Tôi Theo ĐẠO TRỜI *** Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR
15 Tháng Mười Hai 2021
Tôi Theo ĐẠO TRỜI
2021
IMPRIMATUR
Saigon, ngày 06-06-1965
F.X. TRẦN THANH KHÂM
Vic. Gen
------------------------------------------------
*** Để càng thêm rõ ràng, chúng tôi mạn phép tu bổ đôi chút vào bản văn của các tác giả (Lm. Nguyễn Du (Qui Nhơn), Lm. Nguyễn Văn Vàng và Trần Hữu Thanh, DCCT) nay đã qua đời.
VÀI LỜI NGỎ
CÙNG ĐỘC GIẢ QUÍ MẾN,
Đã có một thời, người ta bảo theo đạo Chúa là theo đạo của Tây, bỏ đạo của quốc gia dân tộc. Không phải thế. Đức Giêsu, Giáo Tổ của Đạo Chúa, sinh ra, sống và giảng đạo tại xứ Pha-lê-tin, miền Trung Đông, thuộc Á Châu chúng ta, chứ không phải bên Tây phương. (Xem bản địa đồ, ở giữa, chỗ mũi tên chỉ).
Từ đó Ngài sai các Tông đồ (tức là các môn đồ đặc tuyển) đi khắp thế gian rao truyền đạo. Người Tây phương nhận được Đạo trước, đem truyền lại cho ta. Như vậy, Đạo Chúa là Đạo của Trời, chẳng của riêng ai, chẳng của riêng nước nào.
Bạn cứ xem: Người nào cũng muốn mình và gia đình mình được sống vui vẻ hạnh phúc trong một xã hội tốt đẹp lành mạnh.
Nhìn ra thiên nhiên hùng vĩ và kỳ diệu, mọi loài mọi vật từ dưới đất cho chí trên trời đều xoay vần thứ tự lớp lang.
Còn trong lòng thì nghe thấy tiếng lương tâm dạy bảo thúc giục…
Từ những nhận xét trên, người Việt ta mơ hồ tin có Ông Trời, có Đấng vô cùng Thông minh, Cao cả, Quyền phép vô biên tạo dựng vũ trụ càn khôn này, trong đó có mọi loài mọi vật và có loài người chúng ta.
Nhưng vì không được biết rõ, cho nên cứ tưởng Ông Trời ở mãi tận cõi thiên đình cao xa, chẳng can dự gì vào chuyện đời, chuyện học hành, chuyện làm ăn, chuyện vui chuyện buồn của thế giới này.
Không phải vậy, Ông Trời đã tạo dựng nên loài người cho nên luôn chú ý chăm nom săn sóc. Khi loài người lầm lạc không biết sống đúng đường lối Trời định, thì đạo Trời đến hướng dẫn ta làm lành lánh dữ, để ngay đời này ta được sống yên hàn hạnh phúc.
Đạo còn đến chỉ cho ta biết Ông Trời và con đường để siêu thoát lên cõi trên ở đời sau mà được sống với Ngài.
Vì đạo cần thiết như vậy, cho nên Đức Khổng Tử nói:
Đã là người, thế nào cũng phải có đạo:
“Nhân hữu đạo, bảo thực, noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú.”
(Làm người phải có đạo, nếu chỉ tìm ăn no mặc ấm mà sống vô đạo, thì có hơn gì con vật.)
Đạo Trời con đến chỉ cho ta biết Ông Trời là Đấng nào, và con đường để siêu thoát lên cõi trên mà được sống với Ngài.
Cơ sự như thế, cho nên giữa dòng đời bôn ba chìm nổi, ngoài những lúc bươn chải kiếm sống, chắc mỗi người chúng ta cũng có lúc lắng đọng tâm hồn để suy tư và tự hỏi:
Mục đích tôi sống trên đời này để làm gì ?
Sau ít năm thời thơ ấu vui chơi học hành, lớn lên lấy vợ lấy chồng, tạo lập sự nghiệp, nhiều khi vất vả kiếm cơm nuôi thân và nuôi gia đình. Thế rồi tuổi đời xế bóng, sức lực dần dần suy tàn, thường khi lại phải vật vã với bao bệnh tật của tuổi già mắt mờ chân chậm… ai ai cũng đều nhận thấy đời là mau qua chóng hết, thời gian chạy vùn vụt như “bóng câu qua cửa sổ”.
Chưa hết, cho dù thành đạt giàu sang hay thất bại nghèo hèn, chẳng ai tránh khỏi đau khổ, bệnh tật, và đều cho đời là chốn bể dâu sầu khổ, một thung lũng nhiều nước mắt hơn tiếng cười… Rồi cuối cùng, bóng tử thần dần dần hiện ra trước mắt, và ai cũng phải đối mặt với cái chết.
- Nhưng vấn đề chính là chết rồi mình sẽ đi về đâu?
- Số phận đời sau của mình sẽ như thế nào ?
Chẳng mấy ai thực lòng tin rằng chết rồi là hết như con trâu, con bò, con chó, vì người xưa có câu:
“Nhân ư vạn vật duy linh”,
(ở giữa vạn vật chỉ có con người duy nhất có cái linh).
Cái gì do vật chất hợp lại, thì có hợp phải có tan, thể xác do vật chất hợp lại, sẽ tan rã là chết, nhưng mà cái linh trong ta là hồn thì không do vật chất hợp lại nên không thể tan mất, không thể chết. Do đó cha ông chúng ta mới nhận định:
“Chết là thể xác, còn là tinh anh”.
Vì thế nên cha ông chúng ta mới dạy rằng:
“Sinh ký, tử qui”
(Sống gửi, thác về)
Sống trên đời là tạm gửi ít lâu rồi chết là phải về. Về với Cội Tổ của mình, ở đó Tổ tiên, ông bà cha mẹ ta cũng đã về trước.
Vậy là phải có một cõi đời sau mà về, ở đó Cội Tổ của mình là một Ông Trời phân xử công minh, lập lại công bằng, nếu không cuộc sống trần gian này với đầy dẫy những bất công, những chuyện mạnh được yếu thua, những áp bức, những nỗi oan khiên của người thấp cổ bé miệng, nhỏ hèn vô tội…, sẽ là một cuộc đời hoàn toàn phi lý.
Do đó, người Việt Nam tin phải có Ông Trời, mà có Ông Trời thì phải có Đạo Trời, đạo của Ông Trời.
Vậy ta hãy hỏi xem :
- HỎI. Đạo Trời là gì?
THƯA. Là lòng tin tưởng ở một vị linh thiêng, hằng hữu (tự mình có từ thuở đời đời), toàn tri, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên trời. Nôm na gọi Đấng ấy là ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, tùy tiếng nói của mỗi dân tộc. Đức Khổng Tử nói:
“Duy Thiên vi đại” (chỉ có Trời là lớn). Thầy Chu Tử nói:
“Thượng Đế giả, Thiên chi Chúa tể giả”
(Vua trên hết là Chúa trên trời).
- H. Làm sao ta nhận biết có Trời?
- Tuy Ông Trời là Đấng linh thiêng, vô hình, vô tượng không có thân xác như loài người, nên không ai thấy được, song hầu hết ai cũng tin là có. Không thấy thì không phải là không có. Có dòng điện chạy trong dây đồng, ta đâu có thấy, mà nó có đấy, cứ thử rờ vào là thấy liền, hay cứ bật “công tắc” là đèn sáng ngay. Có gió đấy mà ta đâu có thấy, song ta nghe được tiếng gió rít qua khe cửa, ta thấy gió lay động cành cây.
Trời đã ban cho ta hơn loài vật ở chỗ không chỉ có mắt để thấy mà còn có trí để suy, sao ta chỉ dùng cái gì mắt có thấy hay không thấy mà đoán định về mọi sự ? Người khôn ngoan sẽ lấy mắt nhìn trời nhìn đất, rồi lấy trí mà suy nghĩ một chút thì sẽ nhận ra là có Ông Trời.
Ngay cả chữ “Thiên” ta thường dùng cũng nói đến Ông Trời. Nhìn vào chữ Thiên ( 天 ) là gồm bởi hai chữ: nhất ( 一 ) và đại ( 大) hợp lại mà thành. Ý nói: Đấng lớn nhất là Trời (一 大 à 天 ).
Và nhìn vào vũ trụ bao la, tinh tú trăng sao luôn luôn trật tự xoay vần theo một định luật mà không do con người đặt ra, mặt trời chiếu tỏ ban ngày, vầng trăng soi sáng ban đêm; nhìn vào muôn loài muôn vật nhất là con người được tạo nên đẹp đẽ tinh vi, kỳ diệu, ta phải nhận rằng có một trí năng vô cùng thông minh đã nghĩ ra, một quyền năng vô hạn đã tác tạo…Ta gọi là Tạo Hóa, Hóa Công, hoặc Đấng Tạo Thành, hay bất cứ bằng một danh hiệu nào khác, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải có Đấng Tạo nên, chứ vạn vật không thể tự nhiên mà có được…
Ta xem một chiếc đồng hồ
Nếu không có thợ bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng chí tôn sinh thành.
Đức Khổng Tử nói:
“Nhân tri nhân, bất khả dĩ bất tri Thiên”
(người ta còn biết nhau, không thể nào không biết Trời được).
- Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình?
Câu ca dao thật là giản dị, lý luận thật là đơn sơ nhưng rất thâm thúy: Phải có một ông Trời mới có con chim hót, và có con chim hót, ắt là phải có ông Trời! Tổ tiên, cha ông chúng ta đã suy nghĩ đã lý luận để quả quyết là có ông Trời, có Đấng Tạo Hóa. Các ngài đã để lại cho dân Việt chúng ta một gia sản văn hóa và tinh thần mà phần quí nhất của gia sản đó là phần nói cho chúng ta biết rằng có một ông Trời, đó là Đấng Tạo Hóa, Đấng dựng nên mọi sự.
Ông Đổng Trọng Thư nói:
“Thiên giả vạn vật chi tổ? (Trời là gốc của vạn vật).
Truyện kể rằng nhà bác học lừng danh I-da-ác Niu-tân (Isaac Newton), người đã khám phá ra định luật “Hấp lực của vũ trụ”, một phát minh khoa học vĩ đại, ông chế tạo và đặt trên bàn ở văn phòng một mô hình hệ thống mặt trời rất đẹp, gồm mặt trời, mặt trăng, trái đất, và các hành tinh xoay quanh nhau cách thứ tự nhịp nhàng… Một hôm có người bạn vô tín ngưỡng đến thăm, khen mô hình này đẹp và hỏi:
“Ở đâu mà có mô hình tài tình ấy?” Niu-Tân cười hóm hỉnh trả lời:
“Tự nhiên mà có đấy!”
Ông bạn kia cho là nói đùa, lúc ấy Niu-Tân mới hỏi vặn lại:
“Nếu ông bạn không tin là mô hình này tự nhiên mà có, thì tại sao ông bạn lại tin rằng cả cái vũ trụ vĩ đại chuyển động nhịp nhàng, trật tự đều hòa này tự nhiên mà có, không cần Đấng sáng tạo?”
Tiến sĩ vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận cũng xác định:
“Phương pháp khoa học không thể trả lời một cách trực tiếp về sự hiện hữu của Đấng Tối cao…Phần tôi, tôi sẵn sàng đánh cược cho sự hiện hữu của Người…”
(Trích cuốn “Giai điệu bí ẩn” của Tiến sĩ Trịnh Xuân Thuận, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội, tháng 5-2000, trang 311).
- H. Những người tin tưởng ở Trời có nhiều không?
- Có thể nói được rằng hầu hết người trong nhân loại đều tin ở Trời, công khai hay âm thầm. Trong Kinh Dịch, quyển sách toàn khoa nổi tiếmg ở phương Đông cũng dạy:
“Người quân tử là người biết thờ Trời” (Quân tử sự thiên).
Trong văn học dân gian Việt Nam, ông Trời, Chúa tể trời đất được đề cập đến thường xuyên một cách rất tự nhiên:
“Trời sinh, Trời dưỡng,
“Trời cho ai, nấy hưởng”
Tính tự nhiên của con người, khi gặp nguy biến, đều kêu đến Trời: “Trời ơi !”; gặp oan ức đều xin Trời chứng quả “Ông Trời có mắt”; giao dịch, kết ước với nhau cũng xin Trời làm chứng:
“Một lời đã trót thâm giao,
Dưới rày có đất, trên cao có Trời”
(Truyện Kiều)
Gặp tình thế khó khăn, gặp điều không hiểu không biết đều xin Trời lý giải hay xét xử:
“Bắc thang lên hỏi ông Trời”
Tất cả những điều đó nói lên trước nhất ông Trời là một Vị ở trên cao chứ không phải là một người phàm trần như chúng ta, và thứ đến, ông Trời phải là một Vị thông minh, trí khôn sáng suốt, khôn ngoan siêu phàm, biết hết mọi sự, phân xử công minh.
Ta có khúc ca dao diễn tả lòng tin ở Trời một cách chân thành, thực tế, nghĩ rằng ông Trời là Chủ Tể mọi sự, có quyền ban xuống cho loài người những điều cần thiết cho cuộc sống của họ:
-“Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy,
Lấy đấy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp”
- “Gặp thời là được thọ khang,
Tam đa ngũ phúc rõ ràng Trời cho”
- H. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không?
- Đạo Trời là chung cho mọi nước, mọi đời, vì Trời là Gốc Tổ:
“Vạn vật chi Tổ”,
nên ai ai cũng phải thờ kính Trời, làm gì cũng không qua được mắt Trời vì:
“Thiên chi thông minh, vô sở bất cập” (Trời sáng suốt, không có gì mà không biết).
Đức Khổng Tử nói:
“Minh đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên” (Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống),
chứ không phải do loài người đặt ra đâu, nên không thể gán ghép vào một nước hay vào một thời đại nào được.
Vì thế từ thời thượng cổ, tin vào ông Trời đã trở thành đạo của người Việt. Tự bản sắc văn hóa, chúng ta là một dân tộc hữu thần. Chúng ta không những tin có ông Trời, mà còn sống gắn bó với ông Trời trong mọi sinh hoạt từ khi chào đời cho đến ngày từ giã cõi đời:
- Lúc sinh ra:
“Thông minh vốn sẵn tính Trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
(Truyện Kiều)
- Lúc lao động:
“Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn nơi thì cầy sâu,
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng”
- Lúc kết duyên vợ chồng:
“Nhờ cô nhờ bác giúp lời,
Chị em giúp của, ông Trời định đôi”.
- Lúc sinh sống ở đời:
“Khó giàu muôn sự tại Trời
Nhân sinh ai cũng kiếp người mà thôi”.
“Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu, có chí thì nên”.
- Nhưng luôn phải biết rằng:
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. (Người toan tính dự định, Trời cho thành công).
- Lúc chết:
“Trời kêu ai, người nấy dạ”.
- H. Nơi mỗi người, làm thế nào biết được đạo Trời?
- Trời đã ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho biết đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời.
Đức Khổng Tử nói:
“Đạo bất viễn nhân”
(Đạo không ở xa người ta đâu), và
“Tri Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa”
(Biết đạo Trời, thì ăn ở theo nhân nghĩa).
- H. Mỗi người phải giữ đạo Trời thế nào?
- Phải cố gắng hết sức mà tìm cho mình thấy rõ đạo Trời, như lời dạy:
“Tiễn kinh cức nhi tầm đại đạo”
(Phải phát quang gai góc mà tìm ra đường lớn).
Phải lấy đạo mà hướng dẫn đời sống:
“Dĩ đạo tuẫn thân”.
Theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo lý làm trọng:
“Vi thiện tối lạc, đạo lý tối đại” –
Phải nhớ luật của Trời là làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ phải phạt:
“Tác thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện giáng chi bách ương”.
(Làm điều lành là kéo xuống cho mình trăm sự tốt, làm điều xấu là kéo đến muôn sự tai họa)
“Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”
(lưới Trời rộng, thưa mà không lọt đâu).
- H. Dân chúng từ xưa thờ kính Trời thế nào?
- Đạo Trời này không giáo lý, không tổ chức thành Giáo Hội, nhưng phổ biến rộng rãi từ hàng bao ngàn năm mà vẫn không có gì làm cho nó suy tàn được.
Đức Khổng Tử nói: đã là người thế nào cũng phải có đạo:
“Nhân hữu đạo, bảo thực, noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú”
(Làm người phải có đạo, nếu chỉ tìm ăn no mặc ấm mà sống vô đạo thì có hơn gì con vật).
Các nhà hiền triết Hy Lạp cũng định nghĩa: Con người là một vật có tôn giáo, và không có thành trì nào được thiết lập mà không lấy tôn giáo làm nền tảng. (Plutarque).
Ông cha chúng ta tin có một Đấng vô hình, tạo dựng nên trời đất và cả Tổ tiên mình nữa. Đấng này phải được tôn thờ trên và trước Tổ tiên, ông bà.
Xưa trong một nước, chỉ có vua được đại diện toàn dân mà tế lễ Trời, ba năm một lần, nước ta gọi là tế Nam Giao.
– Khi gặp tai nạn như ôn dịch, mất mùa, giặc giã, nhà Vua cũng có thể tổ chức lễ tế Trời, để cầu đảo xin cho quốc thái dân an.
– Ở kinh đô có một đền gọi đền Kính Thiên, trong đó có để bài vị thờ Trời, viết 4 chữ: “Hoàng Thiên Thượng Đế”.
Tuy Vua đã đại diện cho dân thờ Trời trong lễ Nam Giao, nhưng dân chúng vẫn thấy cần phải thờ Trời hằng ngày, vì thế mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà, hay là xây bàn thờ Kính Thiên ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy, và dâng hương nến, nhang đèn, hoa quả và chung nước tinh khiết để tỏ lòng tri ân. Xét như thế thì đạo thờ trời vẫn là đạo phổ thông nhất trong nhân loại.
- H. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau thế nào?
- Đã nhận Trời làm gốc tổ (Thiên giả vạn vật chi tổ), nhận Trời làm cha mẹ sinh thành (Thiên vi phụ mẫu) thì phải coi mọi người là anh em (tứ hải giai huynh đệ) và cư xử với nhau như anh chị em trong đại gia đình nhân loại, vì tất cả đều là con của Trời. Đã coi nhau là anh em, thì sẽ lấy lòng thành mà đối đãi, lấy tình thương mà bao bọc nhau.
Đức Khổng Tử dạy:
“Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”
(Điều mình không muốn, thì đừng làm cho người khác).
Ông Mặc Tử chủ trương một thuyết rất tốt đẹp: “Kiêm ái”, tức là yêu thương hết mọi người, Thuyết này rất gần với giáo lý đạo Chúa về yêu người.
– Những giáo điều về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đều do lòng tin ở Trời mà phát xuất, đã là giường mối vững chắc cho nhiều dân tộc Á đông, và đã đào tạo nhiều Hiền Nhân, Quân Tử:
“Sỹ hy hiền,
hiền hy thánh,
thánh hy Thiên”
(Người có học thì mong tới bậc hiền, người hiền mong tới bậc thánh, người thánh mong đạt tới thông cảm được với Trời).
- Những bậc minh quân biết vị dân (như Lê Thánh Tôn), những tướng anh hùng biết vị nước (như Trần Hưng Đạo) đều tin tưởng ở Trời.
- H. Đạo Trời có từ bao giờ?
- Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người, Trời cho con người có trí khôn biết suy luận, biết hướng về Trời, biết tìm xem ý Trời thế nào mà hành động.
- H. Ý Trời là thế nào?
- Ý Trời là lương tri, lương tâm, mà Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn.
Ngay từ thời thượng cổ, các bậc tiền nhân làm gì cũng theo lương tri, lương tâm chỉ dẫn, nên đã để lại nhiều thành quả phúc đức, nêu gương tốt lành thánh thiện cho con cháu về sau. Các đời: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng đế Nghiêu, Thuấn bên Trung Quốc đã lấy việc thờ Trời làm trọng, lấy mệnh Trời hay ý Trời làm luật lệ, nên dân chúng đã được thái bình, an cư lạc nghiệp, khiến đời sau có câu nói: “Ngày Nghiêu, tháng Thuấn” để chỉ những ngày bằng yên, vui vẻ.
- H. Đạo Trời đưa người ta đến đâu?
- Sau khi tin vào Đạo Trời, nói khác đi, sau khi tin vào Chúa, được lãnh phép Rửa Tội, người ta được Tái Sinh thành Con Người Mới, làm con cái Thượng Đế, thì tất nhiên là Đạo Trời đưa người ta về tới Trời, như đưa con cháu về với Tổ Tiên, vì Trời là gốc tổ của mọi người. Vì Trời là Đấng Tự hữu, Toàn năng, Toàn thiện, Toàn mỹ, là nguồn hạnh phúc vô biên cho nên con người trở về với Trời là đạt tới hạnh phúc vô biên và vĩnh cửu mà tâm hồn khao khát, và khi đạt tới trời mọi ước vọng của mình sẽ được thỏa mãn hoàn toàn.
- H. Thi hành đạo Trời có khó không?
- Dễ hay khó là tại mỗi người – e ngại, rụt rè thì cho là khó; can đảm, cương quyết thì không khó nữa –
“Đường đi khó không vì ngăn sông cách núi,
nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”
(Nguyễn Bá Học).
Thi hành đạo Trời là sống theo lương tâm, làm lành lánh dữ; mà làm điều lành là con đường đi lên dốc cao, bao giờ cũng khó nhọc (tác thiện như đăng). Nhưng ở đời chẳng có gì cao cả mà không phải nỗ lực; có hy sinh rồi mới thấy kết quả hạnh phúc, mới được an vui (Vi thiện tối lạc).
- H. Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào?
- Người ta gặp 3 loại kẻ thù:
Một loại ở ngay trong mình, khác nào sâu bọ ở trong ruột cây, nếu không dùng thuốc sát trùng giết đi thì nó đục khoét ăn hết nhựa và làm đổ cây mất. Loại sâu bọ trong tâm con người chính là các tính mê nết xấu, các dục vọng đê hèn.
Loại kẻ thù thứ hai ví như các chứng ngoại cảm do thời khí, ý nói về các trào lưu của thế tục nổi lên cám dỗ, lôi cuốn vào hầm hố trụy lạc, sa đọa, giết hại tâm hồn con người.
Loại kẻ thù thứ ba ví như kẻ cướp đường, đó là Satan và ác quỷ, là những tà thần ghen ghét con người, ngày đêm không ngừng tìm trăm mưu nghìn kế để ám hại họ.
Tắt một lời ba thù đó là : xác thịt, thế gian và ma quỷ.
- H. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên?
- Phải tự tu, tự tỉnh và kêu cứu kịp thời:
- a) Tự tu là ra sức sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình.
- b) Tự tỉnh là nhờ học hỏi Đạo nhất là học hỏi ở sách Thánh Kinh như Kim-chỉ-nam, hoặc như bức cẩm nang chỉ dạy cho mình biết tỉnh táo đề phòng, tránh xa những quyến rũ của tà ma ác quỷ và những cạm bẫy do thế tục giăng lên để bắt mình.
- c) Kêu cứu kịp thời là cầu nguyện van xin Trời hộ giúp để các thế lực hắc ám tối tăm và Satan ác quỷ, vốn mạnh mẽ và tinh khôn hơn ta, không làm hại được ta.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó mà lúc nào cũng vững như kiềng ba chân.
“Tự thiên tử chí ư thứ dân, dĩ tu thân vi bản”
(Từ vua quan trên cao cho chí thứ dân dưới thấp, ai ai cũng phải lấy việc tu thân sửa tánh làm căn cốt cuộc đời).
Ca dao có câu rằng:
“Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn.”
Tục ngữ đã nói :
“Cứ giúp mình, rồi Trời sẽ giúp cho”,
tức là phần ta phải nỗ lực rồi Trời sẽ giúp cho ta.
- H. Satan ác quỷ ở đâu ra mà mưu hại con người đến thế?
- Nó cũng là một loài do Trời sinh ra, trước đây sáng láng tốt lành, rồi vì tự kiêu
tự đại mà phản nghịch với Trời, nên trở thành ác quỉ đại gian đại ác, nó muốn phá việc của Trời, và ganh ghét không muốn cho con người là loài thấp hèn hơn nó trở về với Trời, được hưởng phúc mà nó đã mất, nó phá đổ sự vinh hiển của Thiên Chúa, và phá hoại hạnh phúc của loài người.
Satan không làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn, dụ dỗ con người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu Satan là đi đến chỗ tự hại mình và sẽ đồng khổ cực với nó sau này đời đời kiếp kiếp.
- H. Có ai thắng được Satan ác quỷ chưa? Làm thế nào mà biết đã thắng?
- Các bậc thánh nhân lấy đạo Trời làm lẽ sống, những người khôn ngoan bền chí, quyết giữ đạo Trời dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được áp lực của Satan, vì nó muốn cướp lòng trung thành của các vị ấy đối với Trời, mà không cướp được, tức là nó bại.
– Còn các bậc thánh nhân khi tu thân lập đức thành công là thắng cuộc rồi. Sự thắng trận của các thánh nhân đôi khi cũng được Trời cho một vài điềm lạ để chứng quả, và nhân đó khuyến khích những người còn đang chiến đấu, chưa đạt mức cuối cùng.
- H. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố thế nào?
- Lịch sử đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì đạo Trời là đường lối để Trời đi xuống với nhân loại để tái tạo họ, và cũng là đường lối để nhân loại ta đi lên với Trời. Đó là trở về nguồn chân phúc vô biên mà ta khát vọng.
Đạo Trời được công bố bằng 2 hình thức:
Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người từ khi sinh ra lòng hướng về sự thiện. Đến tuổi khôn, người ta nhìn thấy muôn loài muôn vật trên trời dưới đất được tô điểm muôn vẻ muôn sắc tốt đẹp, kỳ diệu thì nhận ra là phải có Đấng Tạo Hóa, mà suy phục và thờ lạy Ngài. Rồi trong lòng mình thì biết phân biệt thế nào là lành, đâu là phúc mà làm theo, thế nào là dữ, đâu là tội mà tránh xa.– Bởi thế, khi làm trái lương tâm, người ta thấy bứt rứt, sầu khổ.
Nhưng khi Trời thấy nhân loại một mặt không dùng trí thông minh của mình mà nhìn biết Trời, trái lại lầm lạc đi thờ các tạo vật, dĩ chí thờ cả cầm thú, rắn rít…; mặt khác lương tâm con người không chịu làm lành lánh dữ, càng ngày thêm lún sâu vào sự dữ… cho nên Trời quyết định dùng một hình thức thứ hai, một phương án khác để cho loài người nhận biết Ngài, bỏ đàng lạc trở về tôn thờ Ngài là cứu cánh đời mình mà được sống và hạnh phúc.
Phương án đó, kế hoạch đó, là sai Con Một Ngài xuống trần nói cho nhân loại biết Trời là Đấng nào, Ngài dành sẵn hạnh phúc nào cho họ và Ngài chờ đợi loài người phải làm gì đáp lại.
Để thực hiện kế hoạch ấy, phải bắt đầu bằng giai đoạn 1: Trời chọn một dân tộc có thật trong lịch sử, đó là dân Do thái, ở miền Trung đông, trao cho sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ từ bỏ những ngẫu tượng tà thần mà họ tự bày đặt ra để thờ bái mong cầu phước. Nhưng thật là viển vông, vì làm sao những vật do tay người đẽo gọt từ gỗ đá ấy có thể sinh phước cho loài người?
Đạo luật của Trời thuở đầu tiên được ghi khắc trong lương tâm người ta, thì nay đã được in vào bia đá trên núi Si-nai và trao cho thủ lãnh dân Do Thái là ông MÔ-SÊ để ông đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1500 năm trước dương lịch, nhờ đó dân chúng sẽ sống tốt hơn, biết rõ ràng và chi tiết hơn những điều tốt, đẹp lòng Trời mà làm, những điều xấu nghịch ý Trời và làm hại cho mình mà tránh.
Giai đoạn 2 cũng là việc xảy ra trong lịch sử nhân loại thật sự : Trời cử vị Con Trời giáng trần, mặc lấy xác thịt làm một con người để sống với con người chúng ta, có miệng lưỡi để trực tiếp chỉ bảo cho nhân loại đường lối của đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời thương chúng ta như Cha thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông cảm với Trời.
Vị Con Trời giáng trần đây chính là Đức Giêsu Kitô mà thân thế và sự nghiệp đã được lịch sử đạo cũng như đời ghi nhận rõ ràng; và sự giáng trần của Ngài đã dựng nên một cột mốc phân chia thời gian lịch sử nhân loại làm 2 giai đoạn:
Trước Ngài: tính từ Ngài lùi về trước.
Sau Ngài: tính từ Ngài đến nay.
Và cũng từ ngày Đức Giêsu Kitô đi vào lịch sử nhân loại, đạo Trời được sáng tỏ và mang thêm một tên mới là Thiên Chúa giáo, hay đúng hơn: là Kitô giáo.
- H. Việc Đức Giêsu Kitô đến có lợi gì cho nhân loại?
- Lợi rất nhiều và rất lớn:
- a) Nhờ lời giáo huấn của Ngài, nhân loại biết được nguồn gốc của mình, biết được lẽ sống chân chính, và đường lối trở về với Thiên Chúa.
- b) Nhờ sự hy sinh chịu chết của Ngài, nhân loại được Thiên Chúa nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên Quốc nếu họ trung thành với Ngài.
- c) Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của Satan và bè lũ, thắng các lôi cuốn của những cám dỗ xấu xa trên đời mà tiến tới quê thật là Nước Trời.
- H. Sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô còn tồn tại trong nhân loại bằng cách nào?
- Vì Đức Giêsu Kitô là một Vị Con Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngài đã về Trời lại. – Nhưng vì sự nghiệp của Ngài cần phải phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã thành lập một đoàn thể để duy trì, phổ biến những chân lý về đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị Satan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.
Đoàn thể mà Đức Giêsu Kitô đã thành lập và để lại, là Hội Thánh Công giáo, do các vị Giáo Hoàng đại diện Ni kế tiếp nhau lãnh đạo. Vị Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô, một môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, và sau đó qua hàng mấy trăm vị khác nối ngôi, đến vị Giáo Hoàng đương kim là Đức Phan-xi-cô (từ năm 2013-…).
Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triển, bất chấp mọi chướng ngại, khiến con số tín hữu Thiên Chúa giáo ngày nay đã tăng tới hơn ba tỷ rồi, còn nếu tính riêng Kitô giáo thì gần hai tỷ.
- H. Muốn học hỏi để gia nhập đạo Trời, tức Thiên Chúa giáo hay Kitô giáo, ta có thể căn cứ vào đâu và đến với ai?
- Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ 2000 năm nay ở khắp các nước trên thế giới.
Căn cứ nhất là vào Bộ sách sử ghi chép và tường thuật đạo Chúa là bộ Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước (Đạo Trời thời cũ) do ông Mô-sê ghi chép 1500 năm trước dương lịch, và phần Tân Ước (Đạo Trời thời mới) từ Đức Giêsu Kitô về sau, do các môn đệ Ngài ghi chép: đấy là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa đến nay, vì đã được dịch ra hơn 2.000 thứ tiếng và in trên 3 tỷ cuốn.
Nước nào (kể cả nước Việt Nam chúng ta) cũng có sách Kinh Thánh và sách Giáo lý in bằng tiếng nước mình, nên việc học hỏi đạo được dễ dàng.
Sách Kinh Thánh là nền tảng của Đạo, đi Đạo mà không đọc, không học hỏi và suy gẫm Kinh Thánh thì làm sao hiểu biết và yêu mến tôn thờ Thiên Chúa, chẳng khác gì như lời người ta bảo là “ăn ốc, nói mò” vậy.
Còn việc gia nhập đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh Công giáo chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu. Tuy vậy chúng tôi xin đưa ra một đề nghị là nếu vì một lẽ gì đó mà hiện tại việc ấy chưa thể thực hiện ngay được, thì ngay bây giờ, sau khi đã đọc xong tập sách nhỏ này và đã thấy đúng, độc giả có thể tự đáy lòng nói lên niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và đạo Chúa. Thế là đã trở thành tín hữu rồi vậy. Vì đạo cốt tại NIỀM TIN trong tâm hồn. Các Bí tích chỉ phụ thêm sau. Bởi niềm tin trong tâm hồn, ta đã thuộc về Đạo Chúa rồi vậy.
Lòng Trời lượng cả bao dong,
Biết rồi không lẽ mà không trở về…
Xưa kia chỉ biết kêu “Trời”
Ngày nay lại biết rằng: “Trời là Cha”
Trần gian chưa phải là nhà,
Thiên đàng vĩnh phúc mới là chính quê.
Chữ rằng: Sinh ký tử qui,
Nghĩa là: sống gởi thác về đời sau.
- H. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, có danh thơm tiếng tốt ở đời, mà khi gặp đạo Trời, lại bỏ đạo tự nhiên mà theo đạo Trời?
- Vì đạo tự nhiên thực ra cũng là đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai, thô thiển còn thiếu sót. Vả lại giữ đạo cốt làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời, là Đấng sinh thành, dưỡng nuôi và thưởng phạt người ta sau này, nhờ đó mà đạt hạnh phúc thật. Vì thế khi người thiện tâm gặp được đạo Trời ở giai đoạn hoàn hảo thì không thể không theo được.
Đức Giêsu Kitô đã ví đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người chỉ gặp thấy một lần, nên ai khôn ngoan thật đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém cỏi để sắm cho bằng được thứ ngọc hảo hạng này. Những ngọc khác kém cỏi nói đây muốn ví về luân lý đạo tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử như các ông Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử, Lão Tử ở Trung hoa; Sô-kra-tê (Socrates), Pơ-la-Tô (Platon), A-rit-tốt (Aristote) ở Hy lạp; hay Thích Ca, A-đi-đà ở Ấn độ đã theo lương tâm thực hiện và phổ biến được phần nào.
Các vị đó được coi là những sứ giả tiền phong của đạo Trời. Bởi thế, khi chính đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự giáng trần của Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả tiền phong đương nhiên nhường bước, và lòng người tất nhiên hướng về đạo Trời, là chỗ có chân lý hoàn toàn và thiện mỹ viên mãn vậy.
- H. Đạo Trời so với đạo ông bà tổ tiên thì như thế nào?
- Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào trần gian trong cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng phải từ giã cõi trần mà về với Trời: “Sinh ký, tử qui” là thế!
Đàng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta, nên hiếu nghĩa cũng phải theo hướng Trời sắp đặt, vì vậy không nên dừng lại ở tổ tiên mà phải lên cao hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài (Thiên vi vạn vật chi tổ), còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc xích trung gian truyền sự sống đến ta mà thôi. Phận con cháu nhớ công ơn cúc dục cù lao, nuôi nấng dạy dỗ là điều chính đáng phải đạo, song không nên dừng lại ở đó.
- H. Có người nghĩ rằng theo đạo Trời thì không đơm cúng thực phẩm, đồ dùng cho ông bà nữa, sẽ để ông bà đói khổ nơi suối vàng, vì thế mà có người tuy mến đạo Trời, vẫn chưa trở lại, nghĩ thế có đúng không?
- Lòng thương tiếc tổ tiên ông bà đã quá cố là việc tốt, nhưng nghĩ rằng vong linh ông bà còn cần cơm gạo, bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì một khi đã quá cố, xác trở về bụi đất không còn ăn uống gì được nữa, chỉ còn linh hồn, mà linh hồn là giống thiêng liêng không cần vật chất như xác, bởi vậy cúng quảy thực phẩm, đồ dùng vật chất cho ông bà dùng và ăn để khỏi đói khổ là vô ích.
Việc hiếu nghĩa tốt nhất ta có thể làm là thành khẩn cầu xin với Trời mở lượng hải hà, nhất xá vạn xá, cho linh hồn ông bà vào hưởng phúc với Trời sớm ngày nào hay ngày ấy; đó là thiết thực và cần kíp hơn hết.
Bên Công giáo, con cháu tỏ lòng hiếu thảo nhớ ơn Tổ tiên ông bà bằng cách cầu nguyện hằng ngày cùng Thiên Chúa (Thượng Đế), và tùy dịp còn xin các linh mục dâng Thánh Lễ mong Ngài ban ơn cho ông bà được mau siêu thoát mà về hưởng phước vô cùng nơi Ngài.
Chẳng những riêng gia đình ấy mà lại cả xứ đạo, cả họ đạo cùng dâng Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện cho. Mỗi năm lại dành hẳn 1 tháng để toàn thể người có đạo trên thế giới hợp ý cầu cho nữa.
Ngoài ra, các ngày kỷ niệm, tuần ba, tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm ngày hay giỗ đầu, giỗ năm của ông bà, thì gia đình họp nhau cầu nguyện trước Bàn Kính ông bà, được đặt dưới Bàn Thờ Chúa (xem hình), thắp nến, dâng hương, đơm bánh trái hoa quả không phải cho ông bà về ăn song để tỏ chút lòng thành xin ông bà chứng giám cho lòng thảo hiếu, biết ơn của con cháu. Xét thế, theo đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên.
- H. Có người nghĩ đạo nào cũng như đạo nào, đều dạy người ta ăn ngay ở lành, thì cần gì phải bỏ đạo mình theo đạo Chúa?
- Đạo có hai phần: phần giáo lý và phần luân lý. Nếu chỉ nói phần luân lý là những điều dạy ăn ngay ở lành, cấm trộm cướp, giết người, tránh tà dâm v.v… thì có thể nói hầu như các đạo đều dạy giống nhau; nhưng nếu nói đến phần giáo lý thì đạo Chúa khác xa các đạo khác, vì dạy cho người ta biết Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và dạy cho biết cách sống thân tình thiết nghĩa với Thiên Chúa như con cái với Cha mình vậy. Mà giáo lý đó thì phải do chính Thiên Chúa truyền dạy mới biết được.
- H. Có người biết đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống bừa bãi, vì ngại khó giữ, nên chưa dám trở lại, nghĩ thế có được không?
- Đạo lý tối đại, (Đạo là điều cao trọng nhất), sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chứ có phải là cứu cánh, là cùng đích của con người đâu. Dù ở đâu, đi đâu, dù bận rộn tối ngày, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời mà sống như cá trong nước vậy. Làm nên được gì cũng là do Trời phù giúp, “mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”, sao ta lại quên được vị đại ân nhân của ta là Trời?
Còn nếu người ta muốn sống phóng túng, ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là người ta tự giảm giá trị và tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – sinh hữu kỳ, tử bất định – và chết rồi phải chịu phán xét ngay, lúc ấy hối cũng không kịp.
Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công, Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Hoàng đế Sạc-Lơ Qanh (Charles Quint) (1500-1558), nước Đức, có một cái rương nhỏ, đi kinh lý đâu cũng mang theo, các quan nghĩ là đựng vàng ngọc quý giá. Một hôm, Hoàng đế muốn cho các quan một bài học và hết thắc mắc, nên dạy mở rương trước mặt mọi người. Trong rương chỉ có một tấm khăn liệm… Trước sự bỡ ngỡ của bá quan, Hoàng đế cho biết mình dọn mình chết hằng ngày bằng cách mang theo khăn liệm, nhờ đó để tu thân tích đức, cố gắng làm việc phúc thiện, vì có những việc lành đó mới giúp ích cho mình đời sau mà thôi. Còn mọi sự vật ở đời này thì chỉ như :
Mây tán, tuyết tan,
Hoa tàn, nguyệt khuyết,
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết.
Chỉ việc lành, việc dữ
Sẽ theo ta khi chết mà thôi.
ÈÈXÇÇ
PHỤ LỤC
Xin trích dẫn sau đây vài cảm tưởng của một số nhân vật có tên tuổi đã trở lại đạo Trời sau nhiều suy nghĩ, tìm tòi và thành tâm học hỏi ở nơi thiên nhiên, sử sách, bè bạn, ở cốt cách tinh hoa và ảnh hưởng tốt lành của Đạo.
- Ông Lục Trung Tường, nhà ngoại giao Trung hoa, từ nhỏ đã là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ biết có đạo ông bà tổ tiên, sau đã gặp được đạo Công giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường đạo, đã hiến thân làm Linh mục và đã làm đến Viện trưởng của một Tu viện. Ông nói:
Ơn cứu độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Kitô đã dạy và đã cho chúng ta thụ hưởng để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời.
(The Ways of Confucius and of Christ. Tạm dịch: Đường lối của Đức Khổng Tử và của Đức Kitô)
- Ông Ngô Gia Lễ, Tri phủ Kim Sơn, Ninh Bình, Bắc Việt, vì tiếp xúc với nhiều người Công giáo, ông cất công tìm hiểu đạo lý, đã đọc sách Phúc Âm, đã nhận ra được tính cách siêu việt của Đức Kitô, Con Trời giáng thế. Ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Kitô. Ông nói:
Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Kitô không phải chỉ là một nhân vật khác thường. Ngài chính là Con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra nhờ đọc Phúc Âm.
(Trích sách : Ông tổ đạo Công giáo)
- Ông Trịnh Sùng Ngô, Giáo sư Triết lý tại trường Đại học Honolulu, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh trưởng trong gia đình thấm nhuần tư tưởng Tam giáo Khổng-Lão-Phật. Sau khi trở lại đạo Thiên Chúa, ông đã giúp nhiều bạn hữu biết đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên dịch Thánh Kinh và Thánh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói:
Thiên Chúa giáo là đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu châu. Đạo đó không phải của Âu châu hay Á châu, không cũ, không mới. Tôi cảm thấy đạo đó tiềm ẩn ở trong tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão giáo, Khổng giáo, Phật giáo, là những đạo tôi đã hấp thụ từ khi sinh ra. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với Đức Giêsu Kitô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được đến với Đức Giêsu Kitô để ở luôn với Ngài, thật là vui sướng vô biên! Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay, sự sống và bản thể của tôi được đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa Kitô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện.
(Trích cuốn: Par delà l’ Est et l’ Ouest. Tạm dịch: Vượt quá Đông và Tây.)
- Ông Mashaba, một học giả Ấn độ, sinh tại Bihar trong một gia đình theo Ấn giáo, sau du học bên Anh nhiều năm, tuy có tài về hành chánh, ông không nhận một công tác nào trong khối Liên Hiệp Anh. Sẵn khuynh hướng về thần bí học, ông đã sống độc thân để nghiên cứu các tôn giáo. Sau 20 năm tìm tòi, suy luận về Ấn giáo, Bà la môn giáo, Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo, Hồi giáo, Thần đạo Nhật bổn, Do thái giáo, Thiên Chúa giáo và các phái Tin lành Âu Mỹ, ông đã phân tích như sau:
Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi vị Giáo tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế có nơi kêu gọi từ bi quảng đại, có nơi chủ trương diệt dục hy sinh, có nơi dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có nơi giúp tu thân cứu đời, công bằng, bác ái, v.v…; nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa giáo, vì xây dựng cho con người một cuộc sống có ý nghĩa cao thượng, bảo đảm cho một tương lai hạnh phúc, và có nhiều đặc điểm mà các tôn giáo khác không có như:
- Vị Giáo tổ từ Trời giáng thế và đã được Sấm ký báo trước từ mấy ngàn năm trong lịch sử hẳn hoi, khác hẳn với những giáo tổ khác chỉ là người trần tục.
- Có từ trời xuống lập đạo thì đạo đó mới có khả năng đưa con người ta về Trời được.
- Đạo Trời là như thuốc trường sinh, dùng thuốc này thì không cần thuốc nào nữa; vì các đạo khác chỉ xoa dịu hay làm quên đau khổ trong một thời hạn, còn đạo Trời chẳng những cứu khổ mà còn ban cho con người sự sống đời đời, vốn thật là ước vọng tột đỉnh của mỗi người.
- Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng sự chết, đã sống lại và về Trời, bảo lãnh cho cuộc hành trình của tín đồ trên đường đời (là sẽ về được tới trời), và đó là hy vọng vững chắc của người tín tín đồ.
- Vì mang sắc thái siêu phàm và chứa đựng những giá trị cao thượng vượt mức, nên Kitô giáo thường bị ghen tị, hiểu lầm hay lấn át, thế mà vẫn phát triển điều hòa, vẫn vững bền giữa mọi gian lao, thử thách, khiến cho nhiều kẻ trước kia thờ ơ, lãnh đạm hay thù ghét phải tìm hiểu, cảm phục, và do đó nhiều khi lại trở nên tín đồ nhiệt thành.
Ông kết luận bằng một ví dụ: Trước khi mặt trời mọc, người ta đã thấy ánh sáng lờ mờ của nó. Vậy những điều tốt đẹp trong các đạo khác cũng là ánh sáng mờ mờ của đạo Trời chiếu vào nhân loại, trước khi chính Con Trời giáng thế làm sáng tỏ hẳn đạo Trời. Nay, ngày của cuộc đời đã đến lúc chính ngọ thì không ai mà không được ánh sáng đạo Trời soi tới.
- Tiến sĩ Phan Như Ngọc, nguyên giáo sư Triết học duy vật, thành viên viện Khoa Học Việt Nam, viết trong tập chứng từ:
“Tôi sinh ra và lớn lên trong lòng miền Bắc Nước Việt Nam Xã hội Chủ Nghĩa. Suốt 10 năm trung học phổ thông, tôi luôn được dạy rằng vũ trụ này tự nhiên mà có, không có Ông Trời nào hết. Rồi tôi vào học ngành vật lý của trường Đại Học Tổng Hợp Hà nội. Tôi phải học Triết học duy vật một cách có hệ thống, trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt là quan điểm “vật chất có trước, vật chất quyết định ý thức”. Chỉ những gì con người cảm nhận được trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các giác quan mới tồn tại (hay hiện hữu).
Như thế chủ nghĩa duy vật đương nhiên chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, vì không ai có thể nhờ giác quan của mình sờ đụng được hoặc cảm nhận được Ngài. Lúc bấy giờ tôi cảm thấy chủ nghĩa duy vật là đúng. Ai tin có Thiên Chúa, tôi đều coi là duy tâm, là mê tín dị đoan cả.
Sau khi tốt nghiệp, tôi làm nghề dạy học. Tôi vừa phải dạy vật lý, vừa thông qua môn học này để giáo dục tư tưởng duy vật cho sinh viên. Vì thực tâm tin ở sự đúng đắn của chủ nghĩa duy vật, nên tôi giảng dạy rất say sưa, không thấy gò bó gì cả. Mười ba năm tôi dạy học là mười ba năm tôi bước đi trên con đường xa cách Thiên Chúa và chống lại đường lối của Ngài.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy xót xa ân hận vô cùng. Nếu linh hồn của lớp sinh viên đàn em tôi bị hư mất, thì chính tôi phải chịu một phần trách nhiệm. Tôi đã vô tình gây nên tội.
Năm 1976, tôi trở thành nghiên cứu sinh ở Hungary. Có chút bằng cấp nước ngoài rồi, tôi không dạy học nữa mà xin về làm ở Viện Vật lý thuộc Viện Khoa Học Việt Nam. Về sau, tôi được cử làm trưởng phòng của Phòng nghiên cưú Vật Lý Hạt nhân, trong đó có sáu phó tiến sĩ cùng làm việc. Chúng tôi đã từng ký kết và thực hiện hợp đồng với Cơ Quan Nguyên Tử Quốc Tế (International Atomic Energy Agency), cộng tác nghiên cứu các phản ứng tổ hợp hạt nhân vào mục đích hoà bình. – Tôi đã đi dự một số hội nghị khoa học quốc tế để báo cáo về các công trình nghiên cứu này.
[… Bỏ qua một vài dòng không cần thiết]... Năm 1989, tôi đã xin ở lại bên nước Đức, và một hôm tôi gặp một nhà truyền giáo người Hà Lan, tên là Henk Wolthaus, và xin một quyển Kinh Thánh bằng tiếng Anh…. Đọc thử mấy dòng đầu cuốn Kinh Thánh, tôi đã thấy vô lý : “Ban đầu Đức Chúa Trời đã dựng nên trời đất”. Lương tri tôi bật lò xo. Đó là phản ứng tự nhiên của một người đã sống gần 50 trong định kiến vô thần. Nhưng rồi tôi nhớ lại, chính nhà bác học Newton cũng cho rằng: sở dĩ các thiên thể chuyển động nhịp nhàng được là nhờ “cái hích đầu tiên của Thiên Chúa” mà ngày trước tôi đã từng phân tích cho sinh viên đây là quan điểm hoàn toàn sai lầm.
Tự nhiên tôi nghĩ rằng Newton, người phát minh ra định luật “hấp lực của vũ trụ” được coi là phát minh vĩ đại nhất của lịch sử văn minh nhân loại, lại có thể kém như thế ư? – Và tôi tự trả lời: “Không thể được, chắc là vì mình dốt, không hiểu được ông ta. Có lẽ Đức Chúa Trời có thật”.
Rồi tôi ráng đọc tiếp câu chuyện Chúa sáng tạo vũ trụ trong vòng 6 ngày. Tất cả như một câu truyện thần thoại dành cho trẻ con. – Khi đọc Tân Ước, tôi lại thấy có nhiều điểm không thể chấp nhận được. Có thể tin chăng một người mù được sáng mắt, người cùi được sạch, người què được đi, người chết đã có mùi sống lại chỉ nhờ một lời phán ? Ai có thể đi bộ trên mặt nước, ra lệnh bão tố vô tri phải dừng ?
Những phép lạ đầy dẫy trong Kinh Thánh làm cho cái đầu quen suy nghĩ theo kiểu vô thần của tôi không sao hiểu nổi. – Đúng lúc ấy, trong đầu tôi nảy ra một câu hỏi, mà bây giờ tôi biết chính Chúa đã đến gỡ rối cho tôi. Câu hỏi đó là: “Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới tin Kinh Thánh, trong số đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại mà tôi ngưỡng mộ? Họ cuồng tín hay chính mình ngu dốt ?
Rồi tôi đọc được những câu bất hủ sau đây:
Charles Dickens (1812-1879), Đại văn hào người Anh, viết: “Kinh Thánh Tân Ước chính là cuốn sách tốt nhất đã từng được hoặc sẽ được biết đến trên thế giới.”
Ngài Isaac Newton (1642-1727), người Anh, nhà khoa học mà tôi đầy lòng khâm phục, đã kết luận: “Trong Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực (của Thiên Chúa) hơn trong bất cứ một câu truyện nào chống lại sách đó.”
Victor Hugo (1802-1885), Đại văn hào người Pháp, viết : “Nước Anh có hai cuốn sách: cuốn Kinh Thánh và Shakespear. Nước Anh sinh ra Shakespear, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”
Albert Einstein (1879-1955) người Đức, nhà vật lý học được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã phát biểu: “Khoa học không có tôn giáo là mù loà. Tôn giáo mà thiếu khoa học là què quặt.”
Lúc bấy giờ tôi chưa hiểu được nhiều, nhưng Chúa biết tôi là người từng được học và làm khoa học, nên đã dùng tiếng nói của chính những nhà khoa học vĩ đại để mở mắt cho tôi.
… Quả nhiên tôi đã bị Ngài chinh phục dễ dàng. Cái tư tưởng vô thần được tích lũy công phu và sử dụng trong bao nhiêu năm nay, bị đánh bật khỏi đầu óc tôi. Trước đây tôi vẫn nghĩ đơn giản: “Không có Đức Chúa Trời, vì không ai chứng minh được sự hiện hữu của Ngài.”. Nhưng bây giờ tôi lại biết đặt câu hỏi mới:
“Ai đã chứng minh được Đức Chúa Trời không hiện hữu?” … Có nhiều cái hiện hữu mà ta không thể nhận biết bằng cảm giác, chẳng hạn như trí khôn con người. Không có và không thể có một máy móc nào đo được trí khôn. Vì vậy quan niệm “có Chúa hay không có Chúa” là vấn đề Đức tin, nằm ngoài phạm vi của khoa học, của cảm giác. Nói theo ngôn ngữ khoa học đây là những “tiền đề” (Axioms). Thật ra tiền đề “có Chúa” dễ tin hơn tiền đề “không có Chúa” nhiều.
Nhà bác học Newton đã làm một mô hình hệ thống thái dương hệ rất đẹp, để ngay trên bàn làm việc (xem ở trang 13 trên kia). Một hôm có một người bạn vô thần đến thăm. Ông bạn khen mô hình đẹp quá và hỏi: “Ai đã làm nên vậy?” Newton hóm hỉnh trả lời: “Tự nhiên mà có đấy thôi.” Ông bạn không tin. Newton mới nói: “Thế tại sao cậu lại tin cả vũ trụ chuyển động nhịp nhàng này tự nhiên mà có, không cần Đấng Sáng tạo ?”
… [Bỏ qua đoạn: Dần dà, ông đọc những lời của Chúa Giêsu, rồi ông nói]:
“Tôi thật sự cảm động trước những lời dạy đầy tình yêu thương của Ngài, tôi đã quì gối ăn năn về những tội lỗi trong những năm sống vô thần, và thành kính mời Ngài vào làm chủ cuộc đời mình. Từ đó, đời tôi hoàn toàn được đổi mới, tràn ngập ánh sáng, bình an và hy vọng.”
(Trích cuốn: Chứng từ của Ts. Phan Như Ngọc, 2006).
Bạn muốn tiếp xúc trực tiếp với Ts. Phan Như Ngọc:
Pnngoc@gmx.net
hoptinhhoply.org
***
Trên đây chỉ là thí dụ của một vài nhân vật điển hình thôi, còn hằng năm ở đâu cũng có nhiều người thiện tâm thiện chí nhờ bè bạn, sách vở, báo chí hay giao thiệp với người bên đạo mà có dịp suy nghĩ, tìm hiểu và nhận thấy sự cần thiết của đạo, nên tìm cách trở về đạo Trời. Mỗi năm, nếu thống kê cả thế giới, con số theo đạo không phải là nhỏ; riêng ở Việt Nam, theo thống kê của Tổng Giáo phận Huế và Tổng Giáo phận Saigon, thì thí dụ trong năm 1961, số người trở lại đạo Chúa là hơn 100.000 người, gồm đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần và giai cấp xã hội.
---oOo---
MỤC LỤC
Vài lời ngỏ… 3
- Đạo Trời là gì?...8
- Nhờ đâu nhận biết có Trời? …9
- Những người tin tưởng ở Trời có nhiều không? …14
- Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không?... 16
- Nơi mỗi người, làm thế nào biết được đạo Trời?...19
- Mỗi người phải giữ đạo Trời thế nào?...20
- Dân chúng từ xưa thờ kính Trời thế nào?... 21
- Đạo Trời dạy ta cư xử với nhau thế nào?...23
- Đạo Trời có từ bao giờ?...25
- Ý Trời là thế nào?..............
- Đạo Trời đưa ta đến đâu?.. 26
- Thi hành đạo Trời có khó không? 27
- Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào?.. 28
- Con người đối phó thế nào với ba loại kẻ thù đó ?...29
- Satan, ma quỉ ở đâu ra mà mưu hại con người đến thế?...30
- Có ai thắng Satan chưa, làm sao mà biết đã thắng?...31
- Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố thế nào?...32
- Việc Đức Giêsu Kitô đến có lợi gì cho nhân loại?...36
- Sự nghiệp Đức Giêsu Kitô còn tồn tại bằng cách nào?...37
- Muốn gia nhập đạo Trời ta căn cứ vào đâu và đến với ai?...39
- Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên mà lại bỏ để theo đạo Trời?..41
- Đạo Trời so với đạo ông bà tổ tiên như thế nào? …43
- Có người nghĩ rằng theo đạo Trời thì không đơm cúng…, để ông bà đói khổ, nghĩ thế có đúng không?...44
- Có người nghĩ đạo nào cũng như đạo nào, … thì cần gì phải bỏ đạo mình theo đạo Chúa?...47
- Có người biết đạo Trời là cần, nhưng vì sinh kế, vì còn muốn sống phóng túng,… nên chưa dám trở lại, nghĩ thế có được không?...47
PHỤ LỤC
Chứng từ của vài danh nhân về Đạo Trời… 50
- Ông Lục Trung Tường…50
- Ông Ngô Gia Lễ…51
- Ông Trịnh Sùng Ngô…52
- Ông Mashaba…53
- Tiến sĩ Phan Như Ngọc…56
MỤC LỤC…64
Sách tặng không bán.
Sau khi đọc, suy nghĩ cảm thấy được, xin quý vị trao cho người khác hoặc nhân thêm bản để mọi người cùng đọc.