu trong tội lỗi thì đến một lúc nào đó, gánh nặng các tội lỗi và những xấu xa đó sẽ “lôi kéo” ta lìa xa Chúa, lúc ấy, ta đã đâm ra ù lỳ chai đá, không còn khả năng hay không còn muốn nghe theo Chúa nữa. Rõ ràng là chính chúng ta tự giật ta ra khỏi tay Chúa, chứ không phải thế lực ma vương quỉ dữ hay các gian truân, khốn khổ…

Như vậy chúng ta đã thấy rõ câu trả lời cho câu hỏi: Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tay và tình yêu của Đức Kitô?

Xin thưa : Chính chúng ta !

Song mặc dù yếu đuối và đầy tội lỗi, chúng ta vẫn còn niềm trông cậy và tin tưởng vào Thánh Ý Cha sẽ không bao giờ loại bỏ chúng ta, là những người mà Cha đã ban cho Chúa Giêsu (cc.37tt). Chỉ cần chúng ta cảnh giác kẻ thù ‘chính mình’ hết sức nguy hiểm đó.

Vậy không phải chỉ “đến và tin” vào Chúa là "tự động" vào Thiên Đàng, mà phải biết ra sức, nỗ lực từ bỏ mình, biết đi lối hẹp dẫn đến sự sống thật (Mt 7.13-14).

Như có lần đã nói, bởi tin, ta đã được Thiên Chúa ban cho ta Sự Sống Đời Đời, ví như được Chúa ban “Cây Sự Sống”, phần của ta bây giờ là phải làm sao cho Cây Sự Sống đó đừng bị chết đi, trái lại phải vun trồng, chăm sóc, tưới bón bằng những sự hi sinh, từ bỏ, hãm mình, giữ luật Chúa và làm các việc lành, đạo đức, đọc kinh, lần hạt, dự Thánh Lễ…cho cây ấy được phát triển và sinh hoa quả xum xuê… Người ta gọi đó là cộng tác với ơn Chúa. Thánh Aogutinô viết : “Thiên Chúa có thể tạo dựng nên ta mà không cần có ta (cộng tác), nhưng Thiên Chúa không thể cứu ta nếu không có ta (cộng tác).” 

NGUYỆN CẦU

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, biết đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa và sống theo Thần Khí hướng dẫn, để chúng con được nên hoàn thiện mỗi ngày một hơn như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện, để rồi một ngày nào qua khỏi đời này chúng con có thể được vinh hạnh hội ngộ cùng Cha trên trời. Amen.

 

***

 

@@@@@_BÀI 9_@@@@@

Theo kinh nghiệm của nhiều người, nhất là những bậc cao niên, ngoài kẻ thù là chính mình, cũng không nên coi thường những khó khăn, thử thách, đau đớn bệnh tật bên ngoài, hay nỗi đau khổ bên trong tâm hồn, vì trong những lúc ấy, nhất là khi chúng kéo dài, cơn cám dỗ lìa bỏ Chúa, bỏ đức tin, ngã lòng trông cậy, mất tin tưởng, cũng rất mãnh liệt, vũ bão, ghê gớm đến nỗi ta dường như thấy Chúa lánh mặt, Chúa không còn hiện diện trong cõi đời đầy khổ ải này nữa. Không còn Chúa nữa ! Không còn ai cứu giúp ta nữa ! Vô vọng và lạc lối trong đêm ! Những lúc ấy ta rất dễ rơi vào nỗi hoài nghi cùng cực, chán nản và chìm trong tuyệt vọng, nếu chúng ta không trang bị cho mình Lời Chúa !

Lúc ấy, phúc cho ta nếu được một câu Lời Chúa chẳng biết ta đã nghe từ bao giờ, chợt nổi lên, lòe sáng trong tâm trí đang quay cuồng trong mịt mù giông bão, thế là ta thấy được con đường mà đi, và sức mạnh để chống chọi lại với cơn cám dỗ buông trôi. Vì thế, luôn luôn ta phải xin Chúa cho ta Ơn Đức Tin để tin như trẻ thơ tin tuyệt đối vào cha nó; và biết cầu xin như bố đứa trẻ bị động kinh: "Con tin, nhưng xin Chúa hãy tăng thêm đức tin yếu kém của con" (Mc 9.24) ; và ta nên nhớ rằng: "Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát." (Mt 10.22) Lời này đã mang lại cho chúng ta sự khích lệ lớn lao để có thể tiếp tục cuộc hành trình về Nước Trời.

*   *   * 

                           

Đã không loại trừ và để ta hư đi, Đức Giêsu còn hứa cho ai đến và tin vào Người thì được :

  1. c) Sự Sống Đời Đời (6.40)

"Thật vậy, Ý của Cha Tôi là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con thì có sự sống muôn đời và Tôi sẽ cho họ được sống lại trong ngày sau hết." (6.40)

Trước hết nên biết rằng tính từ “muôn đời” hay “đời đời” dễ làm cho ta hiểu lầm rằng :

  1. a) Sự Sống Đời Đời chỉ là sự sống của thân xác kéo dài không bao giờ hết, tức là trường sinh bất tử theo nghĩa bình thường dân gian vẫn hiểu. Người đời vẫn mong hưởng được sự bất tử ấy, và người ta đã tìm đủ mọi cách, luyện đủ mọi thứ kim đan để uống vào mong trường sinh bất tử, không phải chết bao giờ. Người ta không ngờ rằng trường sinh bất tử thể xác sẽ là một gánh nặng, một cực hình, nếu không có sự sống thần linh của Thiên Chúa trong nó. Có một bà già kia, đau ốm liệt giường đã nhiều năm, làm khổ cho con cháu, được linh mục đến thăm, bà xin “Cha cầu Chúa cho con được mau chết, vì đau đớn cực khổ quá! Con xin Chúa cho con chết mà sao Chúa mãi không cho!” Mang một thân xác già nua, bị hết bệnh nọ đến tật kia, tứ chi đau nhức, ăn không thấy ngon, ngủ cũng không được yên v.v…Cứ thử tưởng tượng xem một cuộc sống kéo dài như thế mãi mà không chết được, vì đã đạt sự bất tử… chẳng phải là một cực hình khốn khổ hết chỗ nói sao !
  2. b) Sự Sống Đời Đời cũng không phải là sự sống của linh hồn thiêng liêng không có thể xác. Mà là sự sống cho cả hồn lẫn xác, cho toàn diện con người, đem lại hạnh phúc hoàn hảo cho họ.
  3. c) Cũng đừng hiểu Sự Sống Đời Đời là sự sống Chúa ban cho ta sau này, sau khi chết sẽ được hưởng ở trên Thiên Đàng. Nhưng cần phải hiểu đó là Sự Sống thần linh mà ta được thông chia để hưởng ngay từ đời này trong tương quan hiểu biết và yêu mến Chúa.

Sự Sống Đời Đời ấy là Sự Sống mà chính Thiên Chúa đang sống.

Chúng ta thử tưởng tượng một chút: Thiên Chúa đang sống như thế nào trên Cõi Vĩnh hằng ? Người sống hạnh phúc vô cùng vô tận, sống trong vinh quang, trong ánh sáng huy hoàng, Người không thiếu một thứ gì, hoan lạc không hề vơi v.v… Đấy, chính sự sống ấy của Thiên Chúa mà ngay từ trần gian này chúng ta được thông phần.

Nhìn vào cuộc đời các thánh, các người lành thánh, thì thấy họ cảm nghiệm được Sự Sống Thiên Chúa mà họ được thông phần, nên họ luôn được bình an, luôn thanh thản, luôn hạnh phúc, dễ dàng tha thứ những xúc phạm, sống chan hòa yêu thương mọi người, cho dù cuộc đời hằng gây đủ chuyện rắc rối, dù gặp những thử thách, gian truân, khốn khổ hay bị bách hại, ngược đãi, lòng họ vẫn an nhiên tự tại, giống như các con cá dưới biển sâu, vẫn tung tăng lượn lờ vẫy vùng, mặc cho trên mặt biển sóng gió bão bùng, giông tố gầm thét…Người ta sẽ nói rằng họ đang sống dưới trần gian bể khổ mà như đã sống trên Thiên Đàng rồi vậy.

SUY GẪM

Khi suy gẫm sâu lắng Lời Chúa, ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa thật vô biên. Người muốn thông chia sự sống thần linh, sự sống của Người trên cõi vĩnh hằng hạnh phúc cho loài người, nên Người đã thực hiện tất cả vì chúng ta, với biết bao kỳ công hết sức lạ lùng :

Từ bỏ vinh quang vui sướng chốn vinh quang, hạ cố xuống trần gian, sống cuộc đời nghèo khó, thanh bần, vất vả rao giảng Tin Mừng, dạy dỗ cho mọi người biết sống sao cho xứng đáng công dân Nước Trời, Người còn phải uống chén đắng Mùa Thương Khó, Tử nạn và lên tới đỉnh Phục Sinh để đưa mọi người ra khỏi Sự chết, được sự sống mới, và sau hết ban Mình Máu Thánh để dưỡng nuôi loài người đủ sức đi không gục ngã, trên con đường lữ thứ trần gian về tới bến Thiên Đàng.

Bao nhiêu kỳ công là bấy nhiêu ân tình Thiên Chúa dành cho chúng ta đến không thể nói thành lời. Trái tim ta phải rung động, bồi hồi, chết lặng trước tình yêu tuyệt đỉnh của Chúa Giêsu biểu lộ ra trên Thánh Giá. Tâm hồn ta phải thinh lặng trước tình yêu Thánh Thể, là tình yêu hy sinh, khiêm nhu trong hình bánh đơn sơ, bé nhỏ trái nghịch với vinh quang cao cả của Chúa trên các tầng trời.

Thiên Chúa đã làm tất cả cho chúng ta, ngõ hầu chúng ta có thể vững mạnh trên đường trở về với cõi sống đời đời hạnh phúc.

   Hàng ngày nếu ta dành chút thời gian mà suy gẫm, ta mới có thể cảm nghiệm được chiều sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa, để có thể đạt được chiều sâu của đạo, chứ không chỉ dừng lại ở vài việc đọc kinh, hay đôi việc đạo đức …

  ÁP DỤNG

   - Gia đình và giáo xứ ta có nhận được sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi không ?

   - Có nhớ mình đã nhận được Sự Sống của Chúa như Chúa đang hưởng trên Cõi vĩnh hằng, để mà tha thứ không còn cưu mang giận ghét mãi ; không còn ganh tị, nói xấu, dèm pha, xét đoán, chia rẽ, xích mích, tranh giành ảnh hưởng… trong giáo xứ, trong hội đoàn ? Vì như thế ta làm cho Sự Sống Đời Đời thành vô hiệu.

- Nếu mọi thành viên đều lãnh được sự sống của Thiên Chúa thì trong gia đình có hạnh phúc không ? Nếu không hạnh phúc thì vì sao ? Có phải vì tham vọng, ganh tị, giận ghét, ích kỷ…? Khi bất hòa, va chạm… có biết nhận ra khuyết điểm, yếu kém của mình để sửa chữa ?

   - Ta có sự sống của Chúa thì tại sao Tin Mừng không triển nở trong gia đình, trong khu xóm, trong giáo xứ ? Tại sao những nơi đó giống như khu đất bỏ hoang, không ai ra tay rẫy cỏ, không nỗ lực phát quang bụi rậm. Nhất là tại sao ta sống không khác gì người không biết Chúa ?

***

@@@@@_BÀI 10_@@@@@

SỰ SỐNG TRẦN GIAN

LÀ  SỐNG ĐỂ MÀ CHẾT

Sự sống trong lãnh vực tự nhiên trần gian đáng được gọi là “chết” hơn là “sống”, vì nếu không có Sự Sống Thiên Chúa trong mình, vốn là sự sống trường tồn vĩnh cửu, thì gọi nó là “chết” hay “sống để mà chết” như các loài động vật, thì đúng hơn. Có lần Đức Giêsu đã nói với người thanh niên muốn đi theo Người, song lại xin hoãn một thời gian để anh chôn cất cha già : "Anh hãy đi theo Ta, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ." (Mt 8.22). Câu nói xem ra có vẻ mâu thuẫn, lại thật đúng một cách sâu xa : “kẻ chết” làm sao có thể đi chôn kẻ chết khác được ?

Hóa ra Chúa muốn bảo, trước mắt Thiên Chúa, kẻ không có Sự Sống Thần Linh vĩnh cửu của Chúa trong tâm hồn là “kẻ chết”, đang khi về mặt thể xác họ vẫn sống, vẫn làm việc, và ăn uống, vui chơi như mọi người khác, cũng vì thế họ có thể đi chôn kẻ chết của họ.

Bởi đâu mà họ đã bị chết ?

Chắc chắn không bởi Thiên Chúa, vì Người không tạo ra sự chết :

“Thiên Chúa không làm ra cái chết,
chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong.” (Kn 1.13)

Từ thuở ban đầu, Người sáng tạo con người “bất tử” :

“Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Người đã làm ra họ như hình ảnh của bản tính (bất diệt của) Người.” (Kn 2.23)

Nếu theo lời Thánh kinh, Thiên Chúa tạo dựng loài người bất tử,  vậy sự chết do đâu mà có ?

Thưa : Do ma quỉ xúi giục mà phạm tội, cắt đứt khỏi nguồn sống là Thiên Chúa !

Thật vậy, ma quỉ không những chống nghịch với Thiên Chúa, nó cũng ganh tỵ ghen ghét với loài người, được tạo dựng kém thua nó, song lại được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt, cho nên nó xúi giục hai ông bà nguyên tổ chúng ta ở vườn Địa Đàng nghe theo mưu độc của nó mà phản nghịch, và thế là đã đem sự chết vào thế gian :

 “Chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian.
Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.”

                                                               (Kn 2.24)

“Vì một người duy nhất (là nguyên tổ Ađam), mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết ; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rm 5.12).

Buồn thay, bị nguyên tổ truyền cho cái gien tội lỗi, cả loài người chúng ta sau đó đều đã phạm tội phản nghịch với Thiên Chúa, và tội lỗi ấy đã tách lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa là nguồn sự sống, vì vậy “sự chết đã lan tràn tới hết mọi người”.

Còn hơn thế nữa, từ bỏ Thiên Chúa là Chúa tể đời mình, loài người lôi kéo theo cả thế giới rơi vào tình trạng nô lệ sự thống trị của ma vương quỉ dữ :

“Tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần.” (1 Ga 5.19 ; xem Lc 4.6).

Cho nên có thể nói khi phạm tội, ta rơi vào tay một tên bạo chúa tàn độc và hung tợn khủng khiếp là quỉ dữ Satan :

Ai phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ,
vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu.” (1 Ga 3.8)

 “Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt
con cái ma quỷ với con cái Thiên Chúa :
(đó là) phàm ai không sống công chính…” (1 Ga 3.10)

Có người thắc mắc : Chúa quyền phép vô cùng, sao Người không tiêu diệt ma quỉ cứ để chúng xúi giục loài người phạm tội ?

Xin trả lời : Thiên Chúa không tiêu diệt ma quỉ, cũng như không tiêu diệt loài người chúng ta khi ta phạm tội, tuy Người có dư sức làm như vậy, nhưng Người không làm vì Người không bao giờ hủy diệt cái gì Người đã tạo dựng, [1] điều này đã được Thánh kinh minh chứng :

“Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu (tồn tại)” (Kn 1.14) ;

“Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu,
không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra,

vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên.”

                                                                (Kn 11.24)

Vả lại, Chúa sẽ mâu thuẫn với chính mình nếu Chúa hủy diệt họ, bởi lẽ Chúa đã tạo dựng Thiên thần có tính thiêng liêng bất diệt, và loài người có linh hồn bất tử, vậy nếu nay Người diệt họ thì sao còn gọi là đã dựng nên họ trường tồn bất diệt ? Dù sau đó Thiên thần phản nghịch cùng Chúa mà thành quỉ, hay loài người phạm tội mà sa hỏa ngục, thì họ vẫn không mất đi tính bất tử bất diệt.

 Đã không tiêu diệt chúng ta, Thiên Chúa lại còn ra sức cứu ta, giải thoát ta khỏi tay ác quỉ hung tàn, cứu ta thoát vòng kềm tỏa của sự chết và cho ta được sống và sống lại. Để làm việc ấy, Thiên Chúa đã phải trả một cái giá rất đắt :

“Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.”

                                                       (1 Cr 6.20 ; 7.23).

Đúng vậy, Thiên Chúa là Đấng Thượng trí khôn ngoan vô cùng vô tận, thế mà đã không có thể nghĩ ra cách nào khác, ngoài cách phải chịu đau khổ và chết :

Vốn là Đấng bất tử, Chúa phải xuống thế mặc xác loài người, để nhờ có thân xác ấy, Chúa có thể chết mà thắng ma quỉ, tiêu diệt quyền lực nó và giải thoát chúng ta :

“(Nhờ mang thân xác huyết nhục), Đức Giê-su có thể chết, mà tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ.” (Dt 2.14-15)

Nhưng nên nhớ : cái chết cứu chuộc của Chúa Giêsu không phải cái chết bình thường (chết vì bệnh tật, chết vì già yếu…), song chết bởi vâng phục mà chịu khổ hình thập giá :

Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa …

nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang

mặc lấy thân nô lệ,[…]

Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi

bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2.6-8)

Tại sao Đức Giêsu phải chết khổ hình như vậy mới cứu độ loài người chúng ta được ? Đó là vì :

"Người phải trải qua nhiều đau khổ (và cả cái chết nữa) mới học biết vâng phục; và khi (nhờ hoàn toàn vâng phục) bản thân Người đã được thập toàn, Người (mới) trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người." (Dt 5.8-9).

Ađam đã bất tuân, nên cả loài người phải chết, bây giờ muốn cứu loài người, Đức Giêsu phải đi ngược lại là vâng phục, vâng phục để chữa tội bất tuân phục, Người đã vâng phục cách tuyệt đối, đến nỗi dù đau khổ mấy và cả phải chết nữa, cũng vẫn cứ vâng phục, và chính nhờ vâng phục đến mức ấy mà Người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa và được trở nên nguồn suối cứu độ cho nhân loại.

Suy như vậy mới thấy sự bất tuân mà phạm tội là chuyện trầm trọng đáng sợ vô cùng, vì để cứu thoát ta, một Thiên Chúa đã phải chết mới thực hiện được ! Một cái giá vô cùng đắt. Chứ không phải chuyện bỡn, như có người nói : “Phạm tội là như dẫm phải gai, nhổ gai đi là xong, chứ có gì đâu ?” Nói như vậy là bởi vì không ý thức được sự trầm trọng đáng sợ đó, cho nên người ta cứ nhởn nhơ phạm tội cách vô tội vạ !

***

@@@@@_BÀI 11_@@@@@

Cứu độ vĩnh cửu ấy không chỉ cứu phần hồn, mà cứu độ toàn vẹn hồn xác con người, bởi vậy, sau khi hứa ban Sự Sống Đời Đời ở vế đầu (6.40a), Đức Giêsu chưa lấy làm đủ, Người ban thêm lời hứa này ở vế cuối (6.40b):

đ) Và Tôi sẽ cho họ Sống lại trong ngày sau hết (6.40b)

Thỉnh thoảng, đứng trước thi hài của một thân nhân hay bạn hữu vừa nằm xuống, ta bùi ngùi thương tiếc và chợt nhớ đến thân phận bèo bọt của mình :

"Con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị cắt đứt ngang hàng chỉ…" (Ca vãn Êzêkya, trong sách Is 38. 12).

Sống trong một môi trường xã hội tôn thờ thân xác, sặc mùi chủ nghĩa hưởng thụ tối đa, ta cũng như mọi người dễ quên mình một ngày nào đó bất chợt rồi cũng phải ra đi…Mặc Lời Chúa nhắc nhở, ta cứ lao mình vào dòng xoáy cuộc đời, bỏ nhà thờ, lơ là với Chúa, nhiều khi còn bóp nghẹt tiếng lương tâm, để lo kiếm tìm bằng mọi giá cho được tất cả những gì làm cho cuộc đời mình thỏa mãn, sung sướng tối đa, cho bằng anh bằng chị…mà quên mất :

"Đồ ngốc! Đêm nay thôi, người ta sẽ đòi mạng ngươi lại, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?" (Lc 12.20).

Quả thật giờ chết, là một cuộc ra đi không bao giờ trở lại, mọi sự ta có nơi trần gian sẽ bị bỏ lại tất cả, không mang theo được một mảy may gì cả :

"Trần trụi tôi đã lọt lòng mẹ, thì cũng trần trụi tôi sẽ vào lòng đất." (Sách ông Gióp 1.21),

nếu ta không có niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại vì để ta được Sự Sống Đời Đời, là kho tàng độc nhất ta có thể giữ được, thì khi nhắm mắt lìa trần ta còn lại cái gì?

Nhưng nếu ta nhờ tin vào Chúa Giêsu mà được Sự Sống Đời Đời, chúng ta sẽ thấy rằng trong Sự Sống Đời Đời ấy ta sẽ có tất cả, và còn có những gì "mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng người phàm không hề dám ao ước" (1Cr 2.9).

Mà tuyệt vời nhất là những cái Thiên Chúa dành để cho ta trên Cõi hằng Sống ấy, không chỉ là những điều thiêng liêng trừu tượng, mà còn là những gì cả thân xác chúng ta cũng được hưởng, vì thân xác ta cũng sẽ được sống lại ! Trong kinh Tin Kính chúng ta vẫn tuyên xưng : Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, đó là dựa vào lời Đức Giêsu đã hứa:

"Ai trông thấy Người Con và tin vào Người thì có sự sống muôn đời và Tôi sẽ cho họ được sống lại trong ngày sau hết." (Ga 6.39-40)

Và để người ta tin Người có quyền năng cứu khỏi sự chết, Đức Giêsu đã làm một phép lạ tỏ tường cụ thể trước mắt mọi  người : cho anh Ladarô chết chôn đã 4 ngày (tức là chết thật) được sống lại ra khỏi mồ, vì Người tuyên bố :

“Chính Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.  Ai sống và tin vào Ta, sẽ không phải chết bao giờ." (Ga 11.25-26).

Vì sao ?

Thưa : Vì “Thật, tôi bảo thật các ông : ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5.24)

Cậy vào lời Chúa hứa, và xác tín như đinh đóng cột điều ấy, thì ngay bây giờ chúng ta phải mạnh dạn nói với chính mình rằng :

“Tôi tin nên sẽ không bao giờ phải chết nữa !

Vì tôi sẽ sống lại !”

Tại sao lại phải nói với chính mình ? Tại vì sống trong trần gian, chúng ta thấy nhan nhản trước mắt bao nhiêu người chết, riết rồi chúng ta bị nhiễm tư tưởng phải chết mà quên mất mình là kẻ không bao giờ phải chết nữa !

Chẳng phải chúng ta vẫn tuyên xưng : "Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen" ? Tuyên xưng được như vậy là vì Chúa Giêsu đã dạy cho biết sự sống lại là điều chắc chắn.

Là Kitô hữu, sự “sống lại” đối với chúng ta là một tin vui và hạnh phúc, nhưng không phải ai cũng có niềm tin này, cả người Do Thái, dân riêng của Thiên Chúa cũng không ngoại lệ, không phải mọi thành phần trong dân ấy đều tin, cho nên Đức Giêsu phải viện dẫn lời Thánh Kinh để làm chứng cho họ thấy :

"Về vấn đề kẻ chết sống lại …thì trong sách Mô-sê đoạn nói về (cuộc thần hiển nơi) bụi gai… Thiên Chúa phán với ông ấy…'Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp'. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống,…vì đối với Người, tất cả họ đều đang sống.”(Lc 20.37-38).

Còn Kitô hữu chúng ta thì may mắn hơn, có chính lời  Chúa Giêsu bảo đảm rõ ràng: chính Người sẽ cho ai tin vào Người, thuộc về Người (Ga 6.39,40), và nhất là – như sau ở Bài 3 sẽ nói – những ai ăn uống Thịt Máu Người (Ga 6.54), đều được hưởng sự sống lại ấy.

Quả thật đây là một điều chưa từng nghe, chưa từng có ai dám hứa cho loài người như vậy, vì ngược với luật chung đã được thiết định:

"Bởi ngươi được nắn ra từ bụi đất, ngươi sẽ trở về bụi đất." (St 3.19).

Khoa học cũng như kinh nghiệm đời thường vẫn thấy sự chết diễn ra như một qui luật tất yếu của địa cầu này. Sự sống lại ư ? Tin nổi không ? Dân Do Thái được tuyển chọn để mang mặc khải Thiên Chúa cho thế giới, mà – như vừa xem ở trên đây – vẫn còn có những thành phần trí thức cao cấp chống báng ý tưởng khó tin đó ! Nhưng đáp lại, Đức Giêsu khẳng định: Không tin điều ấy là vì các ông

"không biết Thánh Kinh và cũng chẳng biết quyền năng của Thiên Chúa". (Mt 22.29)

Sống lại thể xác hoàn toàn cần thiết, để cho chiến thắng trên Thần chết được trọn vẹn, cũng như để cho Sự Sống Đời Đời của những người tin Chúa được sung mãn. Thiên Chúa làm gì cũng làm cách hoàn hảo, không bao giờ làm nửa chừng : Không những Thiên Chúa có quyền năng làm cho linh hồn kẻ tin, dù trước đây đã chết vì tội lỗi, được sống mà còn làm cho cả thân xác họ cũng được sống lại :

Đức Giêsu tuyên bố :

“Thật, tôi bảo thật các ông : giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ các kẻ chết (phần linh hồn) nghe tiếng Con Thiên Chúa ; ai nghe thì sẽ được sống. […]

(Còn hơn thế nữa) Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại (cả phần xác) để được (vào cõi) sống ; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại (cả phần xác) để bị kết án.” (Ga 5.25-29)

Thánh Irênê làm một sự so sánh : “Uống chén Máu Thánh Thể là thông chia Máu của Chúa, ăn Bánh Thánh Thể là thông chia Thịt Mình Chúa... Vậy nếu chén rượu cùng tấm bánh (vật chất) ấy có thể  đón nhận Đấng Lời Thiên Chúa để trở thành Mình và Máu Chúa Kitô..., thì tại sao người ta dám bảo rằng thân xác (vật chất chúng ta) không có khả năng đón nhận ơn huệ Thiên Chúa, tức là Sự Sống Đời Đời (để sẽ không bao giờ phải chết nữa) ? Cũng như hạt lúa kia, vùi xuống lòng đất, sẽ mục nát đi, rồi chỗi dậy, thành cây lúa mang nhiều gié lúa vàng, nhờ bởi Thần Khí Thiên Chúa (ban sức sống cho)...; cũng vậy, thân xác ta, một khi được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Thánh Chúa, dù có phải chết vì án phạt trở về bụi đất (St 3.19), thì đến thời đến buổi, sẽ chỗi dậy (sống lại), nhờ Đấng Lời Thiên Chúa phục sinh nó, để vinh hiển cho Thiên Chúa Cha, Đấng ban cho loài phải chết được bất tử, cho loài hư hoại được bất hoại, bởi vì quyền năng Thiên Chúa được thi thố trọn vẹn ở nơi nào có sự yếu đuối.” (Bài Kinh sách, Mùa Phục sinh, tuần III, thứ năm).

 

@@@@@_BÀI 12_@@@@@

Công Đồng Vatican II xác nhận rằng : "Trước cái chết, thì bí ẩn về thân phận con người càng thêm dày đặc tới tột cùng. Con người bị dày vò không những bởi sự đau khổ và bởi sự thoái hóa tiến dần đến tan rã của thân thể, mà hơn thế, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt vĩnh viễn muôn đời. Theo bản năng, con người có lý để ghê sợ cũng như để từ chối sự hủy diệt hoàn toàn và sự tiêu diệt vĩnh viễn bản thân mình.

Mầm sống vĩnh cửu mà (Thiên Chúa đã ban cho) họ mang trong mình, không thể coi là tự vật chất mà có, nên nó chống lại sự chết. (Còn thì) mọi nỗ lực của khoa học và kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi ngoai được nỗi lo âu của con người : bởi vì cuộc sống thân xác nếu có thể được khoa sinh vật học kéo dài thêm đi nữa, thì cũng không thể thỏa mãn khát vọng được có một cuộc sống mai hậu vốn đã được in sâu trong lòng con người. Trước cái chết, óc tưởng tượng của con người đành bất lực.

"Nhưng Giáo Hội, được Mặc khải của Thiên Chúa dạy bảo, quả quyết rằng : con người được Thiên Chúa dựng nên để đạt tới cứu cánh hạnh phúc sau cuộc đời khổ cực nơi trần thế này. Hơn nữa, Đức tin Kitô giáo còn dạy rằng giả như con người không phạm tội, thì đã không phải chết (vì đầu tiên Thiên Chúa đã tạo dựng con người trường sinh bất tử) (x. Kn 1.13; 2.23-24; Rm 5.21; Gc 1.15). (Dầu vậy) sự chết sẽ bị đánh bại khi Đấng Cứu Thế Toàn năng và nhân ái đem lại cho con người sự cứu rỗi mà vì tội lỗi họ đã đánh mất… Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại, và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự chết (x. 1Cr 15.56-57), bởi vì Thiên Chúa đã và vẫn luôn đang kêu gọi con người gắn bó với Ngài, với tất cả hữu thể của họ, trong một sự thông hiệp vĩnh viễn vào đời sống thần linh bất diệt của Ngài." 

(Trích Hiến Chế Mục vụ : Hội Thánh trong thế giới ngày nay, số 18).

Nói được như thế là vì Thánh kinh đã hứa :

“Nếu Thần Khí ngự trong anh em… thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ làm cho thân xác phải chết của anh em được sống, nhờ Thần Khí của Người đang ngự trong anh em.” (Rm 8.11)

TÂM NIỆM :

“TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ CHẾT NỮA.”

Tôi thật là hạnh phúc và vinh dự được làm con của Thiên Chúa, Đấng thần linh cao cả, hằng hữu, toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Chính Đấng siêu việt, vĩ đại khôn tả ấy đã vui lòng ban Nước Trời cho tôi và những ai TIN vào Chúa Giêsu, Con Một của Người ; đã nhận tôi làm con cưng của Người và cho phép tôi gọi Người là Abba, Cha ơi.

Cha tôi ở trên trời, Người hằng sống đời đời, mà bởi tôi là con nên cũng được thừa tự gia tài là Sự Sống Đời Đời. Từ nay trở đi, tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ chết nữa, mà được sống đời đời vì tôi là con của Thiên Chúa. Tôi sẽ chỉ phải đi qua một giấc ngủ ngắn ngủi để thoát ra khỏi cái xác phải chết vì tội lỗi này. Và tôi tin rằng : tôi sẽ chỗi dậy với một thân xác biến hình tốt đẹp, rạng ngời ánh vinh quang mà Cha Trên Trời sẽ mặc cho tôi, để tôi được thanh sạch, được xứng đáng ở trong Cung Điện của Cha tôi trên Vương Quốc của Người. Tôi sẽ là công chúa lá ngọc cành vàng, bạn sẽ là hoàng tử trâm anh thế phiệt.

Ôi ! Thật hạnh phúc, vui sướng biết bao, khi tôi còn có Mẹ Maria ở với tôi đang khi còn ở cõi tạm này, để dạy bảo và hướng dẫn tôi đến Sự Sống Đời Đời. Vì Mẹ biết loài người yếu đuối, dễ sa ngã biết bao, nhất là Satan luôn rình chực để cám dỗ họ đi theo con đường dẫn đến Sự Chết Đời Đời như hắn.

Không ! Nhờ Ơn Chúa và Lời Chúa sáng soi, không bao giờ tôi đi theo lối Satan. Bởi thế, không bao giờ tôi còn chết nữa vì tôi là hoàng tử, là công chúa của Thiên Phụ trong Vương Quốc Hằng Hữu của Người !

*

Đúng vậy, sự gì Thiên Chúa ban thưởng cho ta ở đời sau, là ban cho con người toàn diện, nghĩa là không chỉ linh hồn được sự sống, mà cả thân xác phải chết của chúng ta cũng được sống lại. Nếu chỉ được Sự Sống Muôn Đời mà không được sống lại thể xác, thì chẳng trọn vẹn ý nghĩa. Vì Thiên Chúa dựng nên loài người chúng ta không là thiên thần thuần túy thiêng liêng, cũng không là thú vật vô linh tính, nhưng là con người gồm có hai phần : linh hồn và thân xác. Dù được hưởng hạnh phúc muôn đời trên Thiên Đàng hay bị trầm luân muôn kiếp dưới hỏa ngục, cả hai không rời nhau như hình với bóng. Đã sống cuộc đời trần gian ngọt bùi cay đắng xác hồn cùng chia, thì hạnh phúc cũng phải cả hồn lẫn xác cùng hưởng.

Vì vậy trên Thiên Đàng, nếu ta chưa được hưởng sự sống và những phúc lộc cho cả linh hồn và thân xác, thì hạnh phúc lúc ấy chưa trọn vẹn. Dám nói các Thánh hiện nay, dù linh hồn của các ngài đã được lên Thiên Đàng, nếu chưa được cả thân xác sống lại mà chung hưởng hạnh phúc, thì các ngài chưa hạnh phúc hoàn toàn vì chỉ có nửa con người ! Trên Thiên Đàng, một người toàn vẹn và hưởng hạnh phúc trọn vẹn, nhất định phải gồm cả hồn và xác như khởi đầu Chúa đã tạo dựng nên chúng ta.

Nếu không, Thiên Chúa sẽ bị cáo là không công bằng, vì thân xác cùng với linh hồn sống cuộc đời trần thế, có vui cùng hưởng, có cực cùng chia, nó cũng chung phần trong hãm mình hy sinh, đọc kinh dự lễ, ăn chay cầu nguyện v.v…, lẽ nào sau này Chúa chỉ thưởng công cho linh hồn thôi ? Không đời nào Chúa lại có thể xử sự thiên lệch bất công như vậy! Hay ngược lại, nó đã chung phần với linh hồn làm những điều gian ác, phạm tội phản nghịch cùng Chúa, thì Chúa cũng sẽ cho nó sống lại, để bị phạt chung với hồn mà vào chốn trầm luân khổ ải muôn kiếp. Xin nhớ lại điều Chúa Giêsu đã nói với người Do Thái:

“Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó : ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để vào cõi sống ; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án.” (Ga 5.28-29)

Thông thường đạo chúng ta chú trọng về phần linh hồn, xin nhớ lại những câu thường nghe : “Hãy lo phần rỗi linh hồn”, “Ta hãy xin cho được sống lại về phần linh hồn”, “Xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng…”, v.v... Đã đành cầu xin như thế không sai, song đáng lẽ chúng ta phải cầu xin Chúa cho chúng ta sống lại toàn vẹn xác hồn, để xác kia không phải buồn phiền vì phải phân ly với hồn thiêng của mình.

Đã là “người” tức là gồm 2 phần, linh hồn và thể xác, thì không thể nào chỉ có một phần được sống, còn phần kia không được. Nếu phần hồn đã có trong mình Sự Sống của Thiên Chúa, Đấng Hằng Hữu, Trường Sinh Bất Tử, ắt phần xác của ta, dù có phải chết vì phần phạt tội lỗi (St 3.19; Ed 18.4,20,24,26; Rm 5.12; v.v…) thì cũng sẽ được sống lại, bởi vì có lời phán rằng :

“Nếu Thần Khí (là Sự sống của Thiên Chúa) ngự trong anh em … thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ làm cho thân xác phải chết của anh em được sống, nhờ Thần Khí của Người đang ngự trong anh em.” (Rm 8.11)

*

 

@@@@@_BÀI 13_@@@@@

Nghe biết những điều huy hoàng tuyệt vời như vậy, song chỉ vì chúng ta đọc kinh Tin Kính thuộc lòng riết rồi đâm ra lờn quen với câu “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, cho nên không mấy để ý đến tầm quan trọng của vấn đề, coi đó là chuyện đương nhiên, mà không biết rằng Chúa đã phải khó khăn đến chừng nào mới đem lại cho chúng ta sự sống lại ấy ! Nói trắng ra là Thiên Chúa đã phải sử dụng bao nhiêu công sức, để thắng được chủ tướng của sự chết là ma quỉ, để giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của nó (Dt 2.14-15), và Chúa đã phải huy động toàn lực quyền năng của Người đến thế nào để làm cho loài người đã chết được sống lại. Ta hãy nghe và để tâm suy lời Thánh Phaolô cầu nguyện sau đây mà mở mắt ra :

“Xin Thiên Chúa cho mắt tâm hồn anh em được chiếu sáng để anh em biết …. thế nào là quyền năng cao cả tuyệt vời của Người (đã thi thố ra) trong chúng ta là những kẻ tin. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết…” : “Dầu chúng ta đã chết vì những sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô… và cùng với Đức Ki-tô, Người cho chúng ta được sống lại…” (Ep 1.18-20; 2.5-6).

Để hình dung được phần nào sự khó khăn ấy, chúng ta chỉ cần nhớ đến đoạn tiên tri Êdêkien 37 về “Cánh đồng xương khô” (xin đọc ở tr.430 tt) : Chết đến nỗi xương khô đã phơi trắng trên đồng, thì hỏi làm sao còn có thể sống lại, Phải có một quyền lực không thể tưởng tượng nổi mới có thể làm được việc tuyệt vọng ấy !

Xem thế, đâu có phải chuyện dễ dàng. Thiên Chúa không thể chỉ tay năm ngón mà thắng tên lãnh chúa sự chết là quỉ ma, và giải thoát ta khỏi quyền lực của nó và của sự chết.

Thiên Chúa là Đấng Toàn năng, Người có thể tiêu diệt ma quỉ dễ dàng như chơi, trên kia đã nói, vì Người đã dựng nên nó được, thì cũng có thể hủy diệt nó được, nhưng Người không làm, chỉ vì Người không bao giờ hủy diệt cái gì Người đã tạo dựng, điều này những câu Thánh kinh trích dẫn ở trên kia đã minh chứng, nay xin nhắc lại :

 “Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu (tồn tại)” (Kn 1.14) ;

“Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu,
không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra,
vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên.
Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi?
Nếu như Ngài không cho hiện hữu,
làm sao nó có thể được duy trì ?” (11.24-25).

Đúng vậy “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, và không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra”, “giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên”, bởi vậy Người cũng đã yêu thương nên đã tạo dựng các Thiên thần để phục vụ Người, Người cũng ban cho họ quyền lực và tự do theo đúng địa vị của họ. Tạo dựng quả đã hết sức tốt đẹp. Nhưng thảm thay! sau đó, Satan cùng một số trong họ chống báng và phản nghịch với Thiên Chúa mà trở thành quỉ dữ (2 Pr 2.4; Kh 12.3-4). Dù vậy Chúa vẫn không tiêu diệt chúng vì Chúa đã dựng chúng là loài thiêng liêng có tính bất tử, và cũng không tước đi quyền lực và tự do của chúng nữa. (Sách Giáo lý HT Công giáo, số 391-92).

*

*    *

Trở lại với vấn đề sự sống lại, chúng ta đã hoan hỉ trong niềm xác tín sẽ được sống lại, nên đã tuyên bố :

 “Tôi sẽ không bao giờ phải chết nữa !

Nhưng nếu vậy, phải hiểu sao về cái chết của chúng ta khi nhắm mắt xuôi tay ?

Xin trả lời : Đó chỉ là cái chết phần xác. Phần xác phải chết vì ta đã phạm tội (Rm 5.12; 8.10 ; Ep 2.1,5), cho nên vốn là từ bụi đất nắn ra, nó sẽ phải trở về bụi đất (St 3.19). Nhưng điều lạ lùng Thiên Chúa làm cho loài người là đây :

Từ khi tin vào Chúa, chịu Phép Rửa tội, và nhất là rước Mình Máu Thánh Chúa, là ta được có Sự Sống Thiên Chúa “cấy” vào trong mình, thì ta sẽ sống đời đời, không bao giờ còn chết nữa (Ga 5.24-25 ; 6.40,54,58 ; 11.25). Không chỉ phần hồn được sống không phải chết, mà ngay cả phần xác dù mang án chết vì tội lỗi, cũng được thông phần Sự sống thần linh ấy mà sống lại. Cái chết thân xác không hủy diệt được Mầm Sống Thần Linh đang ở trong phần tâm linh, phần cốt tủy của con người. Vì thế mới nói : Được có Sự Sống Thần Linh vĩnh cửu “cấy” vào trong mình, từ nay họ không bao giờ còn chết nữa.

Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì … quả thật, họ không thể chết nữa, vì được giống như các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. (Lc 20.35-36).

Chính Đức Giêsu đã quả quyết như vậy.

Cái chết phần xác lúc ấy sẽ được coi chỉ là giấc ngủ tạm ít lâu chờ ngày sống lại.

Nói được như vậy, là dựa vào lời Thánh kinh chứ không ai có thể bày ra :

Chắc hẳn chúng ta còn nhớ tích Đức Giêsu được mời đến chữa cho con gái của ông Trưởng Hội đường Do Thái bị bệnh nặng sắp chết, khi đến nơi thì nó đã chết và người ta đang khóc lóc om sòm. “Người bước vào nhà và bảo họ : “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Họ chế nhạo Người. Nhưng Người … vào nơi nó đang nằm. Người cầm lấy tay nó và nói : “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con : chỗi dậy đi!” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi.” (Mc 5.39-42)

Trong truyện ông Ladarô làng Bêthania cũng vậy. Nghe người nhà báo tin ông ta đau nặng, Đức Giêsu không đến ngay, Người còn trì hoãn mấy ngày, lúc đến thì ông ta đã chết chôn 4 ngày rồi. Thế mà Đức Giêsu bảo các môn đệ : “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc ; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” Các môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.” Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. Bấy giờ Người mới nói rõ : “La-da-rô đã chết.” [2] (Ga 11.11-14)

Phần chúng ta, đến đúng thời đúng buổi, Thiên Chúa cũng sẽ dùng Thần Khí Người, mà cho thân xác phải chết của ta đã an nghỉ được chỗi dậy cùng với Đấng Phục Sinh. (Rm 8.11 ; 1 Cr 15.20-22 ; Ep 2.5-6)

Với niềm tin ấy, lúc có Kitô hữu nào qua đời, chúng ta sẽ đến gặp gia quyến họ để chúc mừng người thân của họ được trở về với Chúa, như bài thánh ca hồi hương của dân Israen đã hát lên :

"Khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ, miệng tôi cất lên tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát, toàn dân tung hô : Tôi thật vinh phúc."

Và thái độ của chúng ta đối với người thân của mình đã qua đời cũng sẽ không quá bi luỵ, vì chúng ta có niềm tin và niềm hy vọng rằng họ đang an giấc, chờ ngày Chúa đón về nơi không còn nước mắt, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc, theo như lời chứng của thánh Phaolô :

"Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su." (1Tx 4.13-14).

Dựa vào niềm tin và hy vọng đó, Kitô giáo chúng ta coi “nghĩa trang” là phòng ngủ, nhà ngủ (nghĩa gốc của chữ La- tinh : “Cimeterium”; Pháp “cimetière”). Trên các bia mộ thường thấy có ghi: “…Chờ ngày phục sinh”, “…Đợi ngày sống lại”, “…Hãy sống trong Thiên Chúa”.

Những điều trên đây đã mở mắt cho chúng ta thấy một điều quan trọng là : chúng ta vẫn thường chăm lo cho sự sống thể xác, là phần mau hư nát, mà ít quan tâm đến Sự Sống Thần Linh là sự sống đích thực Thiên Chúa hứa ban cho chúng ta. Chúa Giêsu đã cảnh báo sự thiếu khôn  ngoan đó :

   “Ai yêu quý mạng sống mình (nghĩa là o bế, chăm chút, nuông chiều sự sống đời tạm này), thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12.25)

“Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống (= linh hồn), thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” (Mt 16.26)

Lời cảnh báo ấy muốn cho ta hiểu rằng : Khi chăm lo cho có Sự Sống Thần Linh là sự sống đích thực của Thiên Chúa nơi mình, lúc ấy toàn diện con người chúng ta sẽ được cứu, và tất nhiên thân xác chúng ta cũng sẽ được sống lại. Còn đi ngược lại, ta sẽ mất hết !

   Hiểu như thế ta mới cảm nhận được niềm vui, niềm vinh hạnh được là con của Thiên Chúa, có sự sống của Thiên Chúa. Hơn ai hết, các thánh tử đạo đã hiểu được Sự Sống Thiên Chúa quí báu đến chừng nào, đến nỗi các ngài thà chết chẳng thà mất Sự Sống ấy. Vì tin rằng cái chết phần xác là sự an nghỉ ít lâu chờ ngày sống lại muôn đời.

   Và chúng ta đây cũng thế, một khi đã tin vào Đức Kitô, ta hãy vui sướng hân hoan vì ta sẽ không còn là kẻ chết, không bao giờ chết nữa, nhưng là kẻ từ nay sẽ sống mãi mãi như Thiên Chúa.

“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống, vì hết thảy đều sống cho Người.” (Lc 20.38)

   NGUYỆN CẦU

   Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa vô cùng vì Chúa đã ban cho chúng con Sự Sống Thần Linh là Sự Sống của chính Chúa. Chúa đã sinh ra loài người chúng con cách thần diệu, và yêu thương chúng con quá đỗi, đến nỗi Chúa chẳng muốn xa cách chúng con bao giờ, đến nỗi Chúa ở lại với chúng con cho đến tận thế, cho dù chúng con có tội lỗi, khốn cùng thế nào đi nữa. Ôi ! Trái tim chúng con nhỏ bé, hẹp hòi, làm sao có thể đáp lại tình yêu cao cả vô biên, vô hạn của Chúa ?

   Thì này đây "con xin đến thực thi Ý Chúa, Chúa chẳng ưa gì lễ toàn thiêu, thì con xin đến thực thi Ý Chúa. Ý của Ngài con xin thực thi." Amen.

 

š 

 

@@@@@_BÀI 14_@@@@@

SỐNG LẠI CÁCH NÀO ?

Thánh Phaolô đã mô tả về sự sống lại cách rõ ràng :

35 (Có người hỏi rằng) "Kẻ chết chỗi dậy thế nào? Họ lấy thân xác nào mà trở về? - 36 Đồ ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết đã (thối bấn, tan rã) mới sống dậy. 37 Cái ngươi gieo xuống không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là (hình thể) một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. 38 Rồi Thiên Chúa cho nó mọc lên với một hình thể như ý Người muốn”

Cái "hình thể như ý Người muốn" mà Chúa cho mọc lên ấy, nó là thế nào ? Thánh Phaolô diễn tả thế này:

42 "Việc kẻ chết sống lại cũng vậy:

gieo xuống [3] thì hư nát, mà chỗi dậy [4]  thì bất diệt;

43gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang;

gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ,

44gieo xuống là thân xác khí huyết, mà chỗi dậy là thân xác thần thiêng…

49 Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến…

51 Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: … tất cả chúng ta sẽ được biến đổi …

52 Những kẻ chết sẽ chỗi dậy mà không còn hư nát …

53 Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt;

và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử."

                                                   (1Cr 15.35-53).

Giải thích những lời Thánh Phaolô trên đây :

1/ Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết đã (c.36) : Đúng qui luật thường thấy trong việc trồng trọt : hạt lúa, hạt bắp, hạt đậu gieo hay vùi xuống đất, sẽ tan rã, tan bấn đi. Điều ấy ám chỉ thân xác ta chết đi sẽ phải tan rã trong mồ, vì là thân nắn ra từ cát bụi phải trở về cát bụi (St 3.19), rồi mới được sống dậy, sống lại.

2/ Cái ngươi gieo xuống không phải là hình thể sẽ mọc lên,… Thiên Chúa cho nó mọc lên với một hình thể như ý Người muốn” (cc.37-38)

Hình thể của cái gieo xuống thì khác với hình thể cái sẽ mọc lên : ví dụ hạt lúa, lúc gieo xuống nó chỉ là một “hạt lúa” và tan bấn đi trong đất. Nhưng khi Thiên Chúa cho nó “mọc lên” hay sống dậy, thì không còn thấy là hạt lúa nữa, song một hình thể khác Người sẽ ban cho nó theo ý Người muốn, đó là hình thể “cây lúa”. Đối với loài người, hình thể cái gieo xuống là “thân xác khí huyết” (c.44), rồi sẽ “hư nát” (c.42) tan rã trong mồ trở về bụi đất, và hình thể cái Thiên Chúa cho chỗi dậy sẽ là “thân xác thần thiêng” (c.44), “bất diệt” (c.42).

3/ Mầu nhiệm tất cả chúng ta sẽ được biến đổi (c.51). Thánh Phaolô cho biết : việc biến đổi xác khí huyết trở thành xác thần thiêng đây là một mầu nhiệm ! Và sự biến đổi ấy là một điều bắt buộc. Ngay cả thân xác Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, trong sạch, không hề mắc một tội nào, cũng phải biến đổi, “vì thân xác ấy cũng là thân xác loài người, nên phải được biến đổi mới có thể đạt tới cuộc sống tuyệt vời của sự bất hoại” (Trích dẫn lời Thánh Giécmanô Constantinô trong Tông Hiến của Đức Giáo Chủ Piô XII định tín Mầu nhiệm Đức Mẹ hồn xác lên trời, lễ ngày 15/8). Vì muốn vào sống trong lãnh vực thần linh của Thiên Chúa, con người phải được biến đổi nên thần linh giống như Thiên Chúa một cách nào đó, vì chưng :

"Máu thịt (khí huyết, vật chất) không thể thừa hưởng (tức là vào) Nước Thiên Chúa, cũng như sự hư hoại không thừa hưởng được sự bất hoại."(1Cr 15.50)

 Thân xác ta lúc ấy sẽ được biến đổi nên giống như Thân xác Chúa Kitô phục sinh vinh hiển vì có lời Thánh Kinh xác quyết :

“Người sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của ta sao nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Người" (Pl 3.21).

 “Hiện giờ (sống trên dương trần) ta là con cái Thiên Chúa ; ta sẽ là gì (sau này) thì chưa được tỏ hiện, ta biết rằng một khi Người (Chúa Kitô) tỏ hiện (buổi Quang Lâm), thì ta sẽ được giống như Người, vì Người thế nào, ta sẽ được thấy như vậy.” (1 Ga 3.2).

Thử hỏi : Lúc Người tỏ hiện ở buổi Quang Lâm ấy, Người trông như thế nào ?

Thưa : Người uy nghi, huy hoàng, sáng láng rực rỡ trong hào quang của một vị Thiên Chúa, đồng thời lại là Đấng phục sinh – mà hôm Người Biến hình sáng láng chói lòa trên núi Tabo đã cho ta thấy một thoáng vinh quang (Mt 17. ; Mc 9.2-8) – Vậy mà Thánh kinh nói : ta sẽ được nên giống như Người !

Ôi ! Quả là một vinh quang lớn lao khôn sánh cho ta! Miệng lưỡi nào tả cho xiết ? Chỉ trong thinh lặng suy niệm và cầu nguyện, chúng ta mới cảm nhận được mà lên tiếng tạ ơn Thiên Chúa !

Thân xác lúc đó của chúng ta sẽ là một thân xác biến hình nhận được (từ Thiên Chúa). Còn thể xác ta đang mang đây, sau khi chết, sẽ tan rã dưới mồ, đúng như lời Thánh Kinh nói : nắn ra từ bụi đất, thân xác sẽ trở về bụi đất (St 3.19).  Nó không bao giờ còn trở về lại cuộc sống dương thế của loài người nữa, chỉ trừ vài phép lạ Đức Giêsu làm cho kẻ chết sống lại, hay đúng hơn phải nói là làm cho hồi sinh về lại đời sống dương thế, ví dụ phép lạ cho Ladarô, cho con gái một ông trưởng hội đường Do Thái và cho con trai bà goá thành Naim...

Được hồi sinh trở về đời sống dương thế của loài người, nhưng sau đó ít lâu Ladarô cũng như mấy người nêu trên, lại phải chết. Như vậy không phải là “sự sống lại” trong cuộc sống muôn đời đang bàn đây. Mấy phép lạ Chúa Giêsu làm đó, thường là để chứng tỏ Người là Đấng Thiên Chúa sai đến (Đấng Thiên Sai), có Quyền năng thần linh ban sự sống và sự sống lại cho ai tin vào Người (Ga 11.25).

 Để giúp hiểu lời Thánh Kinh nói về thân xác ta hiện đang mang, song khi chết sẽ tan rã trong mồ, và ta sẽ nhận được từ Thiên Chúa một thân xác biến hình, biến đổi nên thần thiêng, như Thánh Phaolô viết trong 1 Cr 15.44 [5], ta tạm nhờ hình ảnh việc đúc tượng mà diễn tả : hồn ví như cái khuôn, xác là chất liệu. Một khi cái khuôn (ví dụ : khuôn tượng Thánh Phêrô) được định hình và thành hình rồi, người thợ có thể đổ vào khuôn đó chất đồng hay chì, vàng hay bạc, xi măng hay đất sét v.v… Lúc đã nung khô xong, lấy tượng ra, kết quả là các pho tượng đều y chang Thánh Phêrô, dù chất liệu khác nhau : ta có một tượng Thánh Phêrô bằng đất, hay bằng xi măng, bằng đồng hay bằng vàng, bạc…

Lúc sống ở trần gian, ta đổ vào khuôn linh hồn ta những chất liệu của trái đất (thức ăn thức uống…) làm thành thân xác “khí huyết” rồi lúc chết sẽ tan rã dưới mồ; ngày sau khi được ơn sống lại, quyền phép Thiên Chúa sẽ đổ vào cũng cái khuôn linh hồn ta những chất liệu thần thiêng cao quí của trời, thế là ta có được một thân xác “thần thiêng”, hay “biến hình”, song y chang vẫn là thân xác của ta.

Thánh Phaolô cũng diễn tả trong đoạn thư sau đây cùng một đạo lý – tuy bằng những từ ngữ khác – về thân xác tan rã trong mồ và thân xác biến hình Thiên Chúa ban cho ta khi sống lại. Lời Thánh Kinh này củng cố ta càng thêm vững tin :

“Một khi ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi, chúng ta sẽ có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra. (2 Cr 5.1)

Ta thấy Thánh Phaolô so sánh hai giai đoạn, hai trạng thái : chiếc lều mong manh (là thân xác ta ở trần gian) sẽ bị phá hủy đi (sẽ tan rữa trong mồ), và ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời (là thân xác sống lại thần thiêng ở trên trời thì vĩnh cửu), nó do Thiên Chúa dựng nên, không do tay người thế làm ra (nó do Thiên Chúa ban, không phải do cha mẹ trần thế sinh ra).

Chúng ta hãy nghe tiếp mấy câu sau để rõ thêm :

2 “Ở trong lều này, chúng ta rên siết vì những mong ước được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng ta phủ lên trên.      4 Thật thế, bao lâu còn ở trong chiếc lều này, chúng ta rên siết, khổ tâm vì không muốn cởi bỏ cái này, nhưng lại muốn trùm thêm cái kia lên trên, để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống. 5 Đấng đã chuẩn bị chúng ta cho mục đích ấy chính là Thiên Chúa, Người đã ban Thần Khí cho chúng ta làm bảo chứng.” (2 Cr 5.2-5)

Qua mấy câu này, thánh nhân thay mặt nhân loại nói lên lòng da diết mong ước chiếc lều (thân xác ở trần gian) không bị tiêu hủy, song được ngôi nhà trên trời phủ lên trên (“ở trong lều này, chúng ta rên siết vì những mong ước được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng ta phủ lên trên” c.2). Thánh Phaolô đã nói lên “niềm ước mong vô vọng” của loài người, là chớ gì không bao giờ phải chết (“chúng ta rên siết, khổ tâm vì không muốn cởi bỏ cái lều này”, c.4), nhưng được trường sinh bất tử (“muốn trùm thêm cái (nhà thiên quốc vĩnh cửu) kia lên trên”, c.4).

Nhưng đó là một “ước mong vô vọng”, không thể thành sự được, vì chúng ta đã biết :

“Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết ; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rm 5.12)

Không kể Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, trong loài người, chỉ có Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội là được miễn chuẩn khỏi qui luật thân xác tan rã trong mồ, tức là  khi mãn cuộc đời dương thế, Người được Thiên Chúa rước cả linh hồn và thân xác về trời, nói theo kiểu Thánh Phaolô thì là : “được thấy ngôi nhà thiên quốc … phủ lên trên… chiếc lều tạm này.”  

  

*

*    *

 

@@@@@_BÀI 15_@@@@@

  • Một vấn đề liên hệ với việc thân xác sống lại :

ĐỜI SAU, KHI THỂ XÁC CŨNG ĐƯỢC SỐNG LẠI RỒI, CHÚNG TA SẼ Ở ĐÂU ?

Như vừa xem trên, ở đời sau, khi thể xác ta được sống lại, ta có một thân xác “biến hình”, “thần thiêng” (1 Cr 15.44), sẽ hợp lại với hồn mà hưởng phúc, tức là con người toàn diện gồm cả xác hồn được hưởng phúc, chứ không chỉ có linh hồn mà thôi. Mà hễ có thân xác – dù là thân xác thần thiêng – tất nhiên phải có một nơi để ở, chứ không thể ở khắp mọi nơi (đây là đặc quyền của Thiên Chúa), hoặc cũng không thể sống lơ lửng, chơi vơi, vô định, “vô gia cư, vô sở tại” được. Đức Giêsu cũng đã gợi ý về chỗ ở đó khi Người nói :

“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14.2-3).

Dĩ nhiên chỗ ở trên Thiên Đàng không phải là một ngôi nhà, một căn phòng như ở dưới thế. Vậy thì sẽ là thế nào ? Chúng ta cứ từ từ tìm hiểu :

Trước tiên phải nhận định rằng : Thiên Chúa đã dựng nên ta là loài người có cách sống nhân loại, thì nơi ta sống sau này ở đời sau, ta thường gọi là Thiên Đàng hay cõi Trời mới Đất mới, cũng phải phù hợp với tính cách sống nhân loại, tức là có gia cư, có gia đình : gia đình thiêng liêng của Thiên Chúa (Ep 2.19-22) thì trên có Thiên Chúa là Cha, Đức Maria là Mẹ, Chúa Giêsu là Anh Cả, "Trưởng Tử giữa một đoàn em đông đúc" (Rm 8.29), và các Thiên thần, các thánh là bạn hữu …Gia đình nhân loại thì có tổ tiên, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em chị em, bạn hữu…

Mai sau trên Thiên Đàng cũng thế, chúng ta không trở thành thiên thần, vì vậy ở đó liên hệ gia đình vẫn không mất đi, chúng ta không lên Thiên Đàng một mình, chúng ta dắt díu nhau lên và sum họp gia đình ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt…. như ở trần gian. Chỉ có khác là chúng ta lúc đó đã trở nên thần thiêng, không còn phải lệ thuộc vào những điều kiện vật chất như khi còn sống trên trần, chẳng hạn như phải ăn uống, phải ngủ nghỉ, phải vất vả lao động, phải đau khổ v.v…(Kh 21.4)

Chính vì liên hệ gia đình vẫn được duy trì, mà ở trên trời Chúa Giêsu vẫn gọi Đức Maria là “Mẹ Thầy”, và Đức Mẹ xưng Chúa Giêsu là “Con của Mẹ”. Và chẳng nói đâu xa, lời nguyện lễ Thánh gia (sau lễ Giáng sinh) cũng nói lên lòng mong ước gia đình được đoàn tụ : “Lạy Chúa… xin làm cho chúng con cũng biết noi gương Thánh gia để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu của Chúa, trước khi lại được sum họp cùng nhau mãi mãi muôn đời hưởng niềm an vui trong nhà Chúa trên trời.”

Trong một khảo luận về thân phận phải chết của con người, Thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo, viết : “Hãy nhớ quê hương chúng ta là Thiên đàng. Ở đó đông đảo những người thân yêu đang mong đợi chúng ta : cha mẹ, anh em, con cái và biết bao người đang mong gặp chúng ta. Họ đang được hạnh phúc hưởng ơn cứu độ… Được đến gần họ và ôm lấy họ, thì cả họ lẫn chúng ta sẽ vui mừng biết mấy….” (Bài Kinh sách, Mùa thường niên, Tuần 34, thứ sáu).

Còn Thánh Bênađô Viện phụ cũng nói về cuộc sống sum họp đó ở trên trời trong một bài giảng về Lễ các Thánh :

"Tôi phải thú thật là khi tưởng nhớ đến các Thánh, tôi cảm thấy bừng lên trong tôi một khát vọng mãnh liệt…đó là mong được hợp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn với các thánh, được liên kết với chư vị Tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với các bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với đoàn trinh nữ…, với toàn thể các thánh.

…Chúng ta hãy mau đến với những người đang đợi chúng ta…, hãy ao ước chia sẻ hạnh phúc với các ngài…, nhất là mong mỏi Đức Kitô, Nguồn Sống của chúng ta, đã xuất hiện cho các thánh thế nào, thì Người cũng xuất hiện cho chúng ta như thế, và chúng ta cũng được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang… khi Người biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nến giống Đầu vinh hiển là chính Người.

Vậy chúng ta hãy hết lòng bền chí khát khao vinh quang ấy. Và để chúng ta có quyền hy vọng đạt tới vinh quang ấy, có quyền hưởng hạnh phúc lớn lao chừng ấy, chúng ta phải hết sức xin các thánh cầu nguyện cho, ngõ hầu những gì tự sức chúng ta không xin được, thì nhờ lời chuyển cầu của các thánh, Chúa sẽ ban cho chúng ta." (Bài Kinh sách Lễ Các Thánh Nam Nữ, ngày 1 tháng 11)

 Ngôn sứ Ysaia đã phác họa cách đơn sơ, song đầy ý nghĩa thâm trầm, cuộc sống bồng lai tiên cảnh ấy :

"Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
 Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cũng ăn rơm như bò.
 Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang.
 Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết ĐỨC CHÚA sẽ tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển."

(Is 11.6-9)

Bức tranh thơ mộng quá đẹp của thời hoàng kim bình an thái hòa, khai mở dưới triều đại Đấng Thiên Sai, đã mô tả, qua những hình ảnh biểu tượng, hạnh phúc của Thiên Đàng. 

          Thế mà có nhiều người ngược lại tưởng nghĩ về Thiên đàng một cách rất buồn tẻ, họ hình dung cuộc sống trong Thiên đàng giống như vào dự Thánh Lễ trong nhà thờ, suốt đời đời cứ đứng hay quì cúc cung thờ lạy Thiên Chúa, tay cầm lá vạn tuế tung hô : Thánh ! Thánh ! Thánh !... Nghĩ như thế, cho nên họ nói : Nếu ở trên Thiên đàng đời đời mà sống như thế thì thật là rõ chán !

          Đức Tổng Giám Mục Cincinatti, kiêm chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, trong một kỳ giảng tĩnh tâm cho 70 Linh mục thuộc 19 bang Hoa Kỳ tháng 5/1992, có nói: “Trong hỏa ngục có một chỗ lớn dành cho những kẻ trình bày Nước Chúa với vẻ u buồn và tẻ lặng, vì họ là những người phản truyền giáo”. (Trích Tuần báo Công giáo và Dân tộc, số 860,7/6/1992, tr.17)

 

  • Một vấn đề liên hệ với việc thân xác sống lại :

ĐỜI SAU, KHI THỂ XÁC CŨNG ĐƯỢC SỐNG LẠI RỒI, CHÚNG TA SẼ Ở ĐÂU ?

Như vừa xem trên, ở đời sau, khi thể xác ta được sống lại, ta có một thân xác “biến hình”, “thần thiêng” (1 Cr 15.44), sẽ hợp lại với hồn mà hưởng phúc, tức là con người toàn diện gồm cả xác hồn được hưởng phúc, chứ không chỉ có linh hồn mà thôi. Mà hễ có thân xác – dù là thân xác thần thiêng – tất nhiên phải có một nơi để ở, chứ không thể ở khắp mọi nơi (đây là đặc quyền của Thiên Chúa), hoặc cũng không thể sống lơ lửng, chơi vơi, vô định, “vô gia cư, vô sở tại” được. Đức Giêsu cũng đã gợi ý về chỗ ở đó khi Người nói :

“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14.2-3).

Dĩ nhiên chỗ ở trên Thiên Đàng không phải là một ngôi nhà, một căn phòng như ở dưới thế. Vậy thì sẽ là thế nào ? Chúng ta cứ từ từ tìm hiểu :

Trước tiên phải nhận định rằng : Thiên Chúa đã dựng nên ta là loài người có cách sống nhân loại, thì nơi ta sống sau này ở đời sau, ta thường gọi là Thiên Đàng hay cõi Trời mới Đất mới, cũng phải phù hợp với tính cách sống nhân loại, tức là có gia cư, có gia đình : gia đình thiêng liêng của Thiên Chúa (Ep 2.19-22) thì trên có Thiên Chúa là Cha, Đức Maria là Mẹ, Chúa Giêsu là Anh Cả, "Trưởng Tử giữa một đoàn em đông đúc" (Rm 8.29), và các Thiên thần, các thánh là bạn hữu …Gia đình nhân loại thì có tổ tiên, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em chị em, bạn hữu…

Mai sau trên Thiên Đàng cũng thế, chúng ta không trở thành thiên thần, vì vậy ở đó liên hệ gia đình vẫn không mất đi, chúng ta không lên Thiên Đàng một mình, chúng ta dắt díu nhau lên và sum họp gia đình ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt…. như ở trần gian. Chỉ có khác là chúng ta lúc đó đã trở nên thần thiêng, không còn phải lệ thuộc vào những điều kiện vật chất như khi còn sống trên trần, chẳng hạn như phải ăn uống, phải ngủ nghỉ, phải vất vả lao động, phải đau khổ v.v…(Kh 21.4)

Chính vì liên hệ gia đình vẫn được duy trì, mà ở trên trời Chúa Giêsu vẫn gọi Đức Maria là “Mẹ Thầy”, và Đức Mẹ xưng Chúa Giêsu là “Con của Mẹ”. Và chẳng nói đâu xa, lời nguyện lễ Thánh gia (sau lễ Giáng sinh) cũng nói lên lòng mong ước gia đình được đoàn tụ : “Lạy Chúa… xin làm cho chúng con cũng biết noi gương Thánh gia để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu của Chúa, trước khi lại được sum họp cùng nhau mãi mãi muôn đời hưởng niềm an vui trong nhà Chúa trên trời.”

Trong một khảo luận về thân phận phải chết của con người, Thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo, viết : “Hãy nhớ quê hương chúng ta là Thiên đàng. Ở đó đông đảo những người thân yêu đang mong đợi chúng ta : cha mẹ, anh em, con cái và biết bao người đang mong gặp chúng ta. Họ đang được hạnh phúc hưởng ơn cứu độ… Được đến gần họ và ôm lấy họ, thì cả họ lẫn chúng ta sẽ vui mừng biết mấy….” (Bài Kinh sách, Mùa thường niên, Tuần 34, thứ sáu).

Còn Thánh Bênađô Viện phụ cũng nói về cuộc sống sum họp đó ở trên trời trong một bài giảng về Lễ các Thánh :

"Tôi phải thú thật là khi tưởng nhớ đến các Thánh, tôi cảm thấy bừng lên trong tôi một khát vọng mãnh liệt…đó là mong được hợp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn với các thánh, được liên kết với chư vị Tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với các bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với đoàn trinh nữ…, với toàn thể các thánh.

…Chúng ta hãy mau đến với những người đang đợi chúng ta…, hãy ao ước chia sẻ hạnh phúc với các ngài…, nhất là mong mỏi Đức Kitô, Nguồn Sống của chúng ta, đã xuất hiện cho các thánh thế nào, thì Người cũng xuất hiện cho chúng ta như thế, và chúng ta cũng được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang… khi Người biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nến giống Đầu vinh hiển là chính Người.

Vậy chúng ta hãy hết lòng bền chí khát khao vinh quang ấy. Và để chúng ta có quyền hy vọng đạt tới vinh quang ấy, có quyền hưởng hạnh phúc lớn lao chừng ấy, chúng ta phải hết sức xin các thánh cầu nguyện cho, ngõ hầu những gì tự sức chúng ta không xin được, thì nhờ lời chuyển cầu của các thánh, Chúa sẽ ban cho chúng ta." (Bài Kinh sách Lễ Các Thánh Nam Nữ, ngày 1 tháng 11)

 Ngôn sứ Ysaia đã phác họa cách đơn sơ, song đầy ý nghĩa thâm trầm, cuộc sống bồng lai tiên cảnh ấy :

"Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
 Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cũng ăn rơm như bò.
 Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang.
 Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết ĐỨC CHÚA sẽ tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển."

(Is 11.6-9)

Bức tranh thơ mộng quá đẹp của thời hoàng kim bình an thái hòa, khai mở dưới triều đại Đấng Thiên Sai, đã mô tả, qua những hình ảnh biểu tượng, hạnh phúc của Thiên Đàng. 

          Thế mà có nhiều người ngược lại tưởng nghĩ về Thiên đàng một cách rất buồn tẻ, họ hình dung cuộc sống trong Thiên đàng giống như vào dự Thánh Lễ trong nhà thờ, suốt đời đời cứ đứng hay quì cúc cung thờ lạy Thiên Chúa, tay cầm lá vạn tuế tung hô : Thánh ! Thánh ! Thánh !... Nghĩ như thế, cho nên họ nói : Nếu ở trên Thiên đàng đời đời mà sống như thế thì thật là rõ chán !

          Đức Tổng Giám Mục Cincinatti, kiêm chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, trong một kỳ giảng tĩnh tâm cho 70 Linh mục thuộc 19 bang Hoa Kỳ tháng 5/1992, có nói: “Trong hỏa ngục có một chỗ lớn dành cho những kẻ trình bày Nước Chúa với vẻ u buồn và tẻ lặng, vì họ là những người phản truyền giáo”. (Trích Tuần báo Công giáo và Dân tộc, số 860,7/6/1992, tr.17)

 

 

 

 

[1]    Cũng như chúng ta,  khi tạo ra được một tác phẩm tuyệt vời, chúng ta cũng yêu quí, trân trọng, nâng niu, gìn giữ nó.

[2]     Cũng xem 1 Tx 4.13-17 ; Kinh nguyện Thánh Thể, Thánh Lễ Rôma: "Xin Cha cũng nhớ đến các anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hi vọng sống lại… đặc biệt các bậc tổ tiên… ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc…”

[3]     Gieo xuống là nói bóng bẩy về sự sinh ra ở trần gian.

[4]     Để đối ứng với "gieo xuống", đáng lẽ Thánh Phaolô phải nói "mọc lên", nhưng lại nói "chỗi dậy" để gợi ý về sự sống lại thường được coi như là một sự “chỗi dậy” khỏi giường ngủ, chỗi dậy khỏi mồ, từ trong cõi chết … Đừng lầm với “trỗi dậy” là nổi lên, vùng lên…(vd. cả một làn sóng, một phong trào trỗi dậy)

  1. [5]    “Thần thiêng” : theo cách dịch của cha Giuse Thuấn. Có người khác dịch “thân thể có thần khí”..  Dịch như thế thì không lột tả được tình trạng mới mẻ của thân thể vinh hiển của ta sau khi sống lại, bởi vì hiện nay, thân ta cũng đang có thần khí đấy (xem Ga 3.6; Rm 8.9-11, 14-15) mà thân thể ta có đổi nên khác đâu. Nếu dịch là “thân xác thần thiêng” thì nói lên được tình trạng lạ lùng, sau khi sống lại, giống như thân thể phục sinh của Chúa Giêsu (1 Cr 15.51; Pl 3.21; 1 Ga 3.2 v.v…)
back to top
Filters