News Filters

002.- ĐỨC MA-RI-A VIẾNG THĂM BÀ Ê-LI-SA-BÉT (Lc 1,39-45)_Đọc "TIN MỪNG" và Đọc Sách "BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI" của Maria Valtorta

09 Tháng Giêng 2021

  

Đọc "TIN MỪNG" và Đọc Sách "BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI" của Maria Valtorta

002.- ĐỨC MA-RI-A VIẾNG THĂM BÀ Ê-LI-SA-BÉT (Lc 1,39-45)

39 *Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.  *** 40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.  *** 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,  *** 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.  *** 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?  *** 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.  *** 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”  

Bài ca “Ngợi khen” (Magnificat) Lc 1,46-56  

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói :“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,  *** 47  thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.  *** 48  Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.  *** 49  Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn !  *** 50  Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.  *** 51  Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. ***  52  Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng caomọi kẻ khiêm nhường.  *** 53  Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.  *** 54  Chúa độ trì Ít-ra-en,tôi tớ của Người,  *** 55  như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.” *** 56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà. 

**** ĐỨC MA-RI-A VIẾNG THĂM BÀ Ê-LI-SA-BÉT (Sách “BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI” của Maria Valtorta _Quyển 1, trang 191, số 33)

Tôi đang ở trong miền núi. Đây không phải các núi cao, nhưng nó không còn là các đồi nữa. Nó đã có các đỉnh và các hốc của núi thực sự như ta thấy trong vùng Apennin-Toscane-Obrie. Cây cỏ rậm rạp và tuyệt vời. Nước mát dồi dào giữ cho các đồng cỏ xanh tươi và các vườn cây sai trái, đầy táo, sung, nho... ở chung quanh nhà. Đây hẳn là mùa xuân, vì trái nho đã lớn như trái đậu dại, và các cây táo đã bắt đầu mở các chồi xanh của nó ra. Trên các cành ở148 trên ngọn của các cây sung, các trái đã thành hình. Các đồng cỏ trông như chiếc thảm mềm muôn mầu, trong đó các đoàn vật đang gặm cỏ hoặc nghỉ ngơi: những điểm trắng trên mầu xanh mướt của cỏ.

Maria với con vật của cô lên dốc trên một con đường tình trạng khá tốt. Chắc đây là lối vào chính thức. Cô lên, vì xứ sở trông có vẻ đều đặn được xây dựng ở trên cao. Đấng mà tôi thường quen hỏi thăm đã bảo tôi: “Chỗ này là Hébron”. Qúi vị đã nói với tôi về Montana, nhưng tôi không quyết chắc. Tôi không biết “Hébron” có ý chỉ tất cả xứ không, hay chỉ là vùng tỉnh lỵ. Vậy tôi chỉ nói điều tôi biết.

Đây, Maria vào trong thành phố. Lúc này là buổi chiều. Các người đàn bà ở trước nhà quan sát người lạ đang tới và nói chuyện với nhau. Họ theo dõi cô bằng con mắt, và họ chỉ chắc chắn khi thấy cô dừng lại trước một trong những căn nhà đẹp nhất ở giữa vùng. Trước nhà có một khu vườn. Rồi ở đàng sau và chung quanh đều là vườn trái cây được chăm sóc cẩn thận. Rồi sau đó là đồng cỏ mênh mông, lên xuống theo ngọn núi, để sau cùng dừng lại trước một khu rừng già, sau đó tôi không biết là cái gì nữa. Khu đất sở hữu có hàng rào cây mâm xôi và cây hồng dại bao quanh. Tôi không biết rõ nó có gì. Các hoa và các lá của các bụi rậm này trông rất giống nhau, vì không có các trái mọc ở trên cành nên rất dễ nhìn lầm. Trước nhà, ở phía quay ra xứ, đất sở hữu được bao vây bằng một bức tường nhỏ trắng, trên đó có leo các cành hồng thực sự, lúc này không có hoa, nhưng đã có nhiều nụ. Ở giữa tường có một khung cổng song sắt khóa kỹ. Người ta thấy đây là nhà của một vị kỳ hào trong xứ, hoặc một dân cư giầu. Thực vậy, tất cả đều chứng tỏ, nếu không là sự giầu có, thì ít nhất cũng là sự dư giả. Chúng rất thứ tự.

Maria xuống khỏi con vật và lại gần cổng. Cô nhìn qua các chấn song nhưng không thấy ai, lúc đó cô tìm cách cho biết sự hiện diện của cô. Một phụ nữ nhỏ thó, tò mò hơn các người khác nên đã đi theo cô. Bà chỉ cho cô đồ trang bị ngộ nghĩnh được dùng làm chuông. Đó là những mảnh kim loại buộc vào một cái trục. Khi người ta nhúc nhích cái trục bằng một sợi giây thì các mảnh đụng vào nhau, tạo ra một tiếng động như tiếng chuông hay tiếng cồng.

Maria kéo sợi giây, nhưng qúa nhẹ nhàng nên dụng cụ chỉ phát ra tiếng leng keng nhè nhẹ, và không ai nghe thấy cả. Lúc đó người đàn bà, một bà già nhỏ thó, thấy toàn là mũi và cằm, và ở giữa hai thứ đó là một cái lưỡi cũng đáng giá mười cái, bà bám vào sợi giây và kéo, kéo, kéo. Một sự ồn ào có thể làm người chết tỉnh dậy: “Phải làm như vậy, nếu không thì làm sao họ nghe thấy được? Phải biết rằng Êlisabét già rồi, và Zacari cũng vậy. Và hơn nữa, lúc này ông bị câm và điếc. Các gia nhân cũng già. Cô biết ông ta à? Cô đến bao giờ chưa? Cô biết ông Zacari chứ ? Cô là...”

Để giải phóng cho Maria khỏi trận lụt của những tin tức và những câu hỏi, một ông già nhỏ đi cà nhắc tới. Chắc đó là người làm vườn hay một nông dân, vì ông có một cái đồ giẫy cỏ ở trong tay, và một con dao quắm ở giây lưng. Ông mở cổng và Maria vào trong khi cám ơn bà già nhỏ, nhưng... than ôi! không trả lời cho bà ta. Thất vọng chừng nào cho kẻ tò mò!

Vừa bước vào trong, Maria nói: “Tôi là Maria con Joakim và Anna ở Nazarét, bà con với ông bà chủ của ông”.

Ông già nhỏ nghiêng mình để chào, rồi ông bắt đầu la lớn: “Sara! Sara!” Ông lại mở cửa để dắt vào trong con lừa vẫn còn ở ngoài, vì Maria, để thoát khỏi bà già nhỏ quấy rầy, đã lẹ làng bước vào bên trong, và người làm vườn cũng lẹ như cô, đã đóng cửa lại trước mũi bà má lắm lời. Và trong khi dắt con vật vào, ông nói: “A! Hạnh phúc lớn cho nỗi khổ ở trong nhà này! Trời đã ban một người con trai cho kẻ son sẻ, xin chúc tụng Đấng Tối Cao! Nhưng Zacari từ Jêrusalem trở về, đã bảy tháng rồi, bị câm. Ông làm hiệu hay viết cho người ta hiểu. Có lẽ cô đã biết tin? Bà chủ mong mỏi cô chừng nào ở giữa nỗi vui và nỗi đau này! Bà thường nói chuyện với Sara về cô và nói: ‘Giá mà tôi còn được cô bé Maria ở với tôi! Nếu cô còn ở Đền Thờ, tôi sẽ xin Zacari đem cô về. Nhưng bây giờ Chúa đã muốn cô là vợ của Giuse ở Nazarét. Chỉ có mình cô có thể cho tôi sự ủy lạo trong nỗi khổ này, và giúp tôi cầu xin Thiên Chúa, vì cô rất tốt, và ở Đền Thờ mọi người đều khóc cô. Kỳ lễ vừa qua, khi tôi đi Jêrusalem với Zacari lần sau cùng để cám ơn Thiên Chúa vì đã ban cho tôi một con trai, tôi nghe các bà giáo của cô nói với tôi rằng Đền Thờ dường như bị mất đi một vị Kêrubim của vinh quang, kể từ khi tiếng của Maria không còn vang lên nữa trong các bức tường của nó’. Sara! Sara! Vợ tôi nó hơi điếc. Nhưng đi, đi, để tôi dẫn cô”.

Thay vì Sara thì dây, từ trên cầu thang ở phía hông căn nhà, một người đàn bà khá già, đã đầy vết nhăn với mái tóc rất muối tiêu. Trước kia chắc mái tóc bà rất đen, vì lông mi lông mày bà còn rất đen. Bà thuộc loại da vàng sậm, mầu da trên mặt bà chứng tỏ rõ ràng. Trái ngược lạ lùng với tuổi già tỏ tường của bà, cái thai của bà đã rất rõ, mặc dầu áo rộng thùng thình. Bà nhìn và làm hiệu bằng tay. Bà đã nhận ra Maria. Bà giơ tay lên trời với một tiếng “Ôi” ngạc nhiên và vui mừng. Bà vội vã hết sức có thể để tới đón Maria. Maria cũng thận trọng trong dáng điệu của cô. Cô bắt đầu chạy nhanh nhẹn như một con nai con, và cô tới chân cầu thang cùng một lúc với Êlisabét. Maria ôm vào lòng với niềm vui tỏ tường, người bà con oà khóc vì vui khi thấy cô.

Hai bà ôm nhau một lát, rồi Êlisabét rời vòng tay ôm với một tiếng “A” lẫn lộn vừa đau đớn vừa vui. Và bà đặt tay lên cái bụng lớn của bà. Bà cúi mặt xuống, tái mét rồi lại đỏ gay luân phiên. Maria và người đầy tớ giơ tay ra đỡ bà, bởi vì bà lảo đảo, tựa như bà cảm thấy đau. Nhưng Êlisabét, sau một phút yên lặng như trầm mặc với chính mình, bà ngẩng mặt lên, rạng rỡ đến nỗi bà như trẻ lại. Bà nhìn Maria với sự trọng kính và mỉm cười, tựa như bà nhìn thấy một thiên thần, rồi bà cúi sâu để chào và nói: “Em có phúc hơn mọi người nữ! Chúc tụng hoa trái của lòng em! (bà xướng lên như vậy, hai câu tách rời nhau hẳn). Làm sao tôi có phước là Mẹ Chúa tôi đến với tôi là tớ nữ của Người. Đây, ngay vào lúc có âm thanh của tiếng nói em, đứa trẻ đã nhảy mừng trong lòng chị, và khi chị ôm em thì Thánh Thần Chúa đã nói cho chị, tận đáy lòng chị, một sự thật cao cả. Phúc cho em vì đã tin rằng với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể, ngay cả những điều như không thể đối với trí151 khôn loài người. Chúc tụng em vì nhờ Đức Tin, em sẽ làm trọn những điều Chúa đã nói trước về em, và các lời báo trước của các tiên tri về thời kỳ này! Chúc tụng em vì Phần Rỗi mà em đã cưu mang cho dòng dõi Jacob! Chúc tụng em vì đã mang Sự Thánh đến cho con chị. Chị cảm thấy nó nhảy như một con dê con ở trong bụng chị vì niềm vui mà nó cảm thấy! Chính là vì nó cảm thấy được giải thoát khỏi sức nặng của tội, được gọi làm vị Tiền Hô, được thánh hóa trước giờ cứu chuộc, bởi đấng Thánh đang lớn lên ở trong em”.

Maria với hai giọt nước mắt như hai hạt ngọc, từ đôi mắt cười chảy xuống khóe miệng mỉm cười, mặt ngửa lên trời và tay cũng giơ lên, trong vị trí mà sau này Giêsu của Mẹ làm biết bao lần. Cô kêu lên: “Linh hồn tôi ca tụng Chúa tôi”, và cô tiếp tục bài Thánh Ca như đã được chuyển lại cho chúng ta. Vào đoạn chót, ở câu: “Chúa đã hộ phù Israel tôi tớ Người...”, cô bắt chéo tay trước ngực, qùi gối, cúi xuống sát đất để thờ lạy Thiên Chúa.

Người đầy tớ đã lánh đi cách kính trọng khi ông thấy Êlisabét không còn cảm thấy đau nữa, và bà thổ lộ các tư tưởng của bà cho Maria. Bây giờ ông từ ngoài vườn trở lại với một ông già đáng kính râu tóc trắng xóa. Từ xa, ông chào Maria bằng cách múa tay và bằng các âm thanh của cổ họng ông.

- Zacari tới - Êlisabét nói khi để tay lên vai Maria đang trầm mặc trong lời cầu nguyện. “Ông Zacari của chị bị câm. Thiên Chúa đã phạt ông vì đã không tin. Chị sẽ nói với em sau. Nhưng bây giờ chị trông cậy ở sự tha thứ của Thiên Chúa vì em đã tới, em: Đấng Đầy Ơn”.

Maria đứng dậy và tới gặp Zacari. Cô cúi mình tới đất trước mặt ông. Cô hôn gấu chiếc áo trắng che tới tận đất của ông. Chiếc áo này rất rộng và được thắt lại ở lưng bằng cái băng rộng có thêu nổi.

Zacari, bằng cử chỉ, đón chào cô, và cả hai đi lại với Êlisabét. Tất cả đều vào trong một phòng mênh mông rất được chưng dọn. Họ mời Maria ngồi và tiếp cô một ly sữa mới vắt, hãy còn sủi bọt, với mấy cái bánh tráng nhỏ.

Êlisabét ra lệnh cho một bà đầy tớ, sau cùng bà lộ mặt với đôi tay dính bột và đầu tóc trắng xóa. Thực sự không phải tóc bà trắng152 như vậy, mà là bột dính lên đầu, bà đang làm bánh. Bà cũng ra lệnh cho một ông đầy tớ mà tôi nghe gọi là Samuel, đem chiếc rương của Maria vào phòng mà bà chỉ cho ông. Tất cả là bổn phận của một bà chủ nhà đối với khách của bà.

Trong lúc đó, Maria trả lời cho Zacari về những câu hỏi mà ông viết trên một tấm bảng có tráng sáp để hỏi cô. Bởi các câu trả lời của cô, tôi hiểu ông nói với cô về Giuse, và ông hỏi cô xem cô cảm thấy thế nào khi làm vợ. Tôi cũng hiểu rằng Zacari không được một ánh sáng siêu nhiên nào về tình trạng của Maria, và điều kiện làm mẹ Đấng Messi của cô. Chính Êlisabét lại gần chồng bà, một cách tình nghĩa, bà đặt tay lên vai ông như một vuốt ve trong sạch và nói với ông: “Maria cũng là mẹ. Ông hãy vui cho hạnh phúc của cô”, nhưng bà không thêm gì nữa. Bà nhìn Maria, Maria nhìn bà nhưng không mời bà nói thêm, nên bà nín lặng.

Maria  tiết lộ thánh danh cho Êlisabét 

Tôi thấy hình như đây là buổi sáng. Maria đang khâu vá ở tiền đường. Êlisabét đi lại lo việc nhà. Khi bà vào, bà không bao giờ thiếu cái vuốt ve trên đầu tóc vàng của Maria, càng có vẻ vàng hơn trước bức tường mầu tối và dưới những tia đẹp của mặt trời chiếu vào qua cửa mở nhìn ra vườn.

Êlisabét cúi xuống để nhìn công việc của Maria và bà khen đẹp. Đó là tấm vải thêu mà Maria đã bắt đầu làm từ ở Nazarét.

- Em còn gai để kéo sợi - Maria nói.

- Cho con em à?

- Không, em đã có rồi khi em không ngờ... - Maria không hoàn tất câu nói, nhưng tôi hiểu: “Khi em không ngờ em là Mẹ Thiên Chúa”.

- Nhưng bây giờ em phải dùng nó cho Người. Nó đẹp không? Mịn chứ? Em biết các trẻ nhỏ cần hàng vải rất mịn.

- Em biết.

- Chị, chị đã bắt đầu... Trễ rồi. Vì chị muốn chắc chắn rằng đây không phải là sự lừa đảo của Đứa Qủi Quyệt. Mặc dầu... Chị cảm thấy vui tới nỗi việc này không thể do Satan. Rồi... Chị phải đau chừng nào! Maria, chị qúa già rồi để ở vào tình trạng này. Chị đã phải chịu đựng rất nhiều. Em, em không bị đau sao?

- Em, không, em chưa bao giờ cảm thấy thoải mái như vầy.

- A! Đúng! Em... Nơi em không có tì ố nếu Thiên Chúa đã chọn em làm Mẹ Người. Vậy là em không phải chịu sự đau đớn của Evà. Đấng mà em mang là Đấng Thánh.

- Con tim của em dường như có cánh chứ không phải một trọng lượng. Dường như ở trong em có hết mọi thứ hoa, mọi con chim hót trong mùa xuân, với sự dịu ngọt của mật ong, và tất cả mặt trời... Ôi! Em sung sướng!

- Có phước! Chị cũng vậy, từ lúc chị thấy em, chị không còn cảm thấy nặng nề nữa. Cũng không còn mệt và đau. Chị thấy như được đổi mới, trẻ lại, được giải thoát khỏi sự khốn nạn của xác thịt đàn bà. Con chị, sau khi đã nhảy vì mừng vào lúc có tiếng nói của em, nó nằm yên trong niềm vui của nó. Chị cảm thấy chị mang nó ở trong chị như trong một cái nôi sống, và nhìn thấy nó ngủ, no nê và sung sướng, hít thở như một con chim nghỉ yên dưới cánh mẹ nó... Bây giờ chị bắt đầu công việc, nó không làm nặng nề cho chị nữa. Chị nhìn không rõ mấy, nhưng...

- Để đấy đi chị Êlisabét, em sẽ nghĩ tới nó. Em sẽ kéo sợi và dệt vải cho chị. Em mảnh khảnh và em nhìn tỏ.

- Nhưng em phải nghĩ tới con em.

- Ôi! Em còn dài thời giờ!... Em nghĩ trước tiên tới chị và con chị, rồi em sẽ nghĩ tới Giêsu của em.

Êm dịu chừng nào, sự bộc lộ tư tưởng cũng như giọng nói của Maria! Cô rạng rỡ chừng nào khi nói tới tên này! Dường như đôi mắt cô đính ngọc trai của những nước mắt vui mừng trong khi cô nhìn trời trong xanh. Điều đó vượt qúa mọi khả năng của con người. Dường như sự ngất trí chụp lấy cô nguyên chỉ vì cô nói đến tên “Giêsu”.

Êlisabét nói: “Tên đẹp qúa! Tên của Con Thiên Chúa, tên Đấng Cứu Tinh của chúng ta”.

- Ôi! Chị Êlisabét! - Maria trở nên buồn buồn, và cô nắm lấy tay của bà chị họ đang bắt tréo trên cái bụng to phình của bà: “Hãy nói cho em, chị là người lúc em tới đã được tràn đầy Thánh Thần của Chúa và đã nói tiên tri về điều mà thế giới không biết, hãy nói cho em: Con em phải làm gì để cứu thế giới? Các Tiên Tri... Ôi! Các Tiên Tri nói về Đấng Cứu Thế! Isaie... Chị có nhớ Isaie không? ‘Đó là con người của đau thương. Chính bởi các vết bầm tím của Người mà chúng ta được chữa lành. Người bị đâm thủng và bị thương vì tội ác của chúng ta... Chúa muốn cho Người hao mòn trong đau đớn. Sau sự kết án, người ta sẽ nâng Người lên...’ Ông nói về sự nâng lên nào? Người ta gọi Người là Con Chiên, và em nghĩ tới... Con chiên Vượt Qua, con chiên của Môise, và em so sánh Người với con rắn mà Môise treo trên cây thập tự. Êlisabét! Êlisabét!... Họ sẽ làm gì con em? Người sẽ phải chịu những gì để cứu thế giới?” Maria khóc.

Êlisabét an ủi cô: “Maria, đừng khóc. Đây là con em, nhưng cũng là Con Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ nghĩ đến Con của Người và đến em là mẹ Người. Nếu có bao nhiêu người tỏ ra độc ác đối với Người, thì cũng sẽ có bao nhiêu kẻ yêu Người. Biết bao!... Em hãy nghĩ đến bao thế kỷ và bao thế kỷ, thế giới sẽ nhìn về con em và chúc tụng em cùng với Người. Em là mạch suối, nơi nảy sinh ra sự cứu chuộc. Số phận của con em! Được nâng lên vương quyền trên hết mọi thụ tạo. Hãy nghĩ đến điều đó, Maria. Vua: bởi vì Người đã cứu chuộc tất cả những gì đã được tạo dựng, và như vậy, Người sẽ là vua toàn cầu. Và cũng vậy, trên mặt đất, qua mọi dòng thời gian, Người sẽ được yêu. Con chị sẽ đi trước con em và sẽ yêu Người. Thiên thần đã nói vậy với Zacari, và ông đã viết điều đó cho chị... A! Ông Zacari của chị! Đau đớn biết bao khi thấy ông bị câm! Nhưng chị hy vọng rằng khi đứa trẻ sinh ra, người cha cũng được giải phóng khỏi hình phạt đã giáng xuống trên ông. Em hãy cầu nguyện, em là Ngai của uy quyền Thiên Chúa và là nguyên nhân niềm vui của nhân loại. Để được ơn đó, chị dâng hiến, như chị có thể, con chị cho Chúa. Qủa vậy, nó thuộc về Người, Người chỉ cho nữ tì của Người mượn, để cho nó niềm vui được nghe gọi: ‘Má ơi’. Đó là nhân chứng về điều Thiên Chúa đã làm cho chị. Chị muốn người ta gọi nó là Gioan. Con của chị, tình cờ đó chẳng phải là một ơn sao? Đó chẳng phải là điều Thiên Chúa đã làm cho chị sao?”

- Và em chắc Thiên Chúa sẽ ban cho chị ơn này. Em sẽ cầu nguyện... với chị.

- Chị rất khổ khi thấy ông câm!... - Êlisabét khóc. “Khi ông viết, bởi vì ông không nói được nữa, chị thấy như có những trái núi cao và biển cả ở giữa chị và Zacari của chị. Sau bao năm với những lời nói êm đềm, bây giờ miệng ông lặng lẽ. Và đặc biệt lúc này là lúc đẹp đẽ biết bao để nói về những gì xảy ra. Cả đến chị hãm không nói để khỏi làm ông mệt vì những cử chỉ phải làm để trả lời cho chị. Chị đã khóc biết bao! Chị đã chờ đợi biết bao. Cả xứ nhìn vào, bàn tán, chỉ trích. Thế giới làm như vậy. Và khi người ta có một nỗi vui hay nỗi buồn, người ta cần sự thông cảm chứ không cần sự phê bình chỉ trích. Bây giờ chị thấy đời sống đã hoàn toàn khá hơn. Chị cảm thấy niềm vui ở trong chị từ lúc em ở với chị. Chị cảm thấy cơn thử thách của chị sắp qua, và sắp sửa chị sẽ hoàn toàn sung sướng. Sẽ như vậy phải không em? Chị cam chịu tất cả. Nhưng chớ gì Thiên Chúa tha cho chồng chị! Chớ gì chị được nghe ông cầu nguyện như trước kia!”

Maria vuốt ve bà, an ủi bà, giải khuây cho bà, mời bà đi một vòng trong khu vườn đầy mặt trời.

Các bà đi vào dưới một dàn cây được chăm sóc kỹ lưỡng, cho tới một cái tháp thô sơ, có những cái lỗ, nơi các con bồ câu làm tổ.

Maria mỉm cười và vãi các hạt. Các con bồ câu nhào tới với những tiếng gù gù và bay lượn, tạo ra ở chung quanh những chiếc vòng ngũ sắc. Chúng đậu trên đầu, trên vai, trên cánh tay, trên bàn tay cô. Chúng vươn cái mỏ đỏ để lấy các hạt trong bàn tay cô, chúng mổ một cách dễ thương vào đôi môi hồng của cô, và những cái răng sáng bóng dưới mặt trời của cô. Maria bốc các hạt vàng ở trong bao ra và cười ở giữa sự tranh giành tham lam này. Êlisabét nói: “Chúng yêu em chừng nào! Em mới ở với chúng ta có vài ngày mà chúng yêu em hơn là chị là kẻ luôn luôn săn sóc chúng”.

Cuộc đi dạo tiếp tục cho tới chỗ hàng rào chặn lại ở cuối vườn trái cây, nơi đó có chừng vài chục con dê cùng với các dê con của chúng.

- Con từ đồng cỏ trở về à? - Maria nói với một chú mục đồng nhỏ mà cô vuốt ve.

- Vâng, bởi vì ba con bảo con: “Về nhà đi, vì trời sắp mưa, mà có những con vật sắp đẻ. Hãy săn sóc để chúng có cỏ khô và có ổ rơm sẵn sàng”. Kià, ông đang tới - Và chú bé chỉ ra ngoài rừng, nơi có tiếng kêu bê bê run rẩy.

Maria vuốt ve chú dê nhỏ vàng như một đứa trẻ, nó cà vào cô, và cùng với Êlisabét uống sữa mới vắt mà chú mục đồng nhỏ biếu.

Bầy vật đi tới với một người mục đồng xồm xoàm như một con gấu, nhưng chắc đó là một người đại độ, vì ông mang trên vai một con cừu không ngớt rên rỉ. Ông nhẹ nhàng đặt nó xuống đất và giải thích: “Nó sắp đẻ và nó bước rất khó lòng. Tôi mang nó trên vai để có thể về lẹ kịp thời giờ”. Con cừu đi khập khễnh cách đau đớn, được đứa trẻ dắt về chuồng.

Maria ngồi trên một tảng đá và chơi với các con dê và chiên nhỏ, giơ các bông hoa cánh chuồn vào các mũi hồng của chúng. Một con dê con mầu đen và trắng đặt hai chân của nó lên vai cô và đánh hơi trên tóc cô. Maria cười nói: “Không phải bánh đâu, ngày mai tao sẽ mang cho mày một miếng. Bây giờ thì hãy yên tĩnh”.

Êlisabét cũng tươi tỉnh lại và bà bắt đầu cười.

Maria nói về con Mẹ 

Tôi thấy Maria kéo sợi rất nhanh, nhanh, nhanh dưới dàn cây nho mà trái đã lớn. Chắc đã qua đi một thời gian, vì các trái táo đã bắt đầu đỏ trên cây, và bầy ong vù vù trên các bông hoa mọc gần cây sung trái đã chín.

Êlisabét với bụng rất lớn, bước cách nặng nề. Maria nhìn bà với sự chăm chú đầy tình nghĩa. Chính Maria, khi cô đứng dậy để lượm cái trục chỉ bị lăn ra hơi xa, nhìn nghiêng, tôi thấy bụng cô cũng đã hơi tròn, và sự bộc lộ của khuôn mặt cũng đã thay đổi. Cô già dặn hơn, từ một cô gái trẻ đã trở thành người đàn bà.

Các bà vào nhà vì đã xế chiều, và người ta đã thắp đèn ở bên trong. Trong khi chờ bữa tối, Maria dệt vải.

- Nhưng thực sự em không mệt sao? - Êlisabét hỏi khi bà chỉ vào cái guồng kéo sợi.

- Không, hãy an lòng.

- Với chị, sức nóng này làm chị mệt. Chị không đau, nhưng bây giờ khối lượng nặng, và lưng chị già đi.

- Hãy can đảm, chị sắp được giải phóng rồi. Lúc đó chị sẽ sung sướng chừng nào! Với em, em chưa thấy giờ làm mẹ của em. Con em, Giêsu của em, Người sẽ thế nào nhỉ?

- Đẹp giống như em đó, Maria.

- Ồ, không, đẹp hơn. Người là Thiên Chúa, em là nữ tì của Người. Nhưng em muốn nói: Người sẽ tóc vàng hay nâu? Người có mắt giống như bầu trời thanh bình hay như các con nai miền núi? Em tưởng tượng Người đẹp hơn một Kêrubim, với mái tóc như vàng, với đôi mắt mầu biển Galilê của chúng ta khi các tinh tú bắt đầu lên ở chân trời; một cái miệng nhỏ và đỏ như một múi lựu khi nó mở ra vì qúa chín. Và đôi má, đúng rồi, đó, giống như mầu hồng của bông hồng lạt này. Và hai bàn tay nhỏ có thể thọc vào trong đáy vành của một bông huệ, vì nó đẹp và bé tí; và hai bàn chân nhỏ tới nỗi chỉ đầy cái lỗ ở trong bàn tay, và đẹp đẽ mềm mại hơn một cánh hoa. Chị coi, em mượn tư tưởng để diễn tả Người nơi tất cả các vẻ đẹp mà trái đất có thể gợi ra cho em. Và em nghe tiếng nói của Người. Khi Người khóc - Người sẽ khóc chút ít, vì đói hay vì mệt, con của tôi! Và đó sẽ luôn luôn là nỗi đau lớn lao cho má vì không thể... Ồ, không, bà sẽ không thể nhìn Người khóc mà trái tim không bị đâm thâu - Tiếng khóc của Người sẽ giống như tiếng bê bê đến với chúng ta từ con chiên nhỏ này, nó mới sinh và nó tìm vú mẹ nó, và để ngủ trong hơi nóng của lòng mẹ. Tiếng cười của Người sẽ làm đầy con tim say mê của em bằng bầu trời của con em. Em có thể say mê Người, vì Người là Thiên Chúa của em, và tình của kẻ yêu nơi em không đối nghịch với sự dâng hiến đồng trinh của em. Tiếng cười của Người sẽ giống như tiếng gù gù vui vẻ của một con bồ câu nhỏ no nê và thỏa mãn trong tổ ấm áp. Em nghĩ đến những bước đi đầu tiên của Người... Một con chim nhỏ nhảy trong đồng cỏ đầy hoa. Đồng cỏ sẽ là con tim của má Người, kẻ nâng đỡ những bàn chân nhỏ hồng với tất cả tình yêu của bà, để Người không gặp một cái gì có thể làm cho Người đau. Em sẽ yêu con em biết bao! Con trai của em! Giuse cũng sẽ yêu Người.

- Nhưng em sẽ phải nói cho Giuse về Người.

Maria tối sầm lại và thở dài: “Em phải nói cho ông... Em muốn Trời làm cho ông biết, vì thật là khó nói”.

- Em có muốn là chị nói cho ông ấy không? Chị sẽ mời ông tới vào dịp lễ cắt bì cho Gioan?

- Không, em đã phó cho Chúa việc cho ông biết về số phận hạnh phúc của ông là được làm cha nuôi của Con Thiên Chúa. Ông sẽ có trách nhiệm đó. Chiều nay Thánh Thần đã bảo em: “Hãy nín lặng, hãy để cho Ta lo việc đó, Ta sẽ biện minh cho con”, và Người sẽ làm. Thiên Chúa không bao giờ nói dối. Đó là một thử thách lớn, nhưng nhờ sự giúp đỡ của Thiên Chúa, nó sẽ được vượt qua. Ngoài chị là người Thánh Thần đã mặc khải, không có ai biết bởi miệng em về lòng nhân hậu của Chúa đối với nữ tì của Người.

- Chị cũng luôn luôn giữ sự yên lặng, cả với Zacari. Ông cũng cảm thấy niềm vui lớn lao, nhưng ông tin rằng em làm mẹ cách tự nhiên.

- Em biết và em cũng muốn vậy vì khôn ngoan. Các bí mật của Thiên Chúa đều Thánh. Thiên thần của Chúa đã không mặc khải cho Zacari về việc làm mẹ do Thiên Chúa của em. Thiên Chúa có thể làm nếu Người muốn, vì Thiên Chúa biết rằng thời kỳ nhập thể của Ngôi Lời của Người ở trong em đã khẩn cấp. Nhưng Thiên Chúa che giấu niềm vui rạng rỡ này đối với Zacari là người từ chối, coi như không thể, về việc sinh nở chậm của chị. Em thích nghi với ý muốn của Thiên Chúa. Và chị thấy, chị đã biết sự bí mật sống ở trong em... vậy mà ông chẳng nhận ra điều gì hết. Bao lâu tấm màn về sự cứng lòng tin của ông nơi Thiên Chúa chưa rơi xuống, thì ông sẽ sống tách biệt với ánh sáng siêu nhiên.

Êlisabét thở dài và nín lặng.

Zacari vào. Ông đưa cho Maria một cuốn giấy da. Đã đến giờ cầu nguyện trước bữa tối. Chính Maria cầu nguyện lớn tiếng thay cho Zacari. Rồi họ vào bàn.

- Khi em không còn ở đây, chúng ta sẽ khóc biết bao, vì không còn ai đọc lời cầu nguyện cho chúng ta - Êlisabét nói khi nhìn ông chồng câm của bà.

- Lúc đó thì anh sẽ cầu nguyện, Zacari ạ - Maria nói.

Ông lắc đầu và viết: “Anh không bao giờ còn có thể cầu nguyện cho kẻ khác nữa. Anh đã trở nên bất xứng kể từ lúc anh nghi ngờ Thiên Chúa”.

- Zacari, anh sẽ cầu nguyện. Thiên Chúa tha thứ.

Ông già lau một giọt nước mắt và thở dài.

Sau bữa ăn, Maria lại tới khung cửi để dệt.

 Êlisabét nói: “Đủ rồi, em mệt thân qúa mức!”

- Chị Êlisabét ơi, thời giờ đã gần. Em muốn làm cho con chị một bộ xứng đáng với kẻ đi trước vị vua thuộc dòng Đavít.

Zacari viết: “Người sẽ sinh ra bởi ai? Và ở đâu?”

Maria trả lời: “Tại nơi các tiên tri đã nói, và bởi người Thiên Chúa chọn. Tất cả mọi sự Chúa, Đấng Tối Cao, làm đều tốt”.

Zacari viết: “Vậy là ở Betlem thuộc Juđê. Bà ơi, chúng ta sẽ đến thờ lạy Người. Em cũng hãy tới Betlem cùng với Giuse”.

Maria cúi đầu xuống trên khung cửi: “Em sẽ tới”.

Chấm dứt thị kiến.

(Dịch giả : Nữ tu Phạm Thị Hùng, CMR.)  

 

back to top
Filters