ĐÂU CÓ HẠNH PHÚC THẬT? *** Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR
15 Tháng Mười Hai 2021
ĐÂU CÓ HẠNH PHÚC THẬT?
Lm. Phê-rô Hoàng Minh Tuấn, CSsR
2018
ĐÔI LỜI THIẾT NGHĨA
THÂN GỬI BẠN ĐỌC
Thưa bạn đọc thân mến,
Tiếng “đồng bào” mà chúng ta thường dùng đúng nghĩa ra là “anh em ruột thịt”, con của một Cha chung sinh thành nuôi dưỡng, còn loài người là chỗ cốt nhục với nhau, “Tứ hải giai huynh đệ” nên phải thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau.
Vì chúng tôi tin chắc như vậy nên tìm cách để giúp bạn đọc nhận ra vị Cha chung ấy và tìm con đường dẫn đến đó.
Cuốn sách nhỏ này là để phục vụ công việc ấy, mời bạn cầm lấy và đọc đi đọc lại, để hiểu những điều sách dạy. Vì những điều dạy trong sách này không phải bởi người ta, mà là bởi Trời, vì trích ra từ Sách Lời Chúa Trời phán dạy, chúng tôi chỉ ghi chép tóm tắt lại.
Những điều Trời dạy là Chân lý. Và Trời dạy bạn chân lý chỉ vì thương yêu bạn, muốn cho bạn được hạnh phúc.
Một người anh em của bạn
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ NHẤT
CHÚNG TA, AI CŨNG MUỐN ĐƯỢC HẠNH PHÚC
Ai cũng muốn được hạnh phúc. Hạnh phúc là mục đích của đời sống. Con người không thể sống nếu không có hạnh phúc. Cả cuộc đời là một chuỗi ngày nỗ lực đi tìm hạnh phúc.
Vì thế, cần nhất là phải biết hạnh phúc thật là ở đâu? Và con đường nào hay phương thế nào đưa đến hạnh phúc đó?
Phần đông người ta đi tìm nơi vật chất: tiền bạc, của cải, ăn ngon mặc đẹp, khoái lạc, quyền chức, tiếng tăm, danh vọng v.v… Nhưng vì con người không chỉ có thể xác, mà còn có cái “tâm”, “tâm hồn” hay “tâm linh”, mà không một thứ vật chất nào có thể làm thỏa mãn, cho dù tiền tài, lạc thú, danh vọng, chức quyền, khoa học, ngay cả tình yêu hay tình bạn, v.v… Những cái đó chỉ làm vui thỏa bên ngoài ít lâu, không bao giờ làm cho mãn nguyện hoàn toàn, và cho đi có làm thỏa mãn thì cũng chẳng bền, vì “đời người như bóng câu phi qua cửa sổ”, chết là mất hết.
Vì thế, ta chỉ được hạnh phúc khi:
- Được thỏa mãn hết các nguyện vọng chính đáng của tâm hồn và thể xác.
- Vượt thắng mọi đau khổ;
- Đạt mọi sự tốt lành, làm cho ta hoàn toàn sung sướng;
- Và phải cứ như thế mãi mãi, không hề mất hay suy giảm, vì nếu nó có thể mất hay suy giảm, thì lòng ta đâm áy náy không yên, mà hễ có lo lắng, áy náy thì đâu còn hạnh phúc nữa…
Tất cả những điều tốt đẹp nói trên chỉ có thể tìm thấy ở Đạo thật.
Vì thế:
Việc tìm Đạo thật là một vấn đề trọng đại nhất và trọng đại vô cùng của đời sống mỗi người.
Và…
Tìm được Đạo thật, là một Phúc lớn!
Phải, phúc lớn và ơn to tát vô cùng mà “Ông Trời” hay Thượng Đế Đấng Chí Tôn muốn dành cho bạn. Vì sao? Vì Đạo thật đem đến cho bạn Hạnh phúc thật, Hạnh phúc không chỉ cho tâm hồn, không chỉ cho cuộc đời trần gian này, mà còn là hạnh phúc muôn đời muôn kiếp trên chốn trường sinh bất diệt…
Do đó:
Chọn đúng Đạo thật được coi là khôn, chọn sai, bị coi là dại!
Trong dân gian của chúng ta có truyện “Thằng Bờm có cái quạt mo, Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu. Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu…” và phú ông đưa ra bao nhiêu vật lớn lao quý giá khác, Bờm cũng không chịu đổi, đến lúc cuối cùng phú ông đưa ra “nắm xôi, thì Bờm cười”. Bờm chịu đổi.
Bà con lối xóm chê thằng Bờm là ngu, thằng Bờm là dại… vì không biết 3 bò 9 trâu đáng giá ngàn lần hơn nắm xôi. Nhưng thật ra thằng Bờm rất khôn, nó thấy nắm xôi mới là “thật”, còn những bò, trâu gì gì đi nữa chỉ là “ảo”, là giả, ông phú hộ già đời lão luyện đưa ra nhằm đánh lừa nó.
Thì về vấn đề đạo cũng vậy, trước đây, vì bạn chưa hiểu giá trị của Đạo thật, nên không để ý, nên không chọn. Khi bạn được chỉ dẫn mà biết rõ Đạo thật là giá trị và tốt lành vô cùng, chắc bạn sẽ vui lòng đón nhận ngay.
Nếu chọn không đúng, hậu quả là thế nào?
Là họa khốn cho đời mình không chỉ ở trần gian ngắn ngủi này, mà còn kéo dài vô cùng vô tận ở đời sau. Và họa khốn không những cho cá nhân mình, mà cho cả dòng tộc con cái cháu chắt mình nữa. Khốn không phải một trăm năm, mà là khốn mãi mãi muôn ngàn vạn kiếp...
Vì thế, phải coi trọng việc đi tìm Đạo thật
Nếu việc tìm được Đạo thật hay không là phúc hay họa đến vận mạng muôn đời của ta và con cháu ta như thế, nên ta không thể coi thường việc tìm và hiểu đạo, không thể đành lòng chỉ biết lơ mơ, qua quít.
Truyện kể rằng: Có một thanh niên kia, tầm sư để học đạo. Sau nhiều khổ công, cậu tìm được một vị cao thâm đắc đạo. Nghe cậu trình bày ước muốn xong, ông lẳng lặng đưa cậu ta tới một khúc sông rồi nắm lấy cậu, dìm xuống nước. Sặc sụa một hồi, mới được cho ngoi lên.
Tức tối cậu ta lên tiếng trách:
- Tôi đến đây xin học đạo, thầy không muốn dạy thì thôi cớ sao lại định giết tôi?
Lúc ấy vị tôn sư mới ôn tồn nói:
- Khi nãy chìm dưới nước ngộp thở, nhà ngươi mong gì? Phải chăng mong được một hớp khí? Vậy muốn học đạo, ngươi cũng phải khao khát như khao khát một hớp khí để khỏi chết ngạt vậy.
Đấy, tìm Đạo thật, bạn cũng phải khao khát như vậy. Không đành chỉ biết sơ sài! Nếu không đủ tài lực để khảo cứu sâu rộng được, thì ít nhất chẳng nên tiếc việc bỏ ra một ít thời giờ đọc tập sách nhỏ bạn đang cầm trên tay đây. Bạn chỉ cần mỗi ngày dành mươi lăm phút, đọc một đoạn, rồi ngẫm nghĩ, để mà tìm được Đạo thật tức là tìm được hạnh phúc quý báu vô cùng cho mình, bạn nghĩ xem có đáng không?
Ngoài việc đem thành tâm để khảo cứu và tìm hiểu Đạo thật, bạn cũng nên để tâm kêu cầu “Ông Trời” hay Thượng Đế, Đấng Chí Tôn soi sáng chỉ dẫn cho. Không cần dùng công thức nào, bạn cứ tự nhiên mà nguyện xin trong tâm hồn đã đủ, điều cần là xin đi xin lại, để tỏ ra bạn quý ơn trời bể ấy thì sau rồi mới đáng lãnh nhận.
Chắc bạn sẽ hỏi:
TÌM ĐẠO THẬT Ở ĐÂU?
Vì trên đời này có lắm đạo khác nhau và có khi còn ngược nhau, tất không có thể là Đạo thật tất cả. Chẳng phải ta thường nói “Sự thật chỉ có một”, nếu đạo này là Đạo thật thì các đạo kia là đạo không thật.
Xưa, từ cội nguồn chỉ có một đạo mà thôi là Đạo Chúa truyền, như lời thầy Mạnh Tử nói:
“Đạo gốc chỉ có một không hai”
Nhưng vì dần dần loài người sinh sản đông đúc, mỗi người tản lạc đi mỗi nơi, tha phương cầu thực, nên người ta quên đạo gốc đi. Nhưng bởi vì trong lòng vẫn nung nấu tiềm tàng nỗi khát vọng Thượng Đế, khiến người ta lập thêm nhiều đạo với mong ước họa may mò mẫm mà tìm được Ngài. [Sách Công vụ các Tông đồ, chương 17 câu 27 (Từ đây về sau, chỉ viết vắn tắt : “Sách Công vụ”, ch., c. v.v…) ]
- Nhưng dĩ nhiên các đạo mà do người trần lập ra thì không thể là đạo thật. Vì tôn giáo có nhiều điều cao siêu, huyền bí, siêu việt, tâm trí người trần tục có giới hạn nên không thể thấu triệt, dễ mắc sai lầm. Lại vốn là “nhân vô thập toàn” dù có bộ óc siêu đẳng và tâm hồn thánh thiện đạo đức thâm sâu đến đâu đi chăng nữa, thì nói đúng điều này sẽ lại khiếm khuyết điều kia….
- Rồi đạo nào pha những sự dị đoan, thờ mặt trời, mặt trăng, thờ thần sông, thần núi, thần lửa, thần voi, thần rắn…, thờ cây đa bình vôi, v.v… như thế là tôn các vật vô tri giác hay cầm thú lên thành thần mà thờ: thì đạo ấy cũng không thể là Đạo thật.
- Đạo nào thờ tạo vật ngang hàng với Đấng Tạo hóa, không là Đạo thật.
- Đạo nào tôn thờ một người phàm như Chúa tể, tin người ấy có sức cứu độ những kẻ thờ bái, cũng không thể là Đạo thật.
Và v.v…
*
Căn cứ theo những tiêu chuẩn trên đây thì: Chỉ Đạo Chúa mới là Đạo thật.
Vì sao nói được như thế?
Thưa: Vì…
- a) Đạo này thờ Thiên Chúa là Chủ tể càn khôn, đã tạo dựng nên trời đất và muôn loài muôn vật kể cả loài người. Ngài là “Ông tổ” của tất cả, “Ông tổ” trên cả tổ tiên ông bà của ta. Tất cả những vật, những người nêu trên, không trừ ai, đều là thụ tạo do Ngài dựng nên, vì thế Đạo Chúa không thờ họ, mà chỉ thờ Đấng dựng nên họ. Thờ thọ tạo, thì chẳng khác gì thờ đầy tớ mà bỏ ông chủ.
- b) Đạo thờ Thiên Chúa là “Đạo gốc xuất từ trời”, “xuất ư Thiên”, do Thiên Chúa lập ra Đạo để dạy chính lộ cho loài người đi theo không lạc lối, vì chỉ mình Thiên Chúa mới cho biết phải sống thế nào mà đến được với Ngài. Bởi vậy khi nào có ai theo Đạo Chúa, người ta thường nói: “Trở lại đạo”, nghĩa là bỏ đàng lạc mà trở về nẻo chính.
- c) Chỉ Đạo Chúa mới đưa người ta tới hạnh phúc thật! Vì sao?
Một là vì Thiên Chúa chính là Hạnh phúc tuyệt đỉnh, không có ai hay thần thánh nào so sánh được với Ngài (Sách tiên tri Isaia, ch. 40, c.18,25; ch.46, c.5)
Bởi Ngài vốn là Đấng Trọn Tốt Trọn Lành, Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ…
Hai là vì Đạo Chúa thỏa mãn nhu cầu của trí khôn ta muốn biết những điều quan trọng và cần ích tuyệt đối của đời sống con người:
- Về thân phận ta: Bởi đâu mà có ta?
- Về mục đích cuộc đời ta: Ta sống trên đời để làm gì?
- Phải sống thế nào cho được hạnh phúc thật?
- Vận mạng ta sau khi chết: Sau cái chết có sự gì? Và ta sẽ ra sao?
- Vũ trụ hiện nay từ đâu mà có, và có để làm gì?
- Tương quan của ta với các người đồng loại, với mọi loài mọi vật, với thiên nhiên, với môi trường, v.v…
Qua những điều đó, Đạo Chúa dạy cho ta biết sống cuộc đời trần gian này thế nào, để sau cuộc đời dương thế này, ta được về trời ở cùng Thiên Chúa, tức là về cõi Thiên Đàng, ở đấy được hoàn toàn thỏa mãn mọi ước vọng chính đáng của mình và sung sướng hạnh phúc vô cùng vô tận… (Sách Khải Huyền, ch 21 câu 4-5)
*
Chúng tôi đã nghiên cứu, đã sống và cũng đã nghiệm thấy Đạo Chúa là Đạo thật, đã đưa chúng tôi tới hạnh phúc thật, giải quyết hết sức thỏa đáng mọi vấn đề quan trọng và cần ích của đời người nêu trên kia, cho nên chúng tôi xin giới thiệu Đạo Chúa, chính tông là Đạo Công giáo, cho bạn.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ HAI
BẠN SẼ ĐƯỢC ĐẠO CHÚA CHO BIẾT:
BỞI ĐÂU MÀ CÓ TA?
Bạn sinh ra trên cõi đời tràn đầy muôn sự tốt đẹp này, nhìn lên trời đất bao la, thiên nhiên hùng vĩ và kỳ diệu, trên trời mặt trời mặt trăng và muôn ngàn tinh tú đều xoay vần thứ tự lớp lang, đúng giờ đúng buổi, mọi loài mọi vật dưới đất loài nào cũng đẹp, cũng tinh khôn lạ lùng… Thế rồi bạn được thưởng thức nào ánh sáng, khí trời, nước mưa…, hoa thơm quả ngọt, và biết bao nhiêu vật tốt lành và hữu ích không tả hết được…
Nhất là bạn được hưởng một kỳ công đã được tác tạo một cách thần tình tuyệt diệu vô cùng, vượt xa ngàn trùng tất cả mọi sự, mọi vật: Đó là chính thân thể bạn! Có lẽ bạn thường đã quá quen với nó nên không để ý, nhưng nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy!
Dưới đây mời bạn xem phác sơ qua một vài phần tử của cơ thể cực kỳ tài tình của con người chúng ta:
KHỐI ÓC
Chúng ta hãy so sánh nó với một trung tâm điện thoại hay trung tâm điều hành điện tử, luôn luôn liên lạc với từng cơ quan, hay với từng người nam, phụ, lão, ấu trên khắp thế giới, mỗi giây mỗi phút hằng tiếp nhận những tin tức và phát đi các mệnh lệnh cần thiết.
Óc chúng ta chính là trung tâm tiếp nhận hết mọi thành phần sống động trong ta, vây bọc ta và tiếp xúc với thân ta. Nó tập trung, liên lạc và điều khiển mọi hoạt động của ta. Không những nó sai khiến mọi hoạt động, mà lại còn in sâu và ghi vào kho trí nhớ những gì nó trông thấy, nghe thấy, cảm thấy, hay động chạm tới nữa.
Bộ óc cân nặng khoảng 1 kilô 300 gam, chứa đựng từ 50 tới 100 ngàn tỉ tế bào thần kinh, nhiều hơn cả số lượng tinh tú trên dải Ngân Hà. Những tế bào ấy vừa là những “pin” điện nhỏ xíu, vừa là những bộ máy điện báo để nhận và phát những mệnh lệnh, liên lạc người này với người khác, nơi nọ với nơi kia.
Những tế bào này lại nối với nhau thành hàng ngàn triệu sợi dây chuyển đi khắp cơ thể: đó là những dây thần kinh.
Trong mỗi sợi dây nhỏ ấy lại có một luồng điện chạy qua với tốc độ 100 cây số một giờ. – Và trong những thớ này có rất nhiều trạm, nhiều máy chỉnh lưu lo việc chuyển vận thông tin bất ngờ giữa óc não và những cơ quan, những bộ phận do chính óc điều khiển.
Trong vũ trụ không có gì sánh kịp được. So với bộ óc ta, máy vô tuyến điện tinh vi hơn hết, hay máy điện toán cực kỳ tối tân cũng chỉ như chiếc đồ hộp làm bằng sắt tầm thường.
CON MẮT
Mắt vừa là máy chụp hình vừa là máy vô tuyến truyền hình đầu tiên trên thế giới, vì nó đã có từ cả hàng mấy triệu năm rồi. Bộ máy này “truyền” vào óc những hình ảnh mà mắt đã “chụp” được từ bên ngoài. Nếu bạn không phải là thợ chụp ảnh, thì đây chúng tôi thử nói sơ qua để bạn biết các bộ phận của chiếc máy ảnh kỳ diệu này.
Mắt gồm một phòng tối có ống kính nhỏ, ống kính này được chắn giữ bằng một bức màn ngăn che ngoại giới, có hai cánh chập mở lúc tự động lúc tùy ý: Đó là hai mí mắt, chúng kiêm thêm công dụng là lau chùi mắt kính bằng thứ nước riêng, là nước mắt.
Sáu bắp thịt co giãn tự động, điều khiển mắt quay nhìn tứ phía. Phía sau ống kính là thủy tinh thể, tùy trường hợp mà co giãn nhờ những bắp thịt tự động. Thủy tinh thể rộng bằng một trái nhãn trung bình, là một thứ mỡ do chừng 12 ngàn triệu tế bào nhỏ xíu kết thành. Muốn cho những sự thay đổi về thời tiết không làm trở ngại thị giác, có một cơ quan có hình như cái chảo, giữ cho nhiệt độ được thích ứng điều hòa luôn.
Bên trong vùng mắt, là tấm màng võng mạc, tất cả những gì chúng ta trông thấy đều in hình vào đấy như vào một tấm phim vậy. Bộ phận này có thể in ra được chừng lối 800.000 bức hình khác nhau.
Chiếc máy ảnh vô song là con mắt của chúng ta lại còn chụp được cả được những màu sắc và phân biệt rõ ràng từng gam màu khác nhau. Những hình ảnh với màu sắc ấy được truyền vào óc để xử lý nhờ một sợi dây riêng, nhỏ bằng 1/1.000.000 sợi chỉ.
Tuyệt vời nhất là đang khi chiếc máy ảnh dù tối tân đến đâu, chẳng hạn như những chiếc iPhone, iPat, Samsung thời nay v.v… thì ghi hình ảnh xong rồi bất động, còn đôi mắt của ta thì sau khi ghi hình ảnh còn biết rung động, biết cảm xúc… khi nhìn thấy một hình ảnh đẹp; biết u buồn khi thấy những cảnh đau lòng…Vì vậy người ta mới nói: Đôi mắt là “cửa sổ của tâm hồn”!
LỖ TAI
Trước khi vô tuyến điện bảo người ta biết cách thu thanh thì tai ta đã làm được việc đó từ lâu lắm rồi. Nó có phải học ai đâu?
Tai gồm một cái lỗ như hình cái phễu, có những vành thịt nhỏ để lựa chiều nghe các âm thanh, phân biệt âm thanh xa với âm thanh gần; những lông li ti và ráy ướt để cản vi trùng hay bụi bặm có thể làm tổn hại cho cơ quan này. Trong đáy cái lỗ ấy có tấm da mỏng tanh, rung như mặt trống: Đó là lá nhĩ.
Khi âm thanh đập vào tai, thì những rung động của lá nhĩ được chuyển vận đi do một loạt những xương nhỏ li ti, những xương này lại tiếp vận tiếng rung kia tới một màng mỏng khác nữa, rồi màng mỏng đó mới chuyển sang một cơ quan lạ kỳ: Cơ quan này gồm một cái đàn tinh vi với 6.000 dây, dài vắn hơn nhau chừng 20 đến 50 phần trăm ly.
Sau cùng 18 ngàn tế bào khác, đúng là những máy thu thanh, ghi nhận tiếng để chuyển vào óc.
Cả một cuốn sách dày chưa chắc đủ để phô diễn hết sự vận hành lạ lùng của cái tai.
QUẢ TIM
Quả tim dài độ 10 phân, rộng 6 phân, to bằng nắm tay và cân nặng 280 gram.
Nhiệm vụ quả tim đại khái như cái bơm 4 ống, hai cái chuyển vận xuôi, hai cái chuyển vận ngược lại, hoạt động đêm ngày không biết mỏi mệt. Mỗi ngày quả tim đập chừng 10 vạn lần, và cứ 60 giây thì bơm máu tuần hoàn một vòng khắp cơ thể.
Quả tim là một thứ bắp thịt khá cứng chắc nằm trong cái màng kép có chất nhờn giúp quả tim chuyển động dễ dàng.
Ngoài ra còn có những nắp màng mỏng và bền giống như cái van, bám chặt vào mép trong quả tim bằng những dây nhỏ, khi máu được bơm đi thì van đó ngăn không cho lùi trở lại.
Một chiếc máy tự động giữ mực cho đều đặn cho dù quả tim đập nhanh hay chậm tùy tình thế…
BỘ MÁY TIÊU HÓA
Là một nhà máy, trong đó đồ ăn đã được miệng nghiền tán, được thấm nước bọt, rồi nuốt vào một cách khéo léo không nhầm lẫn với đường dẫn vào phổi.
Nhà bác học kỳ tài nào đã tạo nên bộ máy này thật là một nhà bác học xuất chúng, vượt trên tất cả các nhà bác học tài danh khác khiến toàn thể loài người phải cúi đầu cảm phục.
Năm triệu cái máy nhỏ trong tì vị, 40 triệu trong ruột và hơn 350 ngàn triệu trong lá gan: Ở đây có những máy móc hầu như vô hình biến chế tất cả những hóa chất cần dùng cho cơ thể tùy theo từng trường hợp. Bộ máy này phải chuẩn bị thuốc thang để đối phó với chứng tả lị, hay làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng, đều đặn.
Tóm lại, đây chính là nhà chế tạo sinh lực và năng lực cho thân thể, có thể ví nó với một xưởng máy chế động lực, trong xưởng máy ấy, bộ phận tiêu hóa vừa là máy phát điện, máy chuyển điện và bình chứa điện.
Dài độ 28 cm, rộng gần 15 cm, hai lá phổi cân nặng khoảng 900 gam, chứa được khoảng 6 lít không khí. Phổi là nơi gặp gỡ của máu và không khí. Muốn lọc máu cho sạch, lá phổi đã biết trước chúng ta là không có thuốc tẩy nào hiệu quả hơn dưỡng khí.
Không khí hít vào phổi do sự co giãn đều đặn của hàng ngàn triệu cái túi bong bóng nhỏ nằm trong hai lá phổi. Đem trải các túi bong bóng này ra, chúng ta có một diện tích chừng 200 mét vuông, to bằng hai sân đá banh.
Những túi bong bóng nhỏ này là một thứ màng mỏng, không khí có thể xuyên qua, và đồng thời ngăn giữ máu không cho lọt ra ngoài.
Máu được đưa vào phổi, qua chừng 50 ngàn triệu ống huyết quản bé tí xíu như sợi tóc, và chạy qua hết các bong bóng nhỏ nói trên.
Trong vòng 24 giờ, đã có tới 10 ngàn lít máu chảy qua phổi để được lọc sạch, rồi đưa đi làm chất nuôi dưỡng cơ thể.
Thai nhi khi còn trong lòng mẹ, thì phổi nằm yên không hoạt động, và quả tim của nó lúc này lại làm máu quay trở về theo một lối cửa nhỏ.
Phút đầu tiên ra chào đời, hài nhi kêu lên một tiếng lớn như bị ngạt thở vậy. Phút dao động này đã gây nên bao nhiêu sự biến đổi: Hai lá phổi từ đây căng to ra vì chứa đầy không khí. Máu từ quả tim lại được hút tràn vào phổi, được lọc sạch, để rồi máu sạch lại chảy vào tim để được bơm đều đặn ra nuôi các phần thân thể như chúng ta đã biết. ***
Vậy ai chế tạo ra cơ thể cực kỳ tài tình này của loài người?
Có phải là cha mẹ chúng ta không?
Không! Vì lúc chúng ta đậu thai, cha mẹ chẳng hay biết gì; sự làm nên lục phủ ngũ tạng và ngũ quan ta, cha mẹ tuyệt nhiên cũng không biết, nguyên một sự là trai hay gái cũng không hay, phải nhờ đến máy móc soi rọi!… Nếu cha mẹ chúng ta không thể là người tác tạo ra thân thể con người. Vậy thì là ai?
Lại còn tâm hồn tức hồn thiêng của con người do ai tạo nên?
Dù thân thể ta có lắm bộ phận tài tình mấy đi nữa thì cũng chưa thấm vào đâu so với hồn thiêng: Đó là cái phần linh diệu ở trong “thể xác” con người mà các cụ ngày xưa gọi là phần “tinh anh”. Bởi có hồn thiêng, loài người mới hơn vạn vật, biết suy hơn tính thiệt, biết sáng chế muôn vàn cái rất lạ lùng, biết luân thường đạo lý, biết lý luận về cả những sự thần thiêng, nghĩ đến trời cao hay cùng cõi thế giới!… Vậy việc tác tạo linh hồn càng vượt xa tài sức của cha mẹ đẻ.
Kết cục: nếu cha mẹ chẳng tham dự vào công trình ấy tí nào, thì ai đã làm ra?
Đạo Chúa cho biết: Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Vậy ta là thụ tạo tuyệt tác do Thiên Chúa dựng nên, Ngài đã cho ta được hiện hữu trong thế giới huy hoàng này, và được hưởng không biết bao nhiều điều tốt đẹp.
Thiết tưởng đến đây, chắc bạn đã nhận định rằng bản thân bạn đã được tạo dựng một cách kỳ diệu tốt đẹp như thế, vì vậy bạn cũng nên dừng lại một phút để thầm dâng lên Đấng Tạo Hóa một lời cám ơn thật chân thành.
*
Nếu bản thân mỗi người chúng ta đã được tạo dựng tốt đẹp như vậy, thì tự nhiên ta sẽ tự hỏi: “Mình sống trên đời này để làm gì?”
Để tìm câu trả lời, ta diễn lại đời sống mỗi người, đại để như thế này:
Sau ít năm thời thơ ấu vui chơi, học hành, lớn lên lấy vợ lấy chồng tạo lập sự nghiệp, rồi vất vả kiếm kế nuôi thân và nuôi gia đình. Thế rồi tuổi đời xế bóng, sức lực dần dần suy tàn, thường khi lại phải vật vã với bao bệnh tật của tuổi già mắt mờ chân chậm… Dù được thành đạt giàu sang hay thất bại nghèo hèn, chẳng ai tránh khỏi đau khổ, bệnh tật, và đều cho đời là vui ít, khổ nhiều, một thung lũng nhiều nước mắt hơn tiếng cười… Cuối cùng, bóng tử thần lấp ló hiện ra trước mắt, và ai cũng phải đối mặt với cái chết.
Vậy khi sống như vậy, bạn có bao giờ tự hỏi mục đích của đời bạn sống trên trần gian này để làm gì chưa?
- a) Có người cho rằng mình được cha mẹ sinh ra đời, thì người ta sống sao, mình sống vậy, rồi chết…
- Nếu như vậy, đời người chẳng khác gì loài cầm thú. Tiếc thay cho con người được dựng nên tốt đẹp như vậy, mà lại chỉ để chết như súc vật!
- b) Có người thấy đời sống quá nhiều đau khổ, áp bức, bất công… nên chán ghét, và than rằng ông Trời sinh ra tôi làm gì cho khổ…
- Nếu như vậy đời là phi lý và bế tắc.
- c) Có người nghĩ rằng đời sống mau qua chóng hết, nên cứ ăn chơi, cứ tận hưởng đi cho đã…
- Nếu vậy, họ là người ích kỷ, vô tích sự chẳng làm ích gì cho đời.
đ) Nhưng cũng có những người nghĩ rằng: Sống trên đời này là để chuẩn bị cho đời sau.
- Đây là trả lời đúng đắn nhất. Thật vậy, sống đời hiện tại làm sao, như thế nào… để xứng đáng đi về cuộc đời sau, vì cuộc đời sau kéo dài muôn ngàn vạn kiếp mới quan trọng! Cha ông chúng ta cũng đã hiểu như thế khi nói: “Sống gửi, thác về” (sinh ký, tử qui), sống trên trần gian là sống gửi, tạm bợ mau qua vài chục năm chóng hết, để sau đó mà về…, nói khác đi, đời sống này – và đời sống của bạn cũng thế – có một cái đích là về, chứ không phải chết là chấm hết.
Chẳng mấy ai thực lòng tin rằng chết rồi là hết như súc vật, bạn đồng ý không, vì cổ nhân có câu “Nhân ư vạn
vật duy linh”, (ở giữa vạn vật chỉ có con người duy nhất có cái linh). Thể xác do vật chất hợp lại, thì có hợp phải có tan, sẽ chết và tan rã, nhưng mà cái linh trong ta là hồn thì phi vật chất, không do vật chất hợp lại nên không thể tan mất, không thể chết. Do đó cha ông ta ngày xưa mới có câu:
“Chết là thể xác, còn là tinh anh”.
Các cụ muốn dạy rằng: Vì thể xác do vật chất hợp lại nên phải chết. Nhưng cái “tinh anh” tức là “cái linh” nơi ta vẫn còn mãi, không tan biến mất, vậy thì nó phải “đi về”…
Song về đâu? Đó mới là vấn đề!
Phải có “một cõi đi về”, cõi đời sau, mà ở đó có một Ông Trời phân xử công minh, lập lại công bằng và trật tự, kẻ làm lành được thưởng, kẻ làm ác bị phạt, còn nếu không thì cuộc sống trần gian này với đầy dẫy những bất công, những chuyện mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, những áp bức, những nỗi oan khiên của người thấp cổ bé miệng, nhỏ hèn vô tội…, sẽ là một cuộc đời vô vọng, bế tắc, hoàn toàn phi lý.
Do đó, người Việt Nam tin phải có Ông Trời, mà có Ông Trời thì phải có Đạo Trời, hay Đạo của Ông Trời. Mà Đạo của Trời tất nhiên sẽ chỉ bảo cho ta biết những điều quan trọng và cần ích của đời sống con người, để ta đạt được hạnh phúc thật. Ví dụ: Ta có mặt trên đời để làm gì? Đời ta đi về đâu? Đường nào về trời? V.v…
Sau khi biết về bản thân, cuộc đời và mục đích đời mình rồi, mời bạn dâng một lời nguyện, chẳng hạn như thế này:
Lạy Trời lượng cả bao dong,
Biết rồi không lẽ con không trở về…
Xưa kia chỉ biết kêu “Trời”
Ngày nay lại biết rằng “Trời thương con”
Trần gian chưa phải là nhà,
Thiên đàng vĩnh phúc mới là chính quê.
Chữ rằng: Sinh ký tử qui,
Nghĩa là: Sống gởi thác về đời sau.
*
Sau đây bạn sẽ mở rộng tầm mắt ra xem những chuyện lớn lao khác nữa.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ BA
ĐẠO CHÚA CHO BIẾT VŨ TRỤ
BAO LA VÀ MUÔN LOÀI MUÔN VẬT
BỞI ĐÂU MÀ CÓ?
VÀ NHẤT LÀ CÓ ĐỂ LÀM GÌ?
Nếu bạn gặp một người vô thần, họ sẽ không nghĩ thế, họ nói: “Mọi sự trên đời dưới đất này chẳng có ai làm ra cả, nó tự nhiên biến chuyển mà thành.”
Nếu bạn gặp một người vô tín ngưỡng, họ sẽ nói: “Thiên nhiên hay ngẫu nhiên đã làm ra như thế.”
Nói như thế phải chăng mấy người ấy ương gàn hay mất trí rồi sao?
Vì lạ chưa? Thiên nhiên mù quáng, vô tri vô giác làm sao có trí thông minh mà tạo ra vũ trụ truyệt vời trong đó có loài người thông minh tài trí?
Câu truyện của nhà bác học Isaac Newton
Cách đây ba thế kỷ, có một nhà bác học danh tiếng thế giới tên là Isaac Newton (I-xa-ác Niu-tơn), ông cất công chế tác một mô hình của thái dương hệ (hệ thống mặt trời và các hành tinh) đặt trong phòng làm việc của mình. Ở giữa mô hình có một quả cầu vàng tượng trưng cho mặt trời, và ông làm những hình cầu nhỏ hơn, tượng trưng cho bảy hành tinh như sao Hỏa, sao Kim, sao Mộc, Địa cầu v.v… quay chung quanh. Tất cả những quả cầu nhỏ được nối kết với quả cầu lớn (mặt trời) nhờ hệ thống bánh xe răng cưa, nên khi người ta dùng tay quay cái cần quay thì các quả cầu nhỏ (là các hành tinh) xoay quanh quả cầu vàng lớn (là mặt trời) cách trật tự nhịp nhàng.
Một hôm, có một người bạn đến chơi (ông này vốn là người vô thần không tin có Đấng tạo dựng vũ trụ). Kinh ngạc trước bộ máy tài tình đó, ông ta thốt lên:
“Ồ, Newton, thật tuyệt vời! Ai đã tạo nên cho bạn một bộ máy diệu kỳ như thế?”
Nhà bác học thản nhiên đáp: “Có ai tạo nên đâu! Nó tự có mà!”
Ông bạn thắc mắc: “Thật vô lý, không thể như thế được!”
Newton lúc ấy mới bình tĩnh nói: “Càng vô lý hơn, khi bạn cho rằng trái đất và vũ trụ bao la chuyển động nhịp nhàng này tự nhiên mà có!” (Lược trích tập “Khám phá, một niềm vui” của lm. Inhaxiô Trần Ngà )
Theo nhà bác học Newton nói trên thì:
Không nhìn nhận có Đấng Tạo Hóa là vô lý, nhìn nhận có Ngài mới là điều đúng đắn và hợp lý. Vì:
+ Theo lý trí hay triết lý, có hậu quả thì phải có nguyên nhân. Chúng ta cũng thường nói: Không có lửa sao có khói?
Cái đồng hồ, cái bàn, cái ghế, căn nhà, chiếc thuyền, v.v… phải có người làm ra mới có, chẳng thể tự nhiên mà có được.
Ta xem một chiếc đồng hồ
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng chí tôn sinh thành.
Nhất là những vật gì có thứ tự lớp lang, có sắp xếp tài tình phức tạp thì lại càng đòi hỏi phải có một trí năng thông minh, khôn ngoan mới tạo ra được.
Ví dụ một quyển sách: Bạn có thể lấy một rổ đựng các con chữ, đem tung ra đất mà tự nhiên hợp thành một quyển sách có lý lẽ hay ho lý thú, có lập luận chặt chẽ thuyết phục được không?
Hay một chiếc xe ô tô với các bộ phận phức tạp, mỗi cái đều có lý do và nằm đúng chỗ theo đúng mục đích đã được hoạch định, thử hỏi người ta có thể lấy một đống sắt và một ít vật liệu, rồi tung ra không khí mà tự nhiên thành chiếc xe ô tô được chăng?
Dĩ nhiên là không! Suy nghĩ, tính toán, xếp đặt… nhất định cần phải có một trí khôn mới làm được!
Vì Trời đã ban cho ta hơn loài vật ở chỗ không chỉ có mắt để thấy, mà còn có trí để suy, sao ta lại chỉ dùng mắt xem, hay dùng máy móc mà đong, đo, đếm… hễ có thấy, có đo, đếm được thì mới cho là có, bằng không thì cho là không có?
Vậy hãy lấy trí mà suy nghĩ một chút về vũ trụ, về thiên nhiên, về con người, về hồn linh… thì sẽ nhận ra là phải có một Trí năng, thông minh và quyền phép vô biên là Nguyên Nhân Tối Cao đã tạo dựng nên tất cả. (Thư Rôma, ch.1, c.19-20)
Bạn có thể gọi Trí năng ấy là Tạo Hóa, Hóa Công, hoặc Ông Trời, hay bất cứ bằng một danh hiệu nào khác, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải nhận có
Đấng ấy tạo dựng, chứ trời đất muôn vật không thể tự nhiên mà có được…
Tuy Ngài là Đấng linh thiêng, vô hình, vô tượng, không có thân xác như loài người, nên không ai thấy được, song hầu hết những người thành tâm thiện chí biết suy nghĩ đều tin là có.
Đức Khổng Tử nói:
“Người ta còn biết nhau, không thể nào không biết Trời được”.( “Nhân tri nhân, bất khả dĩ bất tri Thiên”)
Ông Đổng Trọng Thư nhìn nhận:
“Trời là gốc của vạn vật” (Thiên giả vạn vật chi tổ)
Có câu ca dao rằng:
Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có làm sao có mình?
Câu ca dao thật giản dị, lý luận thật đơn sơ nhưng rất thâm thúy: Phải có một ông Trời Tạo ra mới có con chim hót, và có con chim hót, ắt là phải có ông Trời tạo ra!
Tổ tiên, cha ông chúng ta đã ngẫm nghĩ, đã suy luận để quả quyết là có Ông Trời, có Đấng Tạo Hóa. Các ngài đã để lại cho dân Việt chúng ta một gia sản văn hóa và tinh thần, mà phần quý nhất nói cho chúng ta biết rằng có một Ông Trời, Đấng Tao Hóa, Đấng dựng nên mọi sự.
+ Còn theo khoa học thì sao? Thì được biết rằng: Tin tưởng bình dân từ xưa đến nay vẫn nghĩ là trời đất này và mọi vật trong đó đã vẫn có từ trước vô cùng như vậy… Tin như thế là sai! Đó là tin tưởng của những thời tiền khoa học. Còn nay thì khoa học dùng các máy móc tối tân mà minh chứng rằng: Trước đây khoảng 14 tỷ rưỡi năm, không có một vật nào hiện hữu, chỉ toàn hư vô trống rỗng. Mà hư vô là tuyệt đối không có gì, không có thì làm sao cho, làm sao cho vũ trụ này được có? Nếu trong túi bạn không có một đồng xu, làm sao bạn có thể cho người hành khất đang chìa tay xin bạn.
Vậy nếu hư vô tự nó không có gì nên không sinh ra vũ trụ này được, và vũ trụ cũng không thể tự nhiên hay tự mình mà có, thì chỉ còn cách phải nhìn nhận – ít ra cách âm thầm – có một Ai đó (Các nhà khoa học không thể công khai nhìn nhận Thiên Chúa tạo nên vũ trụ, vì như thế là họ đã lấn sang địa hạt tôn giáo.) đã làm ra.
¯¯¯
ĐẠO CHÚA CHO BIẾT VŨ TRỤ ĐƯỢC THIÊN CHÚA TẠO DỰNG, KHI NÀO VÀ THẾ NÀO?
Sách thánh của Đạo Chúa từ hơn 3.000 năm trước đây đã mô tả công cuộc tạo dựng tiên khởi ấy bằng những nét đơn sơ dân dã như sau:
“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng”. Liền có ánh sáng… Thiên Chúa phán: “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước”. Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và… gọi vòm đó là “trời”. Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra”. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất”, khối nước tụ lại là “biển”… Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp…” v.v…( Sách Sáng thế ch 1, c.1-31)
Còn môn khoa học thì chỉ khoảng 50 năm gần đây, các nhà thiên văn mới chế ra những viễn vọng kính tối tân, vĩ đại, nhờ đó mới khám phá được và công bố cho biết rằng trước đây 14 tỷ rưỡi năm không có một vật nào hiện hữu, vũ trụ cũng chưa có – và chỉ bắt đầu có từ 14 tỷ rưỡi năm, bằng một tiếng nổ vĩ đại, khoa học gọi là “Big Bang”.
Từ vụ nổ năng lượng khủng khiếp ấy có sức nóng hằng chục triệu độ, khí và lực hút làm cho vật chất kết tụ lại thành hàng triệu, hàng tỉ các thiên hà (galaxy) mênh mông bao la, trong mỗi thiên hà đó lại chứa hàng trăm triệu ngôi sao giống như mặt trời của ta, nhiều ngôi sao còn to lớn hơn gấp trăm ngàn lần.
Trong các thiên hà ấy, có một thiên hà của chúng ta, quen gọi là Dải Ngân hà,
và ở trong đó có Thái dương hệ của chúng ta, với Mặt trời là trung tâm.
(Xem ảnh trên do NASA, Cơ quan Hàng không và Vũ trụ của Hoa Kỳ chụp. Ở hình trên, dưới cuối, có một vạch chỉ vị trí Mặt trời của ta).
Và trái đất là một trong bảy hành tinh quay chung quanh nó.
Như thế là khoa học – một cách gián tiếp (Một cách gián tiếp là vì sao ? Là vì nếu khoa học tuyên bố trực tiếp là có Thiên Chúa đã tạo dựng, thì khoa học đã tuyên xưng đức tin và thế là lấn sang địa hạt tôn giáo rồi.) – không ngờ đã phụ họa với sách Đạo Chúa mà minh chứng cách cụ thể bằng máy móc tân tiến việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và mọi sự mọi loài (Sách Sáng thế, ch. 1-2). Đấng ấy người Việt Nam chúng ta thường gọi là Ông Trời.
Đến đây, ta cũng nên thốt lên một lời ngợi khen: “Lạy Thượng đế, Ngài thật quyền năng vô cùng. Chúng con nhìn nhận Ngài là Chúa Tể vũ trụ và muôn vật.”
Vũ trụ này được dựng nên như thế để làm gì? Vì mục đích gì?
Câu hỏi rất đích đáng và quan trọng này, ta dành để sau này đúng lúc sẽ trả lời.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ BỐN
DỰNG NÊN VŨ TRỤ VÀ LOÀI NGƯỜI QUẢ LÀ CÔNG TRÌNH VĨ ĐẠI, HẲN THIÊN CHÚA PHẢI LỚN LAO CAO CẢ LẮM?
Chính xác như vậy!
Thiên Chúa:
- Phải Uy nghi vô cùng, Ngài mới có thể làm Chúa tể càn khôn;
- Phải Hạnh phúc vô hạn, Ngài mới rải rắc muôn vàn cái hay trong vũ trụ, là những cái làm say mê những ai biết nhìn.
- Phải Thông minh, Thượng trí, Khôn ngoan vô cùng Ngài mới có thể cùng một lúc nghĩ ra ức triệu hình thể tinh vi kỳ diệu, cũng như sắp xếp những định luật cho muôn vật;
- Phải Toàn năng vô biên, Ngài mới có sức tạo thành trời đất với mọi vật lớn nhỏ, từ những tinh tú khổng lồ, cho chí con kiến bé nhỏ li ti trên quả địa cầu, vật nào cũng độc đáo và tinh khôn tuyệt vời…
-
- Phải giàu sang vô tận Ngài mới có thể tung ra vũ trụ với muôn vàn báu vật tốt đẹp, phong phú kỳ lạ không cùng, mà không bao giờ Ngài hết sáng kiến.
Kìa trong nhân loại, từ tạo thiên lập địa, không bao giờ có hai người hoàn toàn giống nhau, không bao giờ gặp hai con trâu, hai con bò giống hệt, không bao giờ, dầu muôn lá rụng, có ai gặp thấy hai cái lá thật giống nhau không? Quyền phép và thượng trí vô biên của Ngài là hễ đã làm một việc thì không bao giờ làm lại y hệt.
Nhất là ngày nay, nhờ những dụng cụ khoa học tân tiến, người ta còn khám phá vô vàn vô số những điều kỳ diệu trên không gian hay dưới biển sâu mà các thời đại trước chưa hề biết đến, rồi ghi lại cho ta xem trong Ti vi hay điện thoại thông minh…
Một Đấng cao cả vĩ đại như thế mới đáng chúng ta tôn thờ, phải không bạn?
***
Chỉ có một Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, hay có Thiên Chúa nào khác chăng?
Thưa: Nhà có một chủ, nước có một vua, chủ trời đất cũng chỉ có một Đức Chúa Trời là Thiên Chúa mà thôi. (Sách Đệ Nhị luật, ch.6, c.4; Sách tiên tri Isaia, ch. 44, c.6; ch.45, c.5-6,21-22)
Vì nếu có hai chủ, dĩ nhiên khác ý kiến; ý kiến khác nhau sẽ xáo trộn trật tự trong vũ trụ. Vũ trụ mất trật tự sẽ gây nên tai hại cho muôn loài muôn vật.
VẬY BẢN TÍNH THIÊN CHÚA LÀ THẾ NÀO?
Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình vô tượng (không có thể xác), Ngài là Đấng tự hữu (không có ai sinh ra), hằng có đời đời, vô thủy vô chung, không có bắt đầu và cũng không có cùng tận (Sách tiên tri Isaia, ch.48, c.12; Sách Khải huyền ch.1, c.8; ch.4, c.8-10), vinh hiển sáng láng vô cùng, khôn ngoan thông minh thượng trí vô hạn (Sách tiên tri Isaia ch.55, c.8-9), quyền phép vô biên, hiện diện ở khắp mọi nơi, thông biết mọi sự, trọn tốt trọn lành, thánh thiện tuyệt đối (Sách Lêvi ch.19, c.2), nhân hậu và từ bi, là Tình yêu (Thư 1 Gioan ch.4, c.8 và 16) và lòng thương xót, giàu nhân nghĩa và thành tín, hằng sẵn lòng tha thứ, nhưng vô cùng công minh chính trực.( Sách Xuất hành ch.34, c.6-7)
Nhưng có một điều lạ lùng mà Đạo Chúa lộ ra cho biết, đó là Thiên Chúa không là một ngôi vị đơn độc, song:
Thiên Chúa có Ba Ngôi
Ngôi nhất là Thiên Chúa Cha, hằng có từ trước muôn đời, sinh ra người Con Một, là Ngôi Hai, sinh một cách mầu nhiệm siêu việt lạ lùng, Đạo Chúa nói là như “ánh sáng bởi ánh sáng”. Hai Cha Con yêu mến nhau thì xuất ra Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần cũng một cách nhiệm mầu siêu việt lạ lùng.
(Xem hình: Loài người chúng ta mường tượng Ba Ngôi với hình hài như thế rồi vẽ ra).
Vậy là có Ba Ngôi, nhưng chỉ có một Thiên Chúa vì cùng chung một bản tính là tính Đức Chúa Trời, không ngôi nào lớn ngôi nào bé, Ba Ngôi bằng nhau, cho nên Đạo Chúa chế ra công thức này cho dễ nhớ: “TAM VỊ NHẤT THỂ”.
Tạm dùng một hình ảnh làm ví dụ cho dễ hiểu: Giống như một hình tam giác đều, lại có ba cạnh hay ba góc bằng nhau; hay ba hình thái của nước: Lỏng, đặc, hơi, song đều cùng một bản thể là H2O.
ààà
Điều tuyệt vời là vị Thiên Chúa cao siêu vĩ đại ấy, không chỉ tạo dựng nên ta, Ngài còn là Cha ta nữa.
Đối với muôn loài muôn vật nói chung, Vị Thiên Chúa cao siêu vĩ đại ấy là Đấng Tạo Hóa, Chúa Tể càn khôn, còn đối với loài người nói riêng thì Ngài còn là Cha họ nữa. Bạn hãy xem: Chẳng phải Ngài có công sinh dựng ra ta hơn cha mẹ thế gian muôn ngàn lần ư? Vì như đã biết, chính Ngài tạo dựng trực tiếp hồn ta, và cũng chính Ngài nhào nắn cơ thể ta trong bụng mẹ, cha mẹ đâu có biết gì, có làm được gì.
Tuy người ta thường nói cha mẹ là người sinh dựng nên con cái. Nói thế để ca tụng công ơn sinh thành, song thực chất là không đúng. Sinh con, không phải là tạo dựng, vì tạo dựng là từ “không không” mà làm ra “có”, còn cha mẹ sinh con thì chỉ truyền lại cho con cái mầm sống đã được Thiên Chúa đặt sẵn trong mình họ.
Loài người không bao giờ có quyền phép tạo dựng cái gì cả, cái gì họ chế tạo ra cũng là dựa vào, rút ra, chiết ra từ những gì đã có sẵn. Họ luôn mãi chỉ là những người thợ “gia công”.
Thiên Chúa là Cha còn vì Ngài nuôi dưỡng ta nữa: Ngài tác tạo ra cơm áo, chim trời cá nước, hoa thơm quả ngọt, v.v… cho chúng ta lấy đấy mà nuôi mình.
Chưa hết, Ngài còn ban cho loài người bao nhiêu điều tốt lành, bao nhiêu ơn huệ tinh thần hay vật chất khác nữa không kể xiết…, chẳng hạn cảnh đẹp huy hoàng hay nên thơ, tiếng chim hót thánh thót, tiếng suối reo, những hạt kim cương, viên ngọc quý óng ánh tô điểm sắc đẹp, v.v…
Các bậc tiền bối chúng ta ngày xưa đã biết điều ấy nên viết trong sách rằng:
“Thiên Chúa sinh người, lẽ nào họ chẳng được lộc Ngài ban cho?” (“Thiên Chúa sanh nhơn hà nhơn vô lộc”)
Thiên Chúa còn là Cha một cách đặc biệt và thân mật hơn nữa đối với những ai tin thờ Ngài, Ngài thông chia tính thiên chúa của Ngài cho họ, (Thư 2 Pr ch.1, c.4) hay nói cách bình dân dễ hiểu: họ được mang giòng máu thần linh của Ngài trong mình họ, làm họ trở thành con cái của Ngài (Thư Rôma, ch. 8, c.14-15 ; Thư 1 Gioan, ch.3, c.1-2) – nói không ngoa, họ trở nên những Hoàng tử, những Công chúa trong Hoàng cung thiên quốc. Vì thế họ hân hoan vui sướng gọi Ngài là:
“Lạy Cha chúng con ngự trên trời!”
Điều nói trên đây không phải là nói vu vơ, vô căn cứ, song là Sách Đạo Chúa đã minh chứng như vậy (Ga, 3, 5-6; Rm, 8, 15-16; 1Ga 3, 1; Kn 2, 23).
Độc đáo của Đạo Chúa là ở chỗ đó!
Hạnh phúc sung sướng là ở chỗ đó!
Bạn cứ vào Đạo Chúa đi, rồi một ngày nào đó bạn sẽ cùng với những đạo hữu khác, được làm con của Cha trên trời, sống tình Cha con thân mật với Ngài và được cảm nếm tình yêu tuyệt vời của Ngài.
Được làm con của Cha siêu việt đó, ta phải hiếu thảo thế nào?
Nghĩa vụ hiếu thảo này vượt xa hơn hết các nghĩa vụ khác: Vì bao nhiêu nghĩa vụ khác chỉ là đối với tạo vật, cho dù họ là cha mẹ đẻ, còn nghĩa vụ hiếu thảo đây là đối với một người Cha không phải tầm thường mà là Đấng Tạo hóa và Chúa Tể càn khôn, thống trị trời đất…
Biểu lộ lòng thảo hiếu ấy cách nào?
Bằng cách nhìn nhận quyền chức chí tôn của Ngài, và thờ phượng một mình Ngài mà thôi.
Việc “thờ phượng” này được biểu lộ qua những tâm tình sau đây:
- Tôn trọng và yêu mến Ngài trên hết mọi sự mọi vật, vì tất cả đều là thụ tạo do quyền phép Ngài tác tạo, nên lệ thuộc và ở dưới quyền Ngài, chẳng khác gì những tôi tớ, nên không được tôn lên mà thờ.
- Tri ân và cảm tạ Ngài về ơn sinh thành nuôi dưỡng, về mọi ơn huệ phần hồn phần xác Ngài đã ban xuống hay sẽ dành sẵn cho.
- Vâng lời Ngài, tức là tuân giữ các điều Ngài truyền, nghe theo các điều Ngài răn dạy: Tóm lại, làm tôi trung thành với Chúa, làm con ngoan ngoãn với Cha.
- Trông cậy và cầu xin Ngài như Chủ mọi ơn mọi phúc, vì mọi ơn phúc bởi Ngài mà ra, chứ tự mình là tạo vật thì chẳng có gì.
- Ăn năn và tạ tội lỗi nếu đã lỡ xúc phạm đến Ngài hay trót lỗi luật Ngài, và mong được Ngài thứ tha.
Ước mong bạn cũng biểu lộ lòng hiếu thảo ấy với vị Chúa Tể là Cha của chúng ta.
²²¯²²
Dân chúng, cách riêng dân Việt ta, hồi xa xưa đã biết thờ Trời rồi sao?
Đúng vậy, việc thờ Trời đó hồi xa xưa không có giáo lý, không tổ chức thành Giáo hội, nhưng phổ biến rộng rãi trong dân gian từ hàng bao ngàn năm mà vẫn không có gì làm cho nó suy tàn được. Ông cha chúng ta tin có một Đấng vô hình, tạo dựng nên trời đất và cả Tổ tiên mình nữa, vì thế phải tôn thờ Ngài trên và trước cả Tổ tiên, ông ba, cha mẹ.
Xưa trong nước ta, chỉ có vua được đại diện toàn dân mà tế lễ Trời. Việc tế trời ấy, mà sử sách ghi lại rõ nhất đó là lễ tế Nam giao ba năm một lần.
– Khi gặp đại nạn như ôn dịch, mất mùa, giặc giã, nhà Vua tổ chức lễ tế Trời, để cầu đảo xin cho quốc thái dân an.
Tuy Vua đã đại diện cho dân tế lễ thờ Trời, nhưng người dân vẫn thấy cần phải thờ Trời hằng ngày, vì thế mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà, hay là xây bàn thờ Kính Thiên ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy, và dâng hương nến, nhang đèn, hoa quả và chung nước tinh khiết để tỏ lòng tri ân.
Xét như thế thì việc thờ Trời vẫn là đạo phổ thông nhất trong nhân loại.
Có thể nói được rằng hầu hết nhân loại đều tin Ông Trời. Trong Kinh Dịch, quyển sách toàn khoa nổi tiếng ở phương Đông cũng dạy:
“Người quân tử là người thờ Trời” (“Quân tử sự thiên”)
Trong văn học dân gian Việt Nam, ông Trời, Chúa tể trời đất, được đề cập đến thường xuyên một cách rất tự nhiên:
- “Trời sinh, Trời dưỡng,
“Trời cho ai, nấy hưởng.”
- “Gặp thời là được thọ khang,
Tam đa ngũ phúc rõ ràng Trời cho.”
Ta có khúc ca dao diễn tả lòng tin ở Trời một cách chân thành, thực tế, rằng ông Trời là Chủ Tể mọi sự, có quyền ban xuống cho loài người những điều cần thiết nhất cho cuộc sống của mình:
“Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp”.
Người dân sống gắn bó với ông Trời trong mọi sinh hoạt từ khi chào đời cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt:
- Lúc sinh ra:
“Thông minh vốn sẵn tính Trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. (Truyện Kiều)
- Lúc lao động:
“Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn nơi thì cầy sâu,
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng”.
- Lúc kết duyên vợ chồng:
“Nhờ cô nhờ bác giúp lời,
Chị em giúp của, ông Trời định đôi”.
- Lúc sinh sống ở đời:
“Khó giàu muôn sự tại Trời
Nhân sinh ai cũng kiếp người mà thôi”.
“Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu, có chí thì nên”.
- Khi gặp nguy biến liền kêu đến Trời:
“Trời ơi !”
- Gặp oan ức đều xin Trời chứng quả:
“Ông Trời có mắt”;
- Giao dịch, kết ước với nhau cũng xin Trời làm chứng:
“Một lời đã trót thâm giao,
Dưới rày có đất, trên cao có Trời”.
(Truyện Kiều)
- Nhưng luôn phải biết rằng:
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”.
- Lúc chết:
“Trời kêu ai, người nấy dạ”.
Những câu trên nói lên trước nhất Ông Trời là một Vị ở trên cao xứng danh Thượng Đế, chứ không phải là một người phàm; và thứ đến Ông Trời phải là một Vị thông minh, trí khôn sáng suốt, khôn ngoan siêu phàm, biết hết mọi sự, phân xử công minh.
Niềm tin Trời có phải độc quyền của một nước nào không?
Thưa không. Tin Trời là ý chung cho mọi nước, mọi dân, vì Trời là:
“… Gốc tổ của mọi loài”.( “Trời là gốc tổ mọi loài”)
Đức Khổng Tử cũng nói:
“Vua trời đất ban đạo xuống cho dân gian,” (“Duy Hoàng Thiên giáng trung ư hạ dân”)
chứ không phải do loài người đặt ra, nên không một nước hay một thời nào nhận là chủ của Đạo, coi Đạo là của mình được.
Thế mà có người nói theo Đạo Chúa là theo đạo của Tây?
Nói như vậy là sai. Đức Giê-su, Đấng từ trời đem Đạo Thiên Chúa xuống lập ở trần gian, Ngài sinh ra, sống và giảng truyền đạo tại xứ Pha-lê-tin, miền Trung Đông, thuộc Á châu chúng ta, chứ không phải bên Tây phương.
(Xem bản địa đồ Á châu trên đây, vị trí của xứ đó ở mép trái, chỗ mũi tên tam giác đen chỉ vào chữ Jerusalem).
Từ đó, Ngài sai các môn đệ đi khắp thế gian rao truyền Đạo. Người Tây phương nhận được Đạo trước, rồi đem truyền lại cho ta. Như vậy, Đạo Chúa là Đạo của Trời, chẳng của riêng ai, chẳng của riêng nước nào.
=========
Ông Trời hay Thiên Chúa là Đấng siêu việt cao xa như thế, làm sao mà chúng ta là người trần mắt thịt biết chắc chắn được?
Bạn nói đúng, vì từ đầu đến đây, tuy chúng ta biết rằng bản thân ta, vũ trụ và muôn loài muôn vật đều phải có ai tạo dựng nên, phải có Ông Trời dựng nên tất cả, nhưng sự biết ấy “chưa chắc chắn” lắm, vì do ta nhờ nhìn ngắm các sự vật trên trời dưới đất mà suy ra nguyên nhân đã sáng tạo là chính Thiên Chúa, cũng như khi nhìn các dấu chân in trên cát, thì suy ra là có người vừa đi qua đấy, dù ta không thấy họ.
Vậy, nếu bạn muốn biết “chắc chắn” thì phải nhờ một Đấng từ trời xuống nói cho biết, vì Ông Trời hay Thiên Chúa là Đấng ở trên trời, và Đạo Chúa cũng là chuyện của trời, “Đạo xuất ư thiên”, thì chỉ ai ở trên trời mới biết được chuyện của trời mà xuống nói một cách quyết đoán, minh bạch và đầy đủ cho người trần biết. (Ga 3, 12-13,31-32;.8, 42)
Đấng từ trời xuống đó là ai?
Thưa: Là Đức Giêsu Kitô!
- Lai lịch Ngài thế nào?
- Vì sao Ngài phải từ trời xuống trần gian?
- Ngài xuống trần gian để làm việc gì?
Để giải đáp mấy câu hỏi đó của bạn, muốn cho có đầu có đuôi, chúng ta phải đi lại từ nguồn gốc và lịch sử loài người.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ NĂM
NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ NHÂN LOẠI
Sách Đạo Chúa cho biết Thiên Chúa dựng nên loài người như thế nào?
Cũng như trong một gia đình, muốn sinh con, trước hết cha mẹ phải xây nhà dựng cửa, sắm đồ đạc, rồi chuẩn bị tã lót, áo quần, cái nôi xinh xắn, rồi mới sinh con để con có được một tổ ấm đầy đủ tiện nghi, thì Thiên Chúa cũng vậy, trước khi dựng con người, Ngài tạo tác muôn loài muôn vật (Sách Sáng thế, ch.1.) để cho con người có đủ phương tiện sinh sống, rồi Ngài mới dựng nên họ.
Sách Đạo Chúa mô tả việc Thiên Chúa tạo dựng con người một cách thô sơ bình dân : Ngài giống như một ông thợ gốm, lấy bùn đất nắn thành hình con người, rồi Ngài “hà hơi sống vào mũi họ”, thế là con người được thành sinh vật sống động và thông minh, giống hình ảnh Ngài (Sách Sáng thế, ch.1, c.27; Sách Khôn ngoan ch.2, c.23), khác hẳn mọi loài cầm thú.
Qua mô tả bình dân ấy, ta hiểu rằng thân xác họ Ngài lấy vật chất mà nắn đúc nên, còn linh hồn thì Ngài trực tiếp dựng nên rồi phú vào thân xác họ. Như vậy loài người được Thiên Chúa dựng nên gồm có hai phần: Xác và hồn.
Hồn phối hợp với xác, tạo nên con người sống, hoạt động và chịu trách nhiệm vế công việc làm của mình, cho đến ngày giờ Chúa định, hồn xuất khỏi xác là chết.
Và Thiên Chúa dựng họ thành một đôi, có nam có nữ, (Sách Sáng thế ch.1, c.28; ch.2, c.18-24) để bổ túc và trợ giúp nhau, để yêu nhau, sống hạnh phúc bên nhau, và phối hợp với nhau mà sinh đẻ con cái lưu truyền nòi giống.
Đoạn Ngài đặt họ làm bá chủ tất cả vũ trụ, trên mọi loài mọi vật (Sách Sáng thế ch 1, c.26 và 28) Ngài đã dựng nên trên đó.
Công trình tạo dựng ấy, Ngài thấy quá đỗi tốt đẹp, nên Ngài vô cùng vui thích.
*
Ngoài loài người, Thiên Chúa có tạo dựng những vật nào khác không?
Có. Trước khi tạo dựng loài người, Ngài tạo một loài vô hình mắt ta không trông thấy, đó là loài Thiên thần.
Thiên thần là loài có tính linh thiêng không có thân xác, cao trọng, thông minh và sức mạnh hơn loài người, Thiên Chúa dựng nên ở trên trời để phụng sự Ngài (Sách tiên tri Isaia ch.6, c.1t; Sách Thánh vịnh ch.103, c.20; TM Luca ch.2, c.9 ; Thư Hípri ch.1, c.14…), và thi hành những công việc Ngài giao phó, hoặc được sai đi phục vụ loài người chốn trần gian (Như chú thích trên.).
Đặc biệt mỗi người chúng ta được Thiên Chúa cử một vị Thiên thần đến để ngày đêm săn sóc, gìn giữ từ hồi mới sinh cho đến khi chết. Gọi vị ấy là Thiên thần Hộ thủ (hay Bản mệnh).
Các Thiên thần trung nghĩa với Chúa, được Ngài ban thưởng phúc Thiên đàng, nhưng có một số Thiên thần không chịu phục quyền và các quyết định của Thiên Chúa, cầm đầu là Lu-xi-phe, đã dấy lên phản nghịch Ngài.
Thiên Chúa liền sai các Thiên thần trung thành đánh đuổi chúng ra khỏi trời và tống xuống Hỏa ngục. (Sách Khải huyền, ch.12, c.7-9)
Từ đó, bọn ngụy thần không còn được gọi là Thiên thần, mà gọi là ma quỷ.
Ma quỷ bị Chúa phạt, quay ngược trở lại ghét Chúa, và mưu đồ phá hoại công việc của Chúa, cách riêng chúng ganh ghét loài người, chúng rình rập và bày đủ mưu kế cám dỗ loài người (Mt 4, 1-10; 1 Tx 3,5 ; 2Tx 2, 9-10; 1Pr 5,8) nghe theo chúng mà phản nghịch bất tuân luật của Chúa, để cũng bị trầm luân đời đời như chúng.
Ma quỷ ghen ghét, còn Thiên Chúa có thương yêu loài người không?
Thiên Chúa rất yêu thương loài người vì thế đã dựng nên họ. Sách Đạo Chúa xác nhận điều đó:
“Chúa xót thương tất cả mọi người… vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên.”( Kn 11, 23-26)
Ngay cả khi loài người phạm tội và phản nghịch Ngài, Ngài vẫn không ruồng bỏ, vẫn yêu thương đến nỗi sai Con Một của Ngài xuống trần gian cứu họ khỏi trầm luân khốn khổ (TM Gioan ch.3, c.16; Thư Rôma ch.5, c.8).
Loài người tuy thua kém Thiên thần, song nhờ đâu lại cao trọng hơn mọi loài mọi vật trên địa cầu?
Nhờ loài người được dựng nên có hồn linh, theo hình ảnh bản tính bất tử của Thiên Chúa(Sách Khôn ngoan, ch.2, c.23), và có khả năng được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu của Ngài.
Ở trên mặt đất này, có loài nào cũng có hồn linh như loài người?
Không có một loài nào khác ở trên mặt đất này có hồn linh.
Linh hồn người ta có khi nào chết chăng?
Không, linh hồn có tính linh thiêng (phi vật chất), không bao giờ chết, không tan rã. Xác thì chết vì nó từ vật chất hợp lại nên sẽ có lúc tan rã mà trở về cát bụi.
Hồn và xác phần nào trọng hơn?
Hồn là phần trọng hơn, vì có tính linh thiêng, do Thiên Chúa trực tiếp dựng nên. Xác là từ vật chất (do lòng mẹ) mà nắn nên.
Không thấy linh hồn mà sao lại bảo là có?
Linh hồn có tính linh thiêng vô hình vô tượng, con mắt phàm trần thấy làm sao được. Không thấy chứ không phải không có. Dòng điện chạy trong dây đồng, ta không thấy, mà nó có đấy, cứ thử sờ vào là biết ngay. Có gió đấy mà ta đâu có thấy, song ta nghe được tiếng gió rít qua khe cửa, ta thấy gió lay động cành cây.
Mà nhờ có linh hồn mới có trí khôn hiểu biết, mới phân biệt lành dữ thị phi, mới có luân thường đạo lý, có giáo dục, mới có thể học hành tấn tới được.
Người đầu tiên được Thiên Chúa dựng nên là ai?
Là ông A-đam và bà E-va, nguyên tổ của loài người chúng ta.
Thiên Chúa dựng ông Ađam và bà Eva ở đâu?
Ở trong một cái Vườn gọi là Địa Đàng, đầy hoa thơm cỏ lạ, giữa những chim muông cầm thú… Qua những hình ảnh tượng trưng đó, Sách Đạo Chúa muốn diễn tả trạng thái rất sung sướng và hạnh phúc mà họ được hưởng…, và họ còn được làm chủ trên tất cả mọi loài mọi vật Thiên Chúa đã dựng nên trên trái đất… (Sách Sáng thế ch.2, c.8-15) Đó là chốn Bồng Lai tiên cảnh loài người thường mơ ước.
Tại sao con cháu bây giờ lại phải sống khổ cực ở trần gian?
Đây là một chuyện vô cùng đau lòng!
Số là Ông Bà nguyên tổ chúng ta đang sống sung sướng trong Địa Đàng, được hưởng hết mọi sự, duy chỉ có một điều Chúa cấm, là không được ăn quả “cây biết lành biết dữ”( Sách Sáng thế, ch.2, c.16). Đây cũng là cách nói tượng trưng về một điều mà loài người không được chiếm đoạt, đó là quyền quyết định cái gì là tốt (là lành), cái gì là xấu (là dữ). Quyền ấy thuộc về một mình Thiên Chúa, vì Ngài là Chúa Tể, đã tạo dựng nên tất cả mọi sự, nên chỉ Ngài mới có quyền định cái gì tốt, cái gì xấu cho họ, ví dụ Ngài bảo: Cấm không được giết người; không được phạm tội dâm dục; không được lấy của người ta v.v… vì đó là những điều xấu, và gây hại. Nếu trái lệnh cấm sẽ phải chết.
Thế nguyên tổ có vâng theo lệnh Chúa truyền không?
Buồn thay, nguyên tổ đã không tuân lệnh Chúa truyền. Các ngài đã nghe ma quỷ lừa gạt, xúi giục mà ăn trái cấm (tức là trái lệnh Chúa), nó bảo rằng cứ ăn thì sẽ được hiểu biết mọi sự, trở nên bằng Thiên Chúa.
Thế là khởi đầu Thảm kịch của nhân loại: Ông bà bị Thiên Chúa phạt, không những bị “cắt đứt tình nghĩa” với Thiên Chúa, mà còn mất hết mọi ơn huệ Chúa đã ban, ông bà lúc ấy mới mở mắt ra thấy mình trần trụi chẳng còn gì, sung sướng hạnh phúc tan biến cả… và còn phải mang thêm án chết. (Sách Sáng thế, ch.3, xem tất cả chương)
Án chết ấy là không những phần xác phải chết mà còn phần hồn cũng chết, nghĩa là bị trầm luân khổ ải muôn đời muôn kiếp trong Hỏa ngục với lũ ma quỷ.
Mô tả cách tượng trưng về tất cả thảm kịch tan vỡ ấy, Sách Đạo Chúa dùng hình ảnh ông bà nguyên tổ bị đuổi ra khỏi Địa đàng, từ nay phải sống trong một cõi trần đầy lao lung cực khổ và nước mắt.
Án phạt được lưu truyền cho con cháu – là loài người chúng ta – không ai thoát khỏi, gọi là tội tổ tông truyền, cũng giống như chuyện một ông bố đánh bạc thua sạch, nhà cửa mất trắng, con cái sẽ lãnh đủ tình cảnh tan gia bại sản, sống thiếu thốn nghèo nàn, đói khổ.
Mời bạn cùng chúng tôi và cả thế giới hát lên niềm khao khát mong Trời ra tay cứu khổ cứu nạn:
“Trời cao hãy đổ sương xuống,
Và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc tội.
Trời cao hãy đổ sương xuống,
Và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời!”
šš…››
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ SÁU
CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG NGUYÊN THỦY BỊ PHÁ HỎNG, CHÚA XỬ LÝ LÀM SAO?
Loài người phá hỏng chương trình tạo dựng tốt đẹp của Thiên Chúa, nên phải sống đau đớn, cực khổ và mang án chết cả xác hồn.
Phải chăng số phận họ hoàn toàn tuyệt vọng?
Thiên Chúa là Chủ tể mọi loài mọi vật, cầm cân nẩy mực, giữ gìn trật tự của tất cả vũ trụ, cho nên Ngài bắt buộc phải xét xử công/tội một cách công bằng, có công thì thưởng, có tội thì phạt.
Nhưng may thay, Ngài cũng là Cha nhân từ và giàu lòng thương xót vô biên, thấy tổ tiên và loài người con cháu họ (là chúng ta) yếu đuối dại dột bị ma quỷ lừa gạt và phạm tội lỗi, Ngài phạt nhưng không để loài người tuyệt vọng, Ngài lập ra hai phương án liên kết và nối tiếp nhau để cứu độ họ:
Phương án thứ nhất:
- a) Thiên Chúa in sẵn vào tâm hồn mỗi người, khi sinh ra, một cái khả năng gọi là “lương tâm”, nhờ đó biết phân biệt thị phi, thế nào là lành, là dữ, và khi làm trái lương tâm, người ta thấy áy náy, bứt rứt, sầu khổ, (Thư Rôma, ch.2, c.14-15) đó là tiếng chuông cảnh tỉnh cho biết đâu là phúc mà làm theo để được sống, đâu là tội mà tránh xa kẻo chết.
- b) Nhưng Chúa Trời thấy thế chưa lấy làm đủ, Ngài chọn một dân riêng là Is-ra-en, bây giờ gọi là dân Do Thái, và Ngài ban cho họ một bộ luật, gọi là luật Mô-sê (Sách Xuất hành, ch.20-21), với mục đích sau này truyền ra cho tất cả nhân loại.
- c) Đang khi đó, Ngài không bỏ mặc phần còn lại của nhân loại sống vô luân, vô trật tự, Ngài soi sáng cho một số nhân vật ưu tú trong nhân loại, chẳng hạn bên Á Đông có Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử v.v…, bên Tây phương có ông A-ris-tô-tê-lê, Pla-to-ni-us, Sê-nê-ca, v.v… các vị ấy đặt ra những luật lệ, những tập tục tốt đẹp, dạy bảo người ta sống đạo đức, giữ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín…
Phương án thứ hai:
Nhưng khi Thiên Chúa thấy con người kẻ thì không dùng trí thông minh của mình mà nhìn biết Chúa Trời mà thờ, trái lại u mê lầm lạc đi thờ các tạo vật, dĩ chí thờ cả dã thú, hổ beo, rắn rít…; kẻ thì không chịu làm lành lánh dữ, ngay cả dân riêng của Ngài là Is-ra-en cũng vậy, có luật Ngài ban cho song chẳng chịu tuân giữ, càng ngày thêm lún sâu vào tội lỗi… cho nên Chúa Trời quyết định dùng phương án thứ hai, đó là sai Con Một Ngài xuống trần (Thư Galát, ch.4, c.4-5; Thư 1 Gioan, ch.4, c.9,11) để cứu nhân loại.
Đây chính là lúc giải đáp mấy câu hỏi bạn nêu ra trên kia.
Câu hỏi thứ nhất:
Con Một Thiên Chúa xuống thế cứu nhân loại thì:
LAI LỊCH NGÀI THẾ NÀO?
Thưa :
- Ngài sinh ra đời mang tên Giê-su
Con Một của Thiên Chúa, vâng lệnh Thiên Chúa Cha giáng trần làm người. Mà giáng trần làm người thì phải có người mẹ sinh ra.
Để thực hiện việc ấy, Ngài đã chọn một cô gái đồng trinh tên là Maria để cưu mang và sinh Ngài ra, và bảo đặt tên là Giê-su. Đức Maria thụ thai Ngài một cách rất nhiệm mầu do quyền phép của Thiên Chúa tác động (TM Luca, ch.1, c.34-35), chứ không do sự cộng tác của một người đàn ông phàm trần nào, bởi đó khi thụ thai cũng như khi sinh nở, Người vẫn trước sau trọn đời đồng trinh vẹn tuyền.
Thật ra đối với loài người, việc Đức Maria thụ thai và sinh con mà vẫn còn đồng trinh vẹn toàn là điều khó hiểu, vì trong nhân loại chưa bao giờ xảy ra như thế, và cũng chưa bao giờ có ai làm được như thế, nhưng đối với Thiên Chúa, là Đấng Toàn năng phép tắc vô cùng, chẳng có gì là không thể làm được… Kìa xem, việc từ hư vô dựng nên cho có muôn loài, muôn vật là điều khó khăn hơn vô cùng mà Ngài còn làm được, huống hồ Ngài lại không thể làm một việc nhỏ bé là cho cô gái đồng trinh thụ thai và sinh con được sao?
- Đức Giê-su ra đời khi nào?
Ngài đã ra đời cách đây hơn 2.000 năm. Nhưng phải hiểu câu này cho đúng: Ngài bấy giờ “ra đời” chứ không phải Ngài bấy giờ mới “có”, mới “hiện hữu”, vì vốn là Thiên Chúa nên Ngài vẫn “hằng có” từ thuở đời đời. Vào thời điểm cách đây hơn 2.000 năm, Ngài “Ra đời” chỉ có nghĩa là Ngài từ trời xuống trần, mặc lấy một xác phàm mà sinh ra làm người.
Ngài giáng sinh ra đời để khai mạc một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Hồng Ân Cứu Độ, cho nên bắt đầu kỷ nguyên này, trên thế giới đâu đâu người ta cũng gọi là năm Thiên Chúa Giáng Sinh.
Ngày nay Lễ Giáng sinh không còn thuộc riêng của Đạo Chúa mà đã lan tràn ra khắp thế giới, đâu đâu cũng mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chỉ vì nhận thấy Chúa Giáng sinh là để đem đến Hòa bình và yêu thương.
- Đức Giê-su sinh ra đời ở đâu?
Đức Giê-su sinh ra tại Bê-lem (TM Matthêu ch.2, c.1) , đất Pha-lê-tin (nước Do thái), ở miền Trung Đông, thuộc châu Á chúng ta, như trên kia đã nói. (Xem lại Bản địa đồ)
Vậy Đức Giê-su không phải là người Tây sao?
Không, Đức Giê-su sinh ra bên phương Đông, sống chết bên phương Đông, không bao giờ qua bên Tây.
- Là Thiên Chúa mà có thể làm người được sao?
Được, khi xuống trần, Thiên Chúa nhờ một người Mẹ là Đức Maria thụ thai và sinh ra, thế là Ngài nhận lấy từ người Mẹ thêm một cái bản tính nhân loại để làm người. Do đó Ngài có hai bản-tính: Bản tính gốc của Ngài là Thiên Chúa, và bây giờ đảm nhận thêm bản tính loài người. Vì vậy, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người thật. Ngài là trường hợp độc nhất vô nhị trên thế giới: Từ cổ chí kim chưa từng có ai có thể tự xưng mình vừa là người vừa là Thiên Chúa thật cách lạ lùng như thế.
Người phụ nữ được phúc chọn làm Mẹ sinh ra Đức Giê-su, là Đức Maria – thường được gọi là Đức Mẹ – Người có linh không?
Đức Mẹ rất linh, vì Người là Mẹ Đức Giê-su vốn là Thiên Chúa, cho nên khi ta đến xin Đức Mẹ cứu giúp sự gì, thì Người động lòng thương mà cầu cùng Chúa Giê-su, vốn là Con chí hiếu, Ngài sẽ nhậm lời ta xin.
Hơn nữa, Chúa Giê-su trước khi về trời, đã đặt Đức Mẹ làm Mẹ của loài người (TM Gioan, ch.19, c.25-27), và để Đức Mẹ có thể chu toàn chức vụ lớn lao ấy đối với toàn thể nhân loại bất kể lương giáo, thì tiên vàn đã phú vào Trái tim Mẹ một tình yêu và lòng thương xót vô bến bờ… Rồi Chúa đã ban cho Mẹ một quyền thế vô biên, cùng với đầy đủ mọi phương tiện để thi hành…
Bởi vậy, sau khi mãn cuộc đời dương thế, được Thiên Chúa rước về trời, thì suốt bao nhiêu thế kỷ, Đức Mẹ từ trời hằng dõi theo cuộc sống của con cái dưới trần, và tỏ một lòng thương yêu họ bất kỳ là có Đạo hay không, thương yêu đến nỗi phàm con kêu đến, tức thì như đã có Mẹ một bên cứu giúp, vì thế người ta đã tặng biệt hiệu cho Người là Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp!
Truyện kể rằng: Một gia đình hai mẹ con bà kia, năm 1954 di cư vào miền Nam, tuy nhà nghèo, thế mà đã bỏ lại tất cả, chỉ mang theo một bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Vì tin rằng có Mẹ ở bên phù hộ chở che, giúp đỡ sẽ chẳng sợ thiếu thốn gì.
Vì thế, chúng tôi nghĩ đến bạn, nếu bạn tìm đàng chánh nẻo thật, bạn hãy xin Người dẫn dắt, hãy cậy Người như con cậy Mẹ: Bạn sẽ cảm thấy một bàn tay êm ái dìu dắt, một trái tim yêu thương của một Hiền Mẫu nâng đỡ, ủi an. é
Câu hỏi thứ hai:
VÌ SAO NGÀI PHẢI TỪ TRỜI XUỐNG THẾ GIAN?
Thưa: Như trên kia đã nói, vì nhân loại u mê lầm lạc, tin vơ thờ quấy, và càng ngày càng lún sâu vào tội lỗi, chuốc vào mình cái chết trầm luân đời đời, nên từ trời Ngài được Thiên Chúa sai xuống thế gian mặc xác phàm làm người, để dạy cho loài người bỏ sự lầm lạc biết đường trở về trời, và dạy cho họ biết sự thật về Thiên Chúa mà tôn thờ hầu được sống muôn đời. Mà muốn dạy cho loài người thì nếu Ngài cứ ở trên trời xa cách loài người, thì làm sao loài người chúng ta hiểu được lời Ngài, cho nên Ngài phải xuống thế làm người để trở nên giống chúng ta, gần gũi và thông cảm với chúng ta, có miệng lưỡi mà nói được ngôn ngữ loài người ngõ hầu khi ra đi truyền đạo công khai, Ngài có thể dạy những điều cần thiết cho nhân loại.
Mời bạn nghe câu truyện sau đây của nhà văn Mỹ Louis Cassels để hiểu điều ấy:
“Người đàn ông tôi sắp giới thiệu với quý bạn… là một người tử tế, lịch sự, rộng lượng với gia đình, đúng đắn trong tiếp nhân xử thế, nói chung ông là người tốt.
Có điều ông không tin chuyện Thiên Chúa xuống thế làm người, như các linh mục vẫn rao giảng mỗi dịp Giáng sinh. Chuyện ấy – theo ý ông – chả có nghĩa lý gì. Và bởi lẽ ông quá trung thực nên không giả vờ tin được. Ông bảo vợ, (một phụ nữ siêng năng đi Nhà thờ):
- Anh thật sự xin lỗi em, nhưng anh sẽ không cùng em đi Lễ nhà thờ đêm Giáng sinh được.
Ông bảo: Ông không muốn làm kẻ đạo đức giả, (không tin mà cứ vờ đi Nhà thờ), nên tốt hơn ông ở lại nhà. Nhưng ông sẽ thức khuya đợi vợ con tan Lễ trở về để cùng nhau ăn mừng Lễ. Thế là ông ở nhà, còn vợ con đi dự Thánh Lễ nửa đêm.
Vợ con ông lái xe đi, chẳng mấy chốc thì tuyết bắt đầu rơi. Ông ra đứng ở cửa sổ, dõi mắt nhìn cơn mưa tuyết bất ngờ đang mỗi lúc một trở nên dữ dằn hơn. Rồi ông trở lại ngồi trên chiếc ghế kê bên cạnh lò sưởi để đọc báo. Mấy phút sau, ông giật mình vì có gì đó rớt nghe cái phịch. Lại thêm tiếng nữa, và tiếng nữa…
Thoạt đầu ông ngỡ ắt hẳn ai đó vò tuyết thành cục ném vào cửa sổ phòng khách nhà ông. Nhưng khi bước ra cửa trước xem xét, ông thấy một đàn chim khốn khổ túm tụm vào nhau giữa trời tuyết lạnh. Chúng gặp bão tuyết, và trong lúc tuyệt vọng đi tìm chỗ trú ẩn, đã cố sức đâm nhào vào ô cửa kính lớn của phòng khách nhà ông.
Ông không thể để cho các sinh vật đáng thương này nằm ngoài trời chết cóng. Ông nhớ đến cái chuồng đám trẻ nhà ông dùng nhốt chú ngựa con. Chuồng ngựa là chỗ trú ẩn ấm áp, ông có thể lùa hết đàn chim vào trong đó.
Ông nhanh nhẹn khoác áo choàng, mang ủng lội tuyết, rồi giẫm lên lớp tuyết dầy đi ra chuồng ngựa. Ông mở toang cửa, thắp đèn lên, nhưng lũ chim không chịu vào. Ông nghĩ thức ăn sẽ dụ chúng được. Thế là ông vội vàng trở vào nhà, tìm vụn bán mì và rắc lên mặt tuyết trắng. Ông rải thành con đường, từ chỗ đàn chim suốt tới cửa chuồng ngựa đang mở toang và đèn sáng trưng. Nhưng nản quá, lũ chim chẳng ngó ngàng tới chỗ vụn bánh mì, cứ tiếp tục vỗ cánh tuyệt vọng trong tuyết.
Ông cố lùa chúng vào chuồng ngựa bằng cách đi quanh đàn, xua tay lia lịa, mồm thì xuỵt xuỵt liên tục. Lũ chim chỉ tản mác ra chứ chẳng chịu ùa vào cái chuồng có đèn sáng ấm áp. Ông biết lũ chim sợ ông.
Ông suy nghĩ: Phải rồi, với chúng thì ta là kẻ lạ và đáng sợ. Ước gì ta có thể nghĩ ra cách chi đó, để giúp chúng hiểu rằng: Chúng có thể tin cậy ta, rằng ta không cố ý làm hại chúng, mà chỉ đang cố gắng cứu giúp chúng. Nhưng cách chi đây?
Ông mới nhủ thầm: “Ước gì ta biến thành chim, nhập bọn với chúng và nói ngôn ngữ loài chim. Thế thì ta có thể bảo chúng chớ có sợ. Khi ấy ta có thể dẫn dắt cả đàn đi vào chuồng ngựa an toàn, ấm áp. Ước gì ta là một con chim cùng đàn, để chúng thấy ta, nghe ta và hiểu được ta.”
Ông vừa nghĩ tới đó thì chuông nhà thờ đổ rền. Tiếng chuông vang vọng thấu tai ông, át luôn tiếng gió rít. Ông đứng đó lắng nghe những hồi chuông ngân vang khúc hoan ca mừng Chúa Giáng sinh làm người. Và ông khụyu xuống, quỳ luôn trên nền tuyết lạnh.
Ông chắp tay thì thầm: “Nay con hiểu rồi. Con đã hiểu vì sao Thiên Chúa phải xuống thế làm người.” (Bản Anh ngữ: Louis Cassels, story the parable of the birds )
--- * ---
Câu hỏi thứ ba:
ĐỨC GIÊSU XUỐNG THẾ LÀM NHỮNG VIỆC GÌ?
Đáp: Một là tái lập Vương quyền của Thiên Chúa – vương quyền mà loài người từ chối và rẫy bỏ vì phạm tội – bằng cách thiết lập một “cộng đoàn”, nói to tát hơn thì là một “vương quốc”, sách Đạo Chúa còn gọi là “Nước Thiên Chúa” (TM Mác cô ch.1, c.15) tại trần gian, trong đó những ai gia nhập sẽ nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa là Vua, là Chúa của mình.
Hai là Ngài phải hiến thân chịu khổ nạn và chịu chết đền tội thay cho loài người, nhờ đó cứu loài người khỏi sự khống chế của ma quỷ và tội lỗi, khỏi cái chết trầm luân khổ ải, và được về Thiên đàng sống muôn đời.
Không có Ngài thì loài người có ai có thể tự sức cứu được mình và lên Thiên Đàng được không?
Tuyệt đối không có ai, vì việc đó hoàn toàn vượt khả năng người phàm, bất cứ họ là ai, cho dù họ nỗ lực cách nào… Vì Thiên đàng là Nhà của Thiên Chúa, Ngài là chủ. Không ai có thể vào nhà của Ngài mà không có sự đồng ý của Ngài. Cũng tỉ như bạn là chủ một lâu đài rộng lớn, hay một khách sạn trăm phòng, chẳng ai vào được nếu bạn không cho phép, trừ phi hắn là tên trộm.
Chỉ có Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa, từ trời xuống thế và sau khi chịu chết đền tội nhân loại, Ngài đã lên lại Thiên đàng (Thư Hípri ch.9, c.12 và 24) và đem những người được Ngài cứu vào ở với Ngài, điều đó chính Ngài đã tuyên bố:
“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở…và Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Thầy sẽ lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (TM Gioan ch.14, c.2-3)
Người đời thường rất sợ chết, thậm chí còn tránh không dám nói đến chữ “chết”, nhưng những ai tin theo Đức Giê-su thì không sợ chết nữa, vì được nghe câu nói đầy an ủi ấy của Ngài: Chết không còn là một cái gì hoang mang vô định hãi hùng, nhưng là được Chúa đến đón về ở với Ngài trong vinh quang, trong ánh sáng, trong hạnh phúc vô biên. Bạn cứ tin vào Chúa đi, rồi sẽ thấy.
*
Bây giờ đã đến lúc trình bày chi tiết hơn Cuộc Đời và Công Việc Cứu Độ của Đức Giê-su.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ BẢY
NHỮNG GIAI ĐOẠN CUỘC ĐỜI VÀ CÔNG VIỆC CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊ-SU.
Đức Giê-su sống và hoạt động ở trần gian khoảng 33 năm. Trong 33 năm ấy, có thể chia đời Ngài ra làm bốn thời kỳ:
A - Thời kỳ thơ ấu và ẩn dật.
B - Thời kỳ truyền Đạo.
C - Thời kỳ thọ nạn.
Đ - Thời kỳ phục sinh và lên trời.
A – Thời Kỳ Thơ Ấu Và Ẩn Dật
Thời kỳ này kéo dài bao lâu?
Thưa độ 30 năm. - Sinh ra trong một nơi nghèo hèn ở Bê-lem, lớn lên tại làng Na-da-rét (TM Matthêu ch.2, c.1,22-23), thuộc nước Pha-lê-tin, sống với thân mẫu Ngài là Đức Maria và nghĩa phụ là Thánh Giuse, và đã được ông truyền nghề thợ mộc lại cho làm kế sanh nhai, sống cảnh cần lao nghèo khó.
Trong thời gian ẩn dật này, Ngài làm gì?
Đã làm người, Ngài sống bình thường như tất cả chúng ta, phải lao động kiếm ăn, rồi phải học tập, được dạy cho biết niềm tin, văn hóa và tập tục truyền thống của dân tộc Ngài để chuẩn bị cho công việc giảng đạo công khai sau này.
Không ai biết Ngài là Thiên Chúa sao?
Dù vốn là Con Một Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhưng một khi đã trút bỏ hết vinh quang để xuống trần làm người, Ngài nên giống hẳn chúng ta mọi đàng (Thư Philiphê ch.2, c.6-7), cũng phải lao động, chịu đau chịu khổ và bị thử thách tứ bề, chỉ trừ có một điều là Ngài không hề phạm tội(Thư 1 Phêrô ch.2, c.22; TM Gioan ch.8, c.46; Thư 1 Gioan, ch.3, c.5), Ngài giữ không để bộc lộ cái chân tướng Thiên Chúa của mình trong các hành vi cử chỉ hàng ngày.
Vì thế người đồng hương của Ngài chỉ nhận thấy được nguyên có bản tính loài người của Ngài, tầm thường như tất cả mọi người, lam lũ trong nghề một anh thợ mộc chốn thôn quê. (TM Máccô ch.6, c.2-3)
Chỉ từ khi ra truyền đạo thì cơ sự mới khác đi.
--- * ---
B – Thời Kỳ Truyền Đạo.
Khi nào Ngài ra đi truyền đạo?
Đến năm ba mươi tuổi, Ngài từ giã Thân Mẫu là Đức Maria và cuộc đời ẩn dật, để công nhiên ra đi truyền Đạo Trời cho dân chúng trong 3 năm:
+ Ngài dạy dỗ cho người ta biết Thiên Chúa và những sự thật về Thiên Chúa, (thường gọi là “những mầu nhiệm”).
+ Chỉ bảo bổn phận con người đối với Thiên Chúa là Cha,
+ Bổn phận con người đối với bản thân là phải tìm hạnh phúc chân chính cho mình trong sự tu thân tích đức và xa lánh tội lỗi để được cứu rỗi,
+ Và bổn phận con người đối với đồng loại là phải thương yêu nhau, vì tất cả mọi người đều là anh em con một Cha trên trời.
Đạo Ngài tóm lại trong hai câu này:
“Trước, kính Chúa trên hết mọi sự.
Sau, yêu người như mình ta vậy”.
Dân chúng có tin lời Ngài giảng đạo không?
Để cho lời giảng dạy của Ngài được chứng thực là Đạo thật từ trời xuống, Thiên Chúa ban cho Ngài quyền làm rất nhiều phép lạ… (Sách Công vụ ch.2, c.22 ; ch.10, c.38) Được thấy và nhất là được hưởng các phép lạ ấy, dân chúng sẽ dễ mở lòng tin lời giảng Đạo của Ngài.
Do đó, Đạo Đức Giê-su rao truyền thu hút được rất đông người thiện chí tin theo.
Hãy thuật lại các phép lạ đó!
Không kể vô số phép lạ chữa lành tật bệnh ngay tức khắc, những người đui mù, bất toại, phung hủi v.v… (TM Luca ch.7, c.21) bằng một lời nói hay một cử chỉ, còn có những phép lạ kinh thiên động địa như:
- Cho kẻ chết sống lại (TM Gioan ch.11);
- Quát nạt bão biển đang nổi sóng gầm thét phải im lặng như tờ (TM Matthêu ch 8, c.23-27),
- Hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều để nuôi mấy ngàn người đi theo nghe Ngài giảng được ăn no (TM Gioan ch.6 ; TM Mác cô ch.6, c.32-44….);
- Trục xuất quỷ ma khỏi người chúng ám …. (TM Mác cô ch.5)
Tất cả việc truyền đạo và các lời giảng dạy của Ngài cũng như những phép lạ Ngài làm, đều đã được những môn đệ Ngài là những chứng nhân nhìn thấy tận mắt, nghe tận tai ghi lại trong các sách gọi là Phúc Âm hay Tin Mừng.
--- * ---
C – Thời kỳ Thọ Nạn
Thành công của Ngài như thế, mà sao Ngài lại lâm nạn?
Thành công, tiếng tăm và nhất là lời giảng dạy của Ngài không làm sao tránh khỏi va chạm và gây tức tối cho một số người thủ lãnh quyền đạo và quyền đời, họ chỉ muốn bảo vệ quyền lợi và sống theo tham vọng của mình. Đó là nguyên-nhân đưa đến âm mưu giết Ngài. ( TM Gioan ch.11, c.47-53)
Cái chết đó không phải là điều bất ngờ đối với Đức Giê-su đâu. Ngài chủ động mọi việc xảy ra. Ngài đã từng biết trước và báo trước mấy lần cho các môn đệ (TM Matthêu ch.16.c.21-23; ch.17, c.22-23 ; ch.20, c.17-19) không những về việc Ngài sẽ chịu khổ nạn, chịu chết mà còn cả việc Ngài sẽ sống lại:
“Này chúng ta lên thành Giê-ru-sa-lem, và Con Người (chỉ về Ngài) sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Ký lục (người thông thạo luật lệ) và họ sẽ lên án tử hình cho Ngài. Họ sẽ nộp Ngài cho dân ngoại để chịu nhạo báng, đánh đập và treo trên Thập giá, nhưng đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”.( TM Matthêu ch.20, c.17-19)
Sao Ngài không dùng quyền phép lớn lao mình có, để thoát thân?
Với quyền phép lớn lao trong tay làm được những phép lạ, Ngài có thể tự giải thoát dễ như chơi, nhưng Ngài không dùng, vì Ngài biết rõ chương trình Thiên Chúa Cha đã ấn định (Thư Hípri, ch 2, c.10) và đã nhờ các vị tiên tri mà tiên báo từ cả ngàn năm trước (Chẳng hạn Sách tiên tri Isaia) rằng Ngài phải chịu khổ nạn và chịu chết, mà đền tội và cứu độ loài người, là những kẻ được Thiên Chúa yêu thương. Thế nên:
Ngài chịu chết thật sao?
Phải, sau khoảng 3 năm truyền đạo, Ngài tự nguyện tuân phục Ý Chúa Cha, chấp nhận chết không kháng cự (TM Matthêu ch.26, c.39-44), chứ thật ra không ai có thể giết Ngài được. Chính Ngài đã nói:
“Không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta…” (TM Gioan ch. 10. c.18) (để cứu nhân loại lầm than).
Vì thế lúc kẻ địch bắt Ngài, có một môn đệ rút gươm ra chém họ để tạo cho Ngài lối thoát thân, Ngài không đồng ý, nên bảo ông đút gươm vào vỏ (TM Matthêu ch.26, c.51-54), và bằng lòng để những kẻ nghịch thù bắt Ngài nơi vườn Cây Dầu, nơi Ngài đến để cầu nguyện, và bị đem nộp cho tòa án Do Thái rồi chuyển sang tòa án La Mã (TM Matthêu ch.26, c.47 đến ch.27.), hồi đó họ đang cai trị xứ sở.
Ngài chết bởi hình khổ nào?
Mặc dù quan tòa hồi ấy – là Tổng trấn Philatô, người La Mã – mấy lần tuyên bố trước dân chúng là Ngài vô tội (TM Gioan ch.18. c.38 ; ch.39, c.4,6,12), bị kẻ thù cáo gian bỏ vạ, nhưng trước áp lực của quần
chúng do bọn địch thù xách động, ông Tổng trấn đành nhượng bộ và cho lính đánh đòn, và sau cùng kết án tử hình Ngài phải chịu đóng đinh trên Thập tự giá (TM Matthêu ch. 27. c.24-26), một hình khổ dã man đau đớn khủng khiếp.
Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Ngài đã cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Ngài. (TM Luca ch.23, c.34)
---*---
Đ – Thời Kỳ Phục Sinh và Lên Trời.
Phải chăng mọi sự chấm hết sau khi Ngài chịu khổ hình và tử nạn?
Không, trái lại! Từ xưa đến nay chưa từng thấy ai đã chết, chôn hẳn hoi rồi, mà có thể sống lại.
Ngài đã sống lại thật sao?
Chắc bạn chưa quên Đức Giê-su vốn là Con Một Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa Đấng hằng sống, Đấng trường sinh bất tử, cho nên bẩm chất Ngài không thể chết.
Nhưng vì thương nhân loại lầm than, tội lỗi đang tuột dốc xuống vực thẳm hư vong…, Ngài vốn là Đấng bất tử, đành phải xuống trần mặc xác thịt làm người, vì làm người thì mới có thể chết. Và Ngài hy sinh chấp nhận chết (TM Matthêu ch.27, c.50) để làm lễ vật đền tội thay cho nhân loại.
Nhưng sau khi thực hiện xong việc chết để đền tội cho nhân loại, đương nhiên Ngài đã sống lại chiếu theo bản tính bất tử không thể chết của Ngài.
Cái gì làm chứng Ngài đã sống lại thật?
Đề làm bằng chứng Ngài đã sống lại, Ngài hiện ra
nhiều lần cho các môn đệ thân tín và hàng trăm đồ đệ khác thấy (Thư 1 Corintô, ch.15, c.3-9; Sách Công vụ ch.10, c.39-41), và nhiều khi còn ngồi chung bàn ăn uống cùng họ. [i] Tuy nhiên, việc sống lại không phải chuyện dễ tin đâu, ngay trong số môn đệ cũng có người không tin. Để củng cố niềm tin của những người này, Ngài lại đã hiện ra với họ, cho tận mắt xem và tay sờ vào vết các lỗ đinh ở chân tay Ngài, thọc bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn Ngài, để họ thấy đúng con người bị đóng đinh Thập giá và đã chết, nay cũng chính là người đã sống lại và đang đứng đây trước mặt họ. (TM Gioan ch.20, c.24-29 ; TM Mác cô ch.16, c.9-14)
Những người đã thấy tận mắt ấy đã làm chứng và ghi chép rõ ràng trong các sách Phúc âm hay sách Tin Mừng.
Sau khi sống lại, Ngài làm gì?
Chúa Giêsu còn ở lại thế gian một thời gian độ 40 ngày để củng cố niềm tin của các môn đệ, và an ủi họ đã bị buồn khổ và thất đảm vì cái chết của Ngài. Và cũng để dạy dỗ thêm về Đạo Trời cho họ, cùng truyền cho họ phải đi khắp thế giới mà làm chứng cho Ngài và rao truyền Đạo Trời của Ngài cho hết thảy các dân tộc trên địa cầu (Sách Công vụ ch. 1, c.3-5), nhờ sức mạnh siêu phàm của Chúa Thánh Thần (là Ngôi Ba Thiên Chúa) mà Ngài hứa sẽ ban từ trời xuống cho họ (Sách Công vụ ch. 1, c.8) vào ngày lễ gọi là Ngũ Tuần. (Sách Công vụ ch. 2, c.1-13)
Hết thời gian 40 ngày ấy, Ngài đưa các môn đệ lên núi Cây Dầu, ban phúc lành cho mọi người đang hiện diện, rồi Ngài tự cất mình lên trời trước mắt họ cho đến khi có một đám mây che khuất. (Sách Công vụ ch.1, c.8-12 ; TM Mc cơ ch.16, c.15-20)
Việc lên trời này một lần nữa chứng minh Chúa Giê-su là Đấng từ trời xuống dạy Đạo Trời cho trần thế, vì:
“Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người (là Đức Giê-su), Đấng từ trời xuống”. (TM Gioan, ch.3, c.1)
Ngài lên trời trước để mở cửa Thiên đàng đón những kẻ tin Ngài sau này cũng được vào ở với Ngài. (Thư Hípri ch.9, c.24; ch.10, c.19-20; x. TM Gioan ch 14, c.2-3; ch.17, c.24)
Cầu cho bạn cũng được hạnh phúc này.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ TÁM
CÔNG CUỘC CỨU ĐỘ VĨ ĐẠI
Nói Chúa Giê-su chịu chết để cứu độ nhân loại, là cứu thế nào?
Xin tạm lấy một ví dụ cho dễ hiểu : Một chàng thanh niên kia, vì gia đình quá nghèo túng, bị bán đi làm nô lệ cho một ông chủ độc ác. Dĩ nhiên cuộc đời anh ta vô cùng cực khổ và đau đớn. Một người bà con thấy tình cảnh tội nghiệp ấy, liền xuất một món tiền làm giá trả cho tên chủ, để chuộc anh ta khỏi cảnh nô lệ, được giải phóng lại trở thành con người tự do, và được đưa về sum họp gia đình như trước.
Việc cứu chuộc loài người do Chúa Giê-su thực hiện cũng giống vậy sao?
Phải. Xin nói đơn sơ và nôm na như thế này: Loài người chúng ta ai cũng phạm tội, tức là sa vòng nô lệ ác độc của ma quỷ và những thế lực hắc ám (Thư 1 Gioan ch.3, c.8 ; Thư Êphêsô ch.2, c.1-2) và hậu quả là sẽ phải xuống Hỏa ngục.
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, không thể cầm lòng trước tình cảnh thảm thương ấy, Ngài đã sai Con Một là Chúa Giêsu, xuống trần chịu chết đóng đinh trên cây Thập tự, đổ máu mình ra làm giá chuộc chúng ta khỏi cảnh nô lệ khốn khổ ấy, giải phóng ta thành người tự do, và được đưa về sống trong gia đình con cái của Thiên Chúa.
Như thế, cái chết của Đức Giê-su là cái chết đền tội thay hay sao?
Phải! Điều đó không có chi khó hiểu, vì trong cuộc đời, chúng ta cũng đôi lần nghe có người mẹ hy sinh chọn cái chết để cho con mình được sống, hoặc thấy có người hiến thân chịu tội, chịu tù thay cho người mình thương.
Trong lịch sử Việt Nam, có kể truyện ông Lê Lai hy sinh chịu chết thay cho vua: Lúc ấy quân địch vây ngặt quá, ông Lê Lai mới xin vua Lê Lợi cho mình mặc áo mão của vua, rồi thúc ngựa xông ra, quân địch tưởng đó là vua Lê Lợi, kéo toàn quân đuổi theo, và giết chết ông vua giả, đang khi đó, ở đàng này vua thật trốn thoát. Cảm động thật!
Thì đây cũng giống vậy, Thiên Chúa muốn Đức Giê-su mang lấy tội lỗi của nhân loại chúng ta vào trong thân Ngài (Thư 1 Phêrô, ch.2, c.24 ; Sách tiên tri Isaia, ch.53, c.6,11-12), rồi hiến thân hy sinh chịu chết trên thập giá để hủy diệt tội, nhờ đó đền tội thay cho ta khỏi chết mà được sống. (Thư 1 Phêrô, ch. 2, c.24 ; Thư 1 Gioan ch.2, c.2 ; Sách tiên tri Isaia, ch.53, c.12)
Chẳng lẽ công cuộc Cứu độ vĩ đại của Chúa Giê-su mà chỉ để đền tội cho loài người khỏi chết thôi sao?
Không! Chúng ta chưa nói hết. Công cuộc Cứu độ vĩ đại ấy còn đem đến cho ta một tương lai huy hoàng không bút nào tả xiết.
Đúng thế! Trên đây chưa nói hết ơn Cứu Độ vĩ đại của Chúa Giê-su, vì nếu chỉ có việc chết đền tội thay, người ta tưởng ơn cứu độ ấy chỉ có bấy nhiêu và hạn chế ở trần gian này thôi. Không! Ơn cứu độ còn hiến cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc tột đỉnh bất tận mãi mãi muôn đời.
Cuộc sống hạnh phúc tột đỉnh ấy là như thế nào?
Là những ai tin theo Chúa Giêsu và trung thành với Ngài suốt đời, thì Thiên Chúa cho họ được cùng thừa kế gia sản với Đức Giê-su, thể theo lời đã hứa :
“Những ai tin vào Đức Giê-su, thì Ngài cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa…” (TM Gioan ch.1, c.12)
“Vậy đã là con, thì cũng là kẻ thừa kế của Thiên Chúa, và đồng thừa kế với Đức Giê-su” (Thư Rôma ch. 8, c.17)
Được đồng thừa kế cái gì?
Mời bạn nghe đầu đuôi câu chuyện sẽ rõ:
Đức Giê-su là Con Một Thiên Chúa, đã vâng ý Thiên Chúa Cha, bằng lòng chịu chết vô cùng đau đớn và hổ nhục trên Thập tự giá mà đền tội cho nhân loại.
Việc vâng phục chịu chết này của Đức Giê-su đã làm hài lòng Thiên Chúa Cha vô cùng, chưa có ai vâng lời Ngài đến tột đỉnh tuyệt đối như thế, bởi vậy Ngài ban thưởng cho Đức Giê-su được sống lại, và tôn vinh, đúng hơn phải nói là siêu tôn Đức Giêsu lên ngôi Chúa Tể, đến mức :
“Khi nghe danh Đức Giê-su,
thì muôn loài muôn vật
cả trên trời,
dưới đất
và trong nơi âm phủ,
phải quỳ gối bái lạy; và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng:
“Đức Giê-su Ki-tô là Chúa!” (Thư Philiphê ch.2, c.9-11)
và đặt làm Vua toàn thể vũ trụ trời đất!
Chính Chúa Giê-su cũng xác nhận:
“Ta đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất!” (TM Matthêu ch.28, c.18)
Vậy đã rõ: Nếu Chúa Giê-su được tôn làm Chúa Tể, và làm Vua vũ trụ trời đất thì khi ta được đồng thừa kế với Ngài, chẳng phải là thừa kế chính chức quyền ấy sao?
Vũ trụ này – hiện nay bị biến dạng nên xấu xa vì tội lỗi (Công Đồng Vat.II, Hiến chế “Vui mừng và hy vọng”, số 39) – sẽ được Thiên Chúa biến đổi nên mới, lạ lùng, huyền diệu, tốt đẹp, tuyệt vời vô cùng, để làm Thiên đàng cho chúng ta ở mãi mãi muôn đời, vì thế Sách thánh của Đạo Chúa mới gọi là cõi TRỜI MỚI ĐẤT MỚI.
Có một môn đệ yêu quý của Chúa Giê-su – tên là Gio-an Tông đồ – làm chứng là đã thấy và mô tả như sau :
“Bấy giờ tôi thấy Trời Mới Đất Mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất…
Rồi tôi nghe từ phía ngai (Thiên Chúa) có tiếng hô to :
“Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ.
“Các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người. Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần đèn đuốc hay ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn muôn đời.” (Sách Khải Huyền ch.21, c.1-5 và ch.22, c.1-5)
Qua chứng từ Sách Đạo Chúa vừa nghe, chắc bạn đã thấy mô tả - bằng những hình ảnh tượng trưng - cõi Trời Mới Đất Mới có đủ mọi yếu tố làm cho ta được hạnh phúc và mãn nguyện tột đỉnh, là cõi Thiên Đàng mà ta thường mơ ước. Này nhé:
- Họ được có Thiên Chúa cư ngụ ở cùng với họ;
- Họ được nhìn thấy tôn nhan (mặt nhìn mặt) Thiên Chúa,
- Họ được hiển trị tức là được thông chia vương quyền với Chúa Giêsu-Vua, và cuộc hiển trị ấy là kéo dài đến muôn đời muôn kiếp không bao giờ chấm dứt;
- Ở đó có dòng sông có nước nguồn sống;
- Có cả cây sự sống huyền diệu đơm quả 12 lần, mỗi tháng một lần;
- Ở đó không còn đêm tối vì vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng;
- Và cũng chẳng còn có khóc lóc vì không còn đau khổ, tang tóc, chết chóc nữa.
Thiên Chúa làm tất cả những sự ấy là để hiến cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc tột đỉnh bất tận mãi mãi muôn đời.
Thật thế! Chắc bạn còn nhớ: Trên kia, đoạn Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, chúng ta có đặt câu hỏi:
Vũ trụ này được dựng nên để làm gì?
Đến đây ta mới vỡ lẽ ra: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ này không phải chỉ để làm cảnh, hay để loài người sống trên đó một kiếp phù du ba vạn sáu ngàn ngày, nhưng có mục đích rất quan trọng là để cho con cái Ngài và thần dân của Chúa Giê-su Vua, sẽ được nơi đó làm Thiên Đàng, và sống ở cõi Trời mới Đất mới ấy vĩnh viễn muôn đời ngàn kiếp.
Ta hãy nghe chính lời Chúa Giê-su Vua phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc mà từ thuở tạo thiên lập địa Ta đã dọn sẵn cho các con.” […]
Thế là … những người lành được vào hưởng cuộc sống muôn đời.” (TM Matthêu, ch.25, c.34 và 46)
Hạnh phúc tuyệt vời ấy, bạn có muốn cùng chung hưởng với chúng tôi không?
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ CHÍN
ĐỨC GIÊ-SU LẬP MỘT CỘNG ĐOÀN ĐỂ MÔN ĐỆ SỐNG ĐẠO
Chúa Giê-su lên trời rồi, số phận các môn đệ và những kẻ tin sẽ bị bỏ mặc bơ vơ nơi trần thế này sao?
Không đâu! Bạn không thể tưởng tượng sự khôn ngoan thượng trí vô song của Đức Giê-su. Ngài là Thiên Chúa chứ đâu phải là người trần tục hèn yếu kém cỏi. Cho nên Ngài đã tiên liệu tất cả:
Ngay từ sinh thời, lúc ra Truyền Đạo công khai, Đức Giê-su đã bắt đầu qui tụ một nhóm nhỏ môn đệ, (xem hình bên) làm thành nòng cốt của Cộng đoàn hay Hội thánh tương lai của Ngài. (Ở đoạn hỏi “Đức Giêsu xuống thế làm những việc gì”, đã nói về việc lập Cộng Đoàn hay Nước Thiên Chúa này.)
Sách Đạo Chúa gọi họ là Nhóm 12 Tông đồ.
Cộng đoàn này gồm những người đã tin lời Ngài giảng dạy, nhận Ngài làm Đấng Cứu độ, và đến lượt họ sẽ hoạt động như một “cơ quan” truyền bá các chân lý của Đạo Trời ra khắp thế giới, cho muôn vàn thế hệ từ đó cho đến tận thế được biết, mà từ bỏ những đam mê xấu xa tội lỗi, gạt bỏ những dụ dỗ của ma quỷ để khỏi mất phúc vĩnh cửu, nhưng được cứu độ và lãnh sự sống trường sinh.
Cộng đoàn ấy sao lại gọi là Hội thánh?
Thực ra, Cộng đoàn hay Hội thánh cũng chỉ là một thực tại duy nhất. Gọi là Cộng đoàn vì muốn nhấn về tính cách thân mật. Gọi là Hội thánh vì các người thuộc về Cộng đoàn đã được Rửa tội nên đã được thánh hóa.
(Hình trên: Các tín hữu đang cùng nhau dâng Thánh lễ trong Nhà thờ. Nhà thờ là biểu tượng cụ thể của Hội thánh).
Là Hội thánh, mà sao lại thấy trong đó có những kẻ tội lỗi?
Quả thật có như vậy. Tuy những người đó đã nghe lời Chúa Giê-su giảng và tin theo Ngài, được gia nhập vào Hội thánh, song họ vẫn là con người, mà con người thì “nhân vô thập toàn”, vì vậy họ còn yếu đuối dễ sa ngã trong những đam mê tội lỗi, dễ bị những thế lực ma quỷ cám dỗ phạm luật Thiên Chúa, làm những điều nghịch mắt Thiên Chúa…
Chẳng lẽ cứ để như vậy mãi sao?
Không đâu! Chúa Giê-su, Đấng thiết lập Cộng đoàn Hội thánh, mà Ngài là Vua hiển trị, Ngài không để tình trạng đó kéo dài mãi mãi, Ngài đang và còn sẽ dùng quyền lực vạn năng của Ngài mà tiêu diệt dần dần các thế lực hắc ám thù nghịch với Hội thánh của Ngài (Thư 1 Corintô ch. 15, c.2 4-27), để đến một ngày kia, vào thời cùng tận, Hội thánh sẽ sạch bóng những kẻ thù, sạch bóng mọi xấu xa tội lỗi, được kiện toàn nên hoàn hảo, rồi Ngài sẽ trao lại cho Thiên Chúa (Thư 1 Corintô ch.15. c.24-28). Thế là ở đó, Thiên Chúa sẽ là Chúa Tể, là tất cả mọi sự và thống trị hoàn toàn trên hết mọi người (Như trên, ch.15, c.28).
Không vào Hội thánh có được cứu độ chăng?
Hội thánh là nơi dạy cho ta Đạo Chúa là Đạo thật, nếu ai biết như vậy mà lại cố tình không vào thì khó được cứu độ. Nói “khó” chứ không phải tuyệt đối không được cứu độ, lý do là vì Thiên Chúa – do lòng thương xót vô biên – rất có thể có những cách nhiệm màu nào khác để cứu vớt họ mà ta không biết…? Còn bình thường, Hội thánh ví như một chiếc tàu đưa ta vượt biển đời để về bến Thiên đàng. Ai không đi tàu này khó có thể cập bến Thiên đàng được.
***
HỘI THÁNH ĐƯỢC TỔ CHỨC NHƯ THẾ NÀO?
Đã là một hội, dù là Hội thánh, thì cũng như mọi hiệp hội, mọi cộng đồng gồm những con người, phải có tổ chức, bằng không sẽ mất trật tự, sẽ lộn xộn, tranh giành, chia rẽ v.v… đưa đến tan rã. Vậy Hội thánh được tổ chức thành hai bậc: một là Giáo phẩm, hai là Giáo dân.
1- Bậc Giáo phẩm là những ai?
Bậc Giáo phẩm là những người được chọn để thay mặt Chúa Giê-su coi sóc Hội thánh. Trên hết có Đức Giáo hoàng. Đức Giáo hoàng đương kim (đăng quang năm 2013) là Đức Phan-xi-cô (xem hình). Nơi ở và làm việc của Ngài là Va-ti-căng ở Rô-ma.
Có ai phụ tá cho Đức Giáo hoàng?
Đã hẳn phải có. Trợ giúp Ngài có các Giám mục, cũng thường quen gọi là Đức Cha, quản cai các địa phận. Cũng giống như một quốc gia có nhiều tỉnh, và mỗi tỉnh lại chia ra làm nhiều quận hay huyện, thì đây cũng vậy, Hội thánh được thành lập tại mỗi quốc gia, cũng chia ra thành nhiều giáo phận, mỗi giáo phận lại chia làm nhiều giáo xứ. Trong mỗi giáo xứ thường có một nhà thờ với một Linh mục đại diện Giám mục để coi sóc, gọi là Cha Quản xứ hay Cha Sở.
Sao phải gọi các linh mục là cha?
Gọi các linh mục là cha, không phải là cha về thể xác, mà về phần linh hồn, vì các ngài ban Bí tích Rửa tội cho tín hữu để họ được tái sinh làm con cái Thiên Chúa. Như thế cũng như thể các ngài là cha đã sinh ra họ trong Hội thánh vậy.
2 – Bậc Giáo dân gồm những ai?
Gồm tất cả những tín hữu không có chức quyền cai quản trong Hội thánh.
Giáo dân có hai hạng:
- a) Một hạng sống giữa thế gian, làm việc và lập gia đình như mọi người. Sống giữa trần thế và làm những công việc trần thế, họ sẽ làm chứng về Chúa Giê-su, và thực thi việc tông đồ đặc biệt của giáo dân là làm sao cho tinh thần Đạo Chúa như men thấm nhuần vào các cơ cấu cũng như các tổ chức của xã hội. (Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh về tông đồ giáo dân, số 2)
- b) Một hạng nữa vì muốn sống trọn vẹn lý tưởng của Đạo Chúa, nên tình nguyện sống độc thân, vào ở trong các nhà Dòng, nhà Phước, để tu thân, tích đức nhờ giữ qui luật nghiêm nhặt hơn, thường gọi họ là các tu sĩ nam nữ.
Nhờ lối sống ấy, họ càng có lợi thế để truyền bá Đạo Chúa ra khắp thế giới.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ MƯỜI
NHỮNG PHƯƠNG THẾ CỨU ĐỘ
Đã lập Cộng đoàn Hội thánh để cho các tín hữu có một nơi để sống đạo, Chúa Giê-su Phục sinh còn để ý theo sát từng giai đoạn cuộc đời trần gian của tín hữu như :
Sinh ra – cần mạnh khỏe để lớn lên – ăn uống dinh dưỡng nuôi sống thân mình – cưới vợ lấy chồng – những lúc lỗi lầm, vấp ngã – khi tuổi già sức yếu, đau ốm bệnh hoạn – và cuối cùng là cái chết…
Biết như thế nên mỗi giai đoạn chính của cuộc đời ấy, Chúa Giê-su đều ban một phương thế để giúp họ đạt được ơn cứu độ, hay lãnh thêm ơn phúc. Thiên Chúa làm việc gì cũng tận tình, cũng chu đáo!
Những phương thế ấy là các Bí tích.
Tại sao gọi là Bí tích?
“Bí” là nói việc Chúa ban cách “bí nhiệm”, ta không thấy cũng như không cảm giác được. “Tích” là dấu hiệu bề ngoài để chỉ ơn thiêng liêng Chúa ban trong linh hồn.
Có mấy Bí tích?
Cả thảy có Bảy Bí tích.
1) Bí tích Thánh tẩy (TM Mác cô ch.16, c.16; TM Matthêu ch. 28, c.19) – hay nôm na thường gọi là Phép Rửa tội. Khi mới sinh ra cha mẹ sẽ đưa con đến nhà thờ để được nhận Bí tích Thánh tẩy, qua đó một là Chúa tẩy xóa hết tội tổ tông truyền – và nếu là người đã lớn, thì được tha cả các tội riêng mình đã phạm trong đời sống ; nhờ đó, con người được giải thoát khỏi làm nô lệ ma quỷ; hai là Chúa ban ơn thánh sủng cho họ để được tái sinh thành con người mới, được làm con cái Thiên Chúa, và được quyền thừa kế gia sản cùng với Chúa Giê-su (xem trên kia), tức là được hưởng phúc Thiên đàng.
2) Bí tích Thêm sức: Con người, sau khi sinh ra, thì cần mạnh khỏe để lớn lên, cũng vậy sau khi được sinh ra làm con Thiên Chúa bởi Bí tích Thánh tẩy, linh hồn cũng cần được Bí tích Thêm sức, nhờ việc đặt tay và cầu nguyện của Đức Giám mục, mà Thiên Chúa ban sức mạnh linh thiêng của Chúa Thánh Thần (Sách Công vụ ch.8, c.15-17; ch.19, c.5-7) cho tín hữu được lớn lên và trưởng thành trong đời sống Đạo, vững vàng đương đầu với mọi khó khăn và có can đảm làm chứng cho Thiên Chúa giữa thế gian.
3) Bí tích Mình Thánh Chúa:
Phần thân xác con người cần lương thực nuôi dưỡng để sống, thì phần linh hồn cũng vậy, cho nên Chúa Giê-su lấy chính “Thịt Máu thần thiêng vinh hiển” của mình hóa phép cho ẩn dưới tấm bánh và chén rượu (TM Matthêu ch.26.26-28 ; TM Gioan, ch.6, c.51-57) để tín hữu nhận lấy làm lương thực linh thiêng nuôi dưỡng và bổ sức cho linh hồn, hầu đủ sức vượt mọi gian nan thử thách mà đạt tới quê hương Thiên Đàng.
4) Bí tích Giải tội: Sống ở đời ai chẳng có lúc lầm
lỗi, sa ngã… biết vậy nên Chúa Giê-su trao quyền tha tội cho Hội thánh, và Hội thánh ủy thác quyền ấy cho linh mục (TM Matthêu ch.16.19), để xá giải tội lỗi trong linh hồn người tín hữu được trong sạch lại sau khi sa ngã phạm tội, và còn được tăng thêm ơn trợ giúp để thắng các cám dỗ.
5) Bí tích Hôn phối: Là phương thế Chúa ban để thánh hóa hôn nhân, nghĩa là nâng việc lấy vợ lấy chồng lên bậc thánh (Thư Ephêsô ch.5, c.22-32; TM Gioan, ch.2, c.1-11) , chứ không còn chỉ là cuộc hôn nhân bình thường như mọi người. Đồng thời ban cho đôi vợ chồng những ơn trợ giúp riêng để sống bậc phu phụ theo luật Chúa truyền, và để sống trung tín với nhau cho đến lúc tóc bạc răng long, và giáo dục con cái, nhất là giáo hóa đức tin cho chúng.
6) Bí tích Xức dầu (Thư Giacôbê, ch.5, c.14-15): Không ai sống mà không có lúc lâm bệnh, và nhất là chẳng ai sống mãi không chết, nên Chúa Giê-su sai linh mục dùng việc xức dầu thánh và cầu nguyện mà giúp đỡ các người mắc bệnh nặng được những ơn an ủi và sức mạnh trợ lực trong những lúc khó khăn ấy, và nếu đẹp ý Chúa, họ có thể được ơn lành bệnh và khỏe mạnh lại.
Còn khi gặp trường hợp người gần chết thì giúp họ dọn mình chết lành, tức là chết trong khi vẫn giữ tình nghĩa với Chúa, không mắc tội trọng phản nghịch Chúa.
7) Bí tích Truyền chức thánh: Qua đó, Hội thánh nối chí Chúa Giê-su mà chọn những người có đủ điều kiện được làm linh mục, hoặc giám mục (Thư 1 Timôtê ch.3, c.2-13; ch.4, c.14) để trước hết đại diện Hội
Thánh dâng tế lễ (cũng gọi là dâng Thánh Lễ) (TM Luca ch.22, c.19; 1Cr, ch.11, c. 23-26) lên Thiên Chúa mà thờ phượng Ngài, và cầu Ngài tha tội cho nhân loại (TM Matthêu, ch.26, c.26-28), đồng thời xin Ngài ban ơn phúc xuống cho mọi người còn sống hay đã qua đời.
Sau là các vị ấy thay mặt Chúa làm những nhiệm vụ Chúa trao phó sẽ xem dưới đây.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ MƯỜI MỘT
NHIỆM VỤ CỦA HỘI THÁNH
Tiếp tục sứ mệnh của Chúa Cứu Thế: là cứu loài người cho khỏi ách tai ác của tội lỗi, và ban cho họ sự sống trường sinh, Hội thánh, qua các Giám mục và Linh mục, thi hành sứ mệnh ấy bằng ba nhiệm vụ này:
- I) Giảng Đạo Chúa cho mọi người.
- II) Coi sóc và gìn giữ các tín hữu.
III) Phân phát ơn Chúa cho con cái mình.
Chúng ta thử xem lướt qua:
- Nhiệm vụ thứ nhất: Hội thánh rao giảng Đạo Chúa cho mọi người.
Chính Chúa Giê-su phục sinh đã truyền lệnh cho Hội thánh phải thi hành nhiệm vụ quan trọng này:
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.” (TM Mác cô ch.16, c.15-16)
Hội thánh rao giảng Đạo Chúa nhờ rút ra từ Sách Thánh - cũng gọi là Thánh Kinh - trong đó ghi chép và tường thuật Đạo Chúa và các Lời Thiên Chúa phán dạy.
Thánh Kinh gồm hai phần:
- Phần Cựu Ước (Đạo Chúa thời cũ mang tên ông Môsê
- ), được Thiên Chúa soi sáng cho các vị thánh ghi chép, từ 1.500 năm trước Công nguyên;
- Phần Tân Ước (Đạo Chúa thời mới kể từ Đức Giêsu) thì từ Đức Giêsu Ki-tô, thế kỷ thứ nhất Công nguyên, do các môn đệ Ngài ghi chép hay biên soạn.
Thánh Kinh là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa đến nay trên hoàn cầu, vì đã được dịch ra hơn 2.000 ngôn ngữ và in trên mấy tỷ cuốn.
***
Muốn học biết Đạo Chúa thì làm thế nào?
Mời bạn đến gặp các linh mục – nếu e ngại thì nhờ một người quen có đạo giới thiệu – chắc chắn bạn sẽ được ân cần tiếp đón và được chỉ bảo.
Hoặc bạn cũng có thể tiếp xúc với một người tín hữu có đủ khả năng chỉ bảo cho.
Còn một cách nữa: Tìm đọc một cuốn sách giới thiệu hay trình bày Đạo Chúa. Bạn có thể đến tìm ở các tiệm sách Công giáo. Còn chúng tôi mời bạn đọc chính cuốn sách bạn đang cầm tay đây: “Đâu có hạnh phúc thật? Bạn có biết không?”
Muốn vào Đạo Chúa, thì phải làm gì?
Đáp: Bạn có hai việc phải làm:
Một là phải học hỏi giáo lý để hiểu biết và tin yêu tôn thờ Thiên Chúa. Hiện nay, tại các giáo xứ luôn có những lớp dạy Đạo, gọi là lớp “Dự Tòng”, việc học Đạo ở đây có qui củ và đầy đủ. Bạn chỉ cần đến văn phòng của giáo xứ nào gần nhà bạn để đăng ký.
Ở lớp này, các người phụ trách sẽ căn cứ vào sách Thánh Kinh và sách Giáo lý (là sách trình bày tóm tắt Đạo Chúa rút từ Thánh Kinh) mà chỉ bảo cho bạn những điều cần phải biết mà tin, mà thi hành.
Hai là học xong, phải chịu phép Rửa tội. Tức là nghi thức nhập Đạo do Chúa Giê-su lập (TM Matthêu ch. 28, c.19) để được tha mọi tội lỗi, làm cho ta được trở nên con Thiên Chúa và là thành viên của Hội thánh.
Một đề nghị: Tuy vậy tại đây xin đưa ra một gợi ý là: Nếu bạn vì một lẽ gì đó mà hiện tại chưa thể học và gia nhập Đạo ngay được, thì sau khi đã đọc xong tập sách nhỏ này và chấp nhận là đúng, bạn có thể tự đáy lòng nói lên hay tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giê-su Ki-tô Chúa Cứu Thế. Kết quả là bạn được trở thành tín hữu rồi đó! Đây mời bạn nghe lời Chúa hứa:
“Vì tin trong lòng thì được nên công chính, và tuyên xưng nơi miệng thì được ơn cứu rỗi (tức là được tha tội, và được làm con cái Thiên Chúa)… Vì tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát.” (Thư Rôma ch.10, c.10-13) Đạo cốt tại NIỀM TIN trong tâm hồn. Bởi niềm tin trong tâm hồn, bạn đã thuộc về Đạo Chúa rồi vậy.
Ủa! Nghe nói Đức Giê-su đã chịu chết đền tội thay cho cả nhân loại được ơn tha thứ rồi, sao bây giờ lại bảo phải tin mới được?
Để giải đáp, xin lấy ví dụ: Một miền xa xôi hẻo lánh kia, bị hạn hán mất mùa lúa gạo hết sạch, dân chúng bắt đầu chết đói. Nhà vua từ trên Kinh đô nghe biết, thương tình sai lính vất vả vượt đèo lội suối, khuân vác thóc gạo đến chất vào kho lớn, để mở ra phân phát. Ai muốn có thóc gạo mà ăn thì phải đem bị hay rổ rá đến mà xin lãnh.
Thì về ơn cứu độ của Thiên Chúa cũng giống vậy: loài người lâm cảnh chết vì tội lỗi, Thiên Chúa thương tình, từ trời sai Đức Giêsu xuống trần chịu chết đền tội thay cho tất cả, để họ được ơn tha tội và được cứu. Ơn cứu độ lớn lao vĩ đại mà Đức Giê-su đã lập, sẽ được đem chất vào kho chung của Hội thánh, hễ ai muốn, thì phải đến mà xin (ý nói là phải tin) mới lãnh được. Vì con người có tự do, nên không phải ai cũng muốn đâu, cũng có những người không muốn, thì không lãnh được…
Ngoài việc đó, Hội thánh có buộc ta giữ luật gì không?
Có! Hội thánh cũng giống như mọi xã hội, chắc chắn phải có những qui luật.
A- Trước hết là luật của Thiên Chúa:
Tạo dựng nên loài người, Thiên Chúa không muốn để cho họ ở trong cảnh rối loạn vô trật tự mà bị diệt vong. Vì thế, Chúa ban luật, thường gọi là Mười điều răn, Chúa đã truyền cho ông Mô-sê hồi xưa (Sách Xuất hành ch. 20, c.16 đến ch. 20, c.1-17), và được ghi trong sách Thánh kinh, sau lại được Đức Giê-su tái xác nhận và truyền tuân giữ (TM Matthêu ch.5, c.17-19; ch.19, c.16-19).
- Thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
- Thứ hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ.
- Thứ ba: Giữ ngày Chúa nhật.
- Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ.
- Thứ năm: Chớ giết người.
- Thứ sáu: Chớ làm sự dâm dục.
- Thứ bảy: Chớ lấy của người.
- Thứ tám: Chớ làm chứng dối.
- Thứ chín: Chớ muốn vợ chồng người.
- Thứ mười: Chớ tham của người.
Ÿ Mười điều răn ấy tóm lại hai điều này:
Kính mến Chúa trên hết mọi sự,
và yêu người như mình ta vậy.
B- Sau là Luật của Hội thánh đặt ra Sáu điều để giúp ta sống tốt chức phận con cái Chúa.
- Thứ nhất: Dự Thánh lễ ngày Chúa nhật cùng các ngày Lễ buộc.
- Thứ hai: Nghỉ làm việc xác ngày Chúa nhật cùng các ngày Lễ buộc.
- Thứ ba: Xưng tội trong một năm ít là một lần.
- Thứ bốn: Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục sinh.
- Thứ năm: Giữ chay những ngày Hội thánh buộc.
- Thứ sáu: Kiêng thịt ngày thứ Sáu cùng các ngày khác Hội thánh dạy.
Trên kia có nói: Tin Thiên Chúa là đủ được cứu rỗi, sao Điều răn lại bảo phải mến Chúa nữa?
Khi nói vắn tắt, thì nói: Tin là đủ, vì hiểu ngầm tin tự nó luôn bao hàm lòng yêu mến, còn bình thường thì tin mà thôi chưa đủ, cần phải yêu mến và giữ lề luật Chúa nữa.
Cũng như trong gia đình, người con không những phải tin tưởng ở cha mẹ mà còn phải yêu mến và vâng lời cha mẹ.
Mười điều răn ấy tóm lại hai điều, mà tôi chỉ giữ một thôi có đủ để được lên Thiên Đàng chăng?
Không được. Vì Thiên Chúa buộc phải giữ hai điều “Mến Chúa và yêu người”, cả hai đều quan trọng (Tm Matthêu ch.22, c.35-40).
Chúa là Chủ tể, thì mến Chúa là đủ, việc gì còn phải yêu người?
Không được. Có Lời Chúa dạy rằng: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng phải yêu thương những kẻ được Thiên Chúa sinh dựng nên. (Thư 1 Gio-an ch. 5, c.1) Chẳng phải người Việt ta vẫn thường nói :
Yêu nhau yêu cả đường đi,
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.
Chưa hết, về luật yêu thương mọi người, thì Chúa còn dạy phải yêu thương ngay cả kẻ thù (TM Matthêu ch. 5, c.43), như vậy ta mới xứng đáng làm con Thiên Chúa, vì giống Thiên Chúa, “cha nào con nấy”, mà Thiên Chúa yêu thương mọi người người tốt cũng như người xấu, không phân biệt đối xử: “Ngài cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ cũng như trên người lành, và làm mưa rơi xuống trên người ngay cũng như kẻ ác” (TM Matthêu ch. 5, c.45)
Chẳng phải Chúa bảo: Hễ làm gì cho người ta, dù là kẻ nhỏ hèn, cũng là làm cho chính Chúa, vậy tôi yêu người thì thôi khỏi cần mến Chúa?
Cũng không được. Như con chim muốn bay vút lên cao, phải có hai cánh và hai cánh dài bằng nhau. Linh hồn muốn bay lên cùng Chúa phải có hai cánh, là mến Chúa hết lòng và yêu người ta như chính mình; và hai cánh đó phải dài bằng nhau, nghĩa là hai sự yêu thương ấy đều phải coi trọng như nhau.
- II) Nhiệm vụ thứ hai: Hội thánh coi sóc và gìn giữ các tín hữu.
Chúng ta đã xem trên kia Chúa Giê-su thiết lập Bí tích Truyền chức thánh để chọn những người làm Giám mục và Linh mục cho làm những nhiệm vụ Ngài giao phó, thì đây là nhiệm vụ thứ hai: các vị sẽ làm những mục tử coi sóc các việc linh hồn của giáo dân (Thư 1 Phêrô ch. 5, c.2-3), dạy dỗ và gìn giữ không để họ đi lạc ra ngoài đường lối và giáo huấn của Chúa. (Thư 2 Timôtê ch.4, c.1-5)
Vì hiện nay rất nhiều tà thuyết sai lầm nổi lên, nhiều khi chúng mặc những hình thức tinh vi, dùng những lời lẽ rất đạo đức hấp dẫn lôi cuốn, nhưng bên trong ngầm chứa những sai lầm nghiêm trọng, chung chung giáo dân không đủ trình độ phân biệt, nên dễ bị dụ dỗ đi theo.
Vì thế mà Chúa đã phải cảnh báo: “Chúng là sói dữ tham mồi song đội lốt chiên hiền lành.” (TM Matthêu ch 7, c.15)
III) Nhiệm vụ thứ ba: Hội thánh phân phát ơn Chúa cho con cái.
Để hiểu, ta hãy đặt câu hỏi: Bởi sức riêng, ta có thể được cứu rỗi và lên Thiên đàng được chăng?
Thưa: Chẳng được, phải có ơn Chúa giúp mới được, vì được cứu rỗi và lên Thiên đàng là những điều vượt phạm vi và khả năng nhân loại. Nói khác đi, đó là những việc của Trời. Làm sao sức hèn người trần có thể thực hiện nổi.
Vậy Ơn Chúa là gì?
Ơn Chúa là quà tặng của Thiên Chúa, ban cho linh hồn người tín hữu một tiềm lực linh thiêng để tăng cường sự yếu đuối của linh hồn họ.
Ơn Chúa chia làm mấy thứ?
Hai thứ: Một là ơn Thánh sủng, hai là ơn Trợ giúp.
1) Ơn Thánh sủng là ơn linh thiêng Chúa ban lâu bền trong linh hồn ta, để giải thoát ta khỏi tội và làm cho ta thông phần sự sống thần linh của Thiên Chúa (Thư 2 Phêrô ch 2, c.4), nhờ đó ta trở nên con cái nghĩa thiết với Chúa ở đời này, và ngày sau được nhìn thấy Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc ở với Ngài trên Thiên đàng.
- Còn ơn Trợ giúp cũng là ơn linh thiêng Chúa ban song ban tùy nhu cầu, tùy lúc, để tăng thêm sức lực cho ta duy trì và phát triển sự sống thần linh nói trên, cách riêng giúp ta chống trả các chước cám dỗ xấu xa của ma quỉ, của thế gian và của xác thịt lôi cuốn ta phạm tội, và giúp ta được có đủ sức làm các việc tốt lành hầu xứng đáng hưởng hạnh phúc về sau trên Thiên Đàng.
Thiên Chúa có thể ban trực tiếp ơn sủng cho con người, nhưng bình thường Ngài ban qua trung gian của Hội thánh, vì thế mới nói : Hội thánh phân phát ơn Chúa.
Muốn được ơn Chúa phải làm gì?
Phải làm hai điều này:
Một: Lãnh CÁC BÍ TÍCH
Đã xem ở phần trên
Hai: CẦU NGUYỆN
Việc đọc kinh cầu nguyện là phương thế thứ hai để đem ơn Chúa đến với ta.
Đọc kinh cầu nguyện là ta nhấc lòng trí lên khỏi những lo toan trần tục để giao tiếp với Thiên Chúa. Đó là một cuộc đàm đạo thân mật, là thưa chuyện thân tình với Ngài. Vì thế việc cầu nguyện không phải là một việc nói ngoài môi miệng, cho bằng việc của trái tim, vậy là cầu nguyện bằng trái tim. Trái tim vốn là biểu hiệu của tình yêu, vì vậy có thể tóm tắt việc cầu nguyện đó bằng hai câu này: cầu nguyện “Vì tình yêu” và “Với tình yêu”.
Trước hết, “vì tình yêu” nghĩa là “vì yêu Chúa” mà cầu nguyện chứ không phải vì luật buộc, vì bổn phận, vì miễn cưỡng…;
Rồi đang khi cầu nguyện thì làm “với tình yêu” nghĩa là cầu nguyện “với lòng yêu Chúa”, chứ không phải cầu nguyện cách máy móc, chiếu lệ, làm cho xong, đang khi lòng trí thì lo ra đủ thứ chuyện…
Có lẽ lúc đầu bạn chưa quen cầu nguyện như thế, cho nên để giúp bạn, ở cuối sách này, có chép một vài Kinh cầu nguyện thường quen trong Đạo. Đừng học thuộc lòng bởi vì học thuộc lòng riết rồi thành nhàm, và thế là bạn sẽ đọc kinh cách vô hồn như cái máy. Trái lại, bạn sẽ nhờ những câu kinh đó như những gợi ý để từ lòng bạn có thể phát xuất ra cách hồn nhiên những lời nói thân thương với Chúa.
Đọc kinh cầu nguyện có là chuyện cần không?
Rất cần! Giống như hơi thở cần cho sự sống vậy, chỉ ngưng thở 2 phút là chết. Vì thế, Chúa Giê-su đã dạy: “Các con hãy cầu nguyện luôn luôn…”.
Rất cần còn vì bản thân con người yếu đuối dễ nghiêng chiều theo sự xấu. Nên Chúa Giê-su dạy: “Hãy cầu nguyện cho khỏi sa chước cám dỗ”.
Rất cần cầu nguyện còn vì sống Đạo Chúa, ta gặp nhiều kẻ thù!
Cách riêng 3 loại kẻ thù này:
Một loại ở ngay trong mình ta, khác nào sâu bọ ở trong ruột cây, nếu không dùng thuốc đặc trị giết đi thì nó đục khoét ăn hết nhựa và làm đổ cây mất. Loại sâu bọ trong tâm con người chính là các tính mê nết xấu, các dục vọng đê hèn của xác thịt.
Loại kẻ thù thứ hai ví như các chứng ngoại cảm do thời tiết, ý muốn nói về những trào lưu của thế tục nổi lên dụ dỗ, lôi cuốn vào sai lầm, vào ăn chơi trụy lạc, sa đọa, giết hại tâm hồn con người.
Loại kẻ thù thứ ba ví như kẻ cướp đường, đó là Satan và ác quỷ, là những tà thần thù nghịch ghen ghét con người, ngày đêm rình rập (Thư 1 Phêrô ch. 5, c.8) và không ngừng tìm trăm mưu nghìn kế để ám hại con người.
Nói tóm ba thù đó là: ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Có nhiều ma quỷ không?
Có rất nhiều vô vàn vô số, ta không biết là bao nhiêu.
Ma quỉ có hồn và xác chăng?
Chúng không phải là người nên không có hồn, không có xác. Như đã biết, đầu tiên chúng là các thiên thần được dựng nên sáng láng tốt lành, sau đó phản nghịch chống Thiên Chúa nên bị phạt trở thành quỷ, nhưng chúng vẫn không mất bản chất thuần thiêng, và những đặc tính vốn có.
Ma quỷ có mạnh hơn ta chăng?
Ma quỷ vốn là thần linh được dựng nên trong cấp bậc cao hơn loài người, nên có sức mạnh và thông minh hơn chúng ta.
Mà vì chúng là thần linh và thông minh hơn loài người bội phần, nên chúng len lỏi được khắp nơi, dò biết được nhiều điều kín ẩn bí mật, thấy trước được một số biến cố sẽ xảy ra…, nhờ đó chúng dùng những thầy bói – tay sai của chúng – tiết lộ những điều bí ẩn ấy, làm cho những người đi coi bói tin cách ngây thơ rằng thầy bói ấy “linh lắm” nói cái gì cũng trúng. Như vậy có thể nói : đi coi thầy bói, tướng số v.v… thực tế là giao thông với ma quỷ.
Tại sao Satan ác quỷ mưu hại loài người?
Vì nó ganh ghét, không muốn cho con người là loài thấp hèn hơn nó được làm con cái Chúa, và hưởng những phúc lộc mà nó đã đánh mất. Satan không làm gì được Thiên Chúa, nhưng nó tìm cách xúi giục loài người phản bội với Chúa để phải chết đời đời như nó. Sách Đạo Chúa xác nhận điều ấy:
“Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian.” (Sách Khôn ngoan ch.2, c.24)
Chưa hết, nó luôn tìm cách phá hủy mọi sự tốt lành, phá hủy hôn nhân, gia đình, đảo lộn trật tự xã hội và thế giới, gây chiến tranh, và nếu có thể còn muốn phá tan hành tinh này của chúng ta đang sống nữa. Người nào nghe theo và mắc mưu Satan là đi đến chỗ tự hại mình và sẽ phải cùng trầm luân khổ cực với nó đời đời kiếp kiếp trong hỏa ngục.
Những người lương thường cúng bái ma quỷ, thì có được che chở gì chăng?
Trước hết, nên nhớ rằng: Ma quỷ bản chất thuần linh, không có xác, không thể ăn uống vật gì, nên cúng bái cũng vô ích.
Nhưng đó lại là một việc làm rất nguy hiểm, vì chẳng khác gì bái phục chúng làm chủ của mình, tuy có khi được chúng cho người tin chúng hưởng vài điều họ mong ước, nhưng đừng dại, miếng đó chỉ là những mồi nhử, vì chúng luôn ghen ghét ta (Sách Khôn ngoan ch.2, c.24 ; Sách Sáng thế ch.3.), thì làm sao chúng lại muốn tốt cho ta được, rốt cuộc chúng sẽ làm ta khốn khổ mọi đàng.
Vậy phải làm thế nào cho khỏi ma quỷ làm hại?
Thiên Chúa là Đấng chủ tể toàn năng, hằng bênh vực phù hộ loài người, cách riêng những ai tin vào Ngài và là con cái Ngài. Vậy phương thế để tránh khỏi ma quỷ làm hại là tin vào Thiên Chúa, chịu phép Rửa tội và cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp.
Ma quỷ có thể bắt một người đã chịu phép Rửa tội được chăng?
Không thể được, vì người ấy đã thuộc về Chúa rồi (Thư 1 Gioan ch.5, c.18-19), sách Đạo Chúa xác nhận: “Tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần. Còn ta (những kẻ tin và chịu phép Rửa tội thì) thuộc về Thiên Chúa và được Con Thiên Chúa giữ gìn, nên Ác thần không đụng đến ta được!” [Thư 1 Gioan ch. 5, c.18-19 (chúng tôi đảo lộn trật tự của hai câu này)]
Được Chúa giữ gìn là vì họ có một dấu ấn linh thiêng của Chúa in trong hồn (Thư 2 Corintô ch.1, c.22; Thư Êphêsô ch.1, c.3; ch.4, c.30 – Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 698; 1121; 1273), trừ phi người đó chối đạo, bỏ Thiên Chúa.
Ngoài ma quỷ, con người còn có hai kẻ thù nữa là thế gian hiểm ác và xác thịt hư hèn, làm sao đối phó?
Phải tu thân, phản tỉnh và cầu khẩn:
- Tu thân là vận dụng ý chí mà Trời cho ta để sửa trị đam mê dục vọng xấu của xác thịt ươn hèn, giống như diệt trừ những sâu bọ đục khoét trong mình.
Người xưa đã nói: “Từ vua quan trên cao cho chí thứ dân dưới thấp, ai ai cũng phải lấy việc tu thân sửa tánh làm căn cốt cuộc đời” (Thư 2 Corintô ch.1, c.22; Thư Êphêsô ch.1, c.3; ch.4, c.30 – Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 698; 1121; 1273)
Tục ngữ có câu:
“Cứ giúp mình, rồi Trời sẽ giúp cho”, tức là phần ta phải nỗ lực hết sức rồi Trời sẽ giúp ta, Trời không dung túng kẻ làm biếng.
- Phản tỉnh là nhờ học hỏi Đạo Chúa, nhất là học hỏi ở Sách Thánh Lời Chúa như Kim chỉ nam, bảo cho mình biết tỉnh táo đề phòng, tránh xa những cạm bẫy của tà ma ác quỷ và những quyến rũ do người thế tục xấu xa bày ra để lôi cuốn mình vào tội lỗi.
Ca dao có câu:
“Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chỗ ô đồ mới khôn”.
- c) Cầu khẩn là cầu nguyện van xin, là kêu cứu kịp thời để Chúa giúp ơn giúp sức mà thắng các thế lực hắc ám và Satan ác quỷ, chúng dù mạnh mẽ và tinh khôn hơn ta, cũng không làm hại ta được.
Ta cũng phải cầu cùng Thiên thần Hộ thủ – mà Chúa lòng lành vô cùng đã từ trời sai đến để đêm ngày gìn giữ và bảo vệ mỗi người chúng ta – xin ngài giúp cho.
Có ai thắng được Satan ác quỷ chưa? Làm sao biết đã thắng?
Có đấy. Các bậc thánh nhân lấy Đạo Chúa làm lẽ sống, khi tu thân lập đức thành công là thắng cuộc rồi. Những người khôn ngoan bền chí, quyết giữ đạo Chúa dù chết cũng không bỏ, thế cũng đã thắng được áp lực của Satan, vì nó muốn cướp lòng trung thành của họ đối với Chúa, mà không cướp được, tức là nó bại.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ MƯỜI HAI
NHỮNG THẮC MẮC VÀ CHƯỚNG NGẠI
1/ Sống Đạo Chúa có khó không?
Nhiều người đồn rằng theo đạo Chúa khó quá! Dễ hay khó là tại mỗi người – e ngại, rụt rè thì cho là khó; can đảm, cương quyết thì không khó nữa.
“Đường đi khó không vì ngăn sông cách núi,
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.”
(Nguyễn Bá Học)
Đã đành sống Đạo Chúa là làm theo những điều Chúa dạy, giữ những luật Chúa truyền, tránh điều dữ, làm điều lành…, thì chẳng khác gì leo lên dốc, hay bơi lội ngược dòng, bao giờ cũng khó nhọc.
Nhưng chắc bạn dư biết, qua kinh nghiệm, là bản tính loài người thường dễ nghiêng chiều về những điều xấu xa, vậy nếu Đạo Chúa đưa ra những luật lệ, những việc phải thi hành, cốt để vực dậy hay để ngăn chận tâm hồn ta khỏi sa đà, chẳng phải đó là việc trợ giúp tốt và cần cho ta hay sao?
Chẳng lẽ ta lại từ chối một ai đó muốn tốt cho ta? Chẳng lẽ ta nhẫn tâm gạt bỏ một điều hữu ích, có lợi cho ta và nhất là rất cần cho ta?
Vả lại có khó mà làm được mới đáng công, đáng thưởng, chẳng có chiến binh nào được thưởng huy chương chiến thắng mà đã không phải chiến đấu có khi đến đổ máu? Có hy sinh mà làm điều lành, khi thấy kết quả, mới được an vui hạnh phúc.
Vậy bạn hãy mạnh dạn dấn bước. “Vạn sự khởi đầu nan”, nhưng rồi dần quen bạn sẽ không thấy khó mấy nữa.
Và bạn nên biết rằng: Thiện chí muốn theo Chúa của bạn, chắc chắn Thiên Chúa thấy và sẽ nâng đỡ ủi an.
*
2/ Có người biết Đạo Chúa là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, hay vì còn muốn sống tự do phóng túng, nên chưa muốn vào Đạo Chúa, nghĩ thế có được không?
Đạo Chúa là tối quan trọng đối với vận mạng đời người, sao lại khinh xuất như thế được. Bận sinh kế ư? Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chứ có phải là cứu cánh của đời người đâu. Dù ở đâu, đi đâu, làm gì, dù bận rộn tối ngày, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời mà sống, mà hoạt động (Sách Công vụ ch. 17, c.25,28) như cá sống trong nước vậy. Làm nên được gì cũng là do Trời phù giúp, “mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”, sao ta lại lơ là với Trời vị đại ân nhân của ta? Và sao chẳng biết rằng mọi sự vật ở đời này thì chỉ như:
Mây tán, tuyết tan,
Hoa tàn, nguyệt khuyết,
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết.
Chỉ việc lành, dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết.
- Còn nếu vì muốn sống tự do phóng túng, bất chấp tiếng gọi của lương tâm, tức là người ta tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm luôn luôn, vì không ai biết mình chết lúc nào, đúng như người xưa thường nói: “Sinh thì có lúc, chết thì không biết xảy ra khi nào” (“Sinh hữu kỳ, tử bất định”).
Đến giờ Chúa định chúng ta sẽ chết, vì Chúa là chủ:
“Sống chết có mạng Trời, sang hèn là tùy Trời đoán định” (“Sanh tử hữu mạng, phú quý tại Thiên”).
Mạng Trời thì nào ai biết được! Nhưng chết rồi sẽ được Trời thưởng hay bị phạt? Cái đó mới quan trọng. Mà nếu đã lơ là thì lúc ấy hối cũng không kịp.
Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công, Trời sẽ giúp cho,
Đạo Trời gây dựng cơ đồ mai sau.
3/ Nghe nói Ông Giê-su là Thiên Chúa xuống thế truyền Đạo trời. Nhưng đó là chuyện hoang đường do người bên Tây bịa đặt ra chứ Ông ấy không có thật!
Trên kia có lần chúng tôi đã nói, người Tây phương không thể bịa ra chuyện Chúa Giê-su, họ cũng chỉ là dân tộc đã được nghe truyền Đạo Chúa và tin trước ta, rồi khi họ sang nước ta thì truyền Đạo Chúa lại cho ta.
Gốc của Đạo Chúa chính thức là từ các môn đệ Chúa Giê-su, họ là những người thuộc dân tộc Do thái ở nước Pha-lê-tin, họ đã sống với Chúa Giê-su ba năm, đã nghe Ngài giảng đạo, đã thấy và đã sờ đụng tới con người bằng xương bằng thịt của Ngài (Thư 1 Gioan ch. 1, c.1-4; Thư Hipri ch. 2, c.11-14), đã ăn uống cùng Ngài (Sách Công vụ ch.1, c.4; ch.10, c.41), đã thấy Ngài chịu chết đóng đinh trên thập tự giá, nhất là đã thấy Ngài sống lại (TM Matthêu ch. 28, c.16-20; TM Luca ch.24, c.36-43 ; TM Gioan ch.20, c.19-23) và lên trời trước mắt mình, (Sách Công vụ, ch. 1, c.9-11) vì “chẳng có ai đã có thể (tự mình) lên trời nếu chẳng phải là Đấng đã từ trời xuống.” (TM Gioan ch.3, c.13)
Nhờ được trải qua những kinh nghiệm cụ thể, thực tế, sống động ấy, họ đã tin Ngài là Thiên Chúa. Và họ đã làm chứng Ngài vừa là Thiên Chúa đồng thời cũng là một nhân vật bằng xương bằng thịt có thật trong lịch sử.
Có những người trong họ đã ghi chép lại cuộc đời Ngài, lời giảng và các hoạt động của Ngài cũng như chứng từ của họ trong các sách Tin Mừng, hay Tân Ước nói chung.
Nhưng độc đáo nhất là không chỉ họ là các môn đệ làm chứng, mà ngay cả mấy sử gia danh tiếng ngoại giáo đồng thời cũng làm chứng về Đức Giê-su có thật (Ngoài bằng chứng của các môn đệ Chúa, các sử gia danh tiếng ngoại giáo sống đồng thời với Đức Giêsu, tuy không tin Ngài, song vẫn xác nhận Ngài là một con người lịch sử đã sống trên mặt đất này tại nước Do thái. Đây xin nêu tên vài sử gia ấy : Flavius Josephus, người Do Thái (37-100): Sách “Cổ sử Do Thái”, quyển 18 và 20, chương 9; Tacitus, người La Mã (55-120): “Sử Biên”, quyển 15, chương 4; Suetonius (69-152) : “Đời sống của 12 ông Hoàng đế”, đời ông Claudius 25 và đời ông Nêrô 16.; Plinius Secundus và mấy tác giả nữa, cả thảy 9 người…)
Các môn đệ không chỉ làm chứng trước dân chúng mà thôi, họ còn dám làm chứng trước mặt những vua chúa quan quyền ghét đạo, trước đây đã ghét Đức Giê-su và giết Ngài, nay lại cấm các môn đệ của Ngài không được rao truyền về Ngài và Đạo của Ngài nữa… (Sách Công vụ, ch. 4, c.2-3,18) Nhưng họ cứ làm chứng, dù bị đánh đòn (Sách Công vụ, ch. 5, c.40), bị giam tù và giết chết (Sách Công vụ ch. 7, c.58; ch. 12, c.2). Họ tuyên bố trước mặt những người ấy: “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra.” (Sách Công vụ ch. 4, c.20)
Nếu Đức Giê-su không là một người có thật, thì chẳng ai dại đem mạng sống mình làm chứng cho một chuyện bịa đặt.
*
4/ Có người nghĩ đạo nào cũng như đạo nào, đều dạy người ta ăn ngay ở lành, thì cần gì phải bỏ đạo mình theo Đạo Chúa?
Nghĩ thế không chỉnh. Nên biết, Đạo có hai phần: Phần giáo lý và phần luân lý. Nếu chỉ nhìn phần luân lý là dạy những việc ăn ngay ở lành, cấm trộm cướp, giết người, tránh tà dâm v.v… thì có thể nói “đạo nào cũng như đạo nào” đều dạy giống nhau; nhưng nếu xét đến phần giáo lý thì Đạo Chúa khác xa tất cả các đạo khác, vì dạy cho người ta biết:
a/ Thiên Chúa chân thật thì độc nhất chỉ có một mình Ngài (Thư 1 Corintô ch.8, c.4-6 ; Sách tiên tri Isaia ch.45, c.21-22), ngoài Ngài ra chẳng có thần nào hết, các ngẫu tượng là do tay loài người tạo ra, các ông thần bà chúa là do dân chúng phong cho làm thần làm thánh, chứ bản chất không thật là thế. (Thư 1 Corintô ch.8, c.4-6 ; Sách tiên tri Isaia ch.40, c.18-20; ch.44, c.12-20)
b/ Và Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất (Sách Công vụ ch. 4, c.12), và do Ngài từ trời xuống lập đạo thì chỉ Ngài mới có khả năng đưa người ta về trời được mà thôi.
c/ Còn dạy cho biết cách sống thân tình thiết nghĩa với Thiên Chúa như con cái với Cha mình vậy.
Giáo lý tuyệt vời đó do chính Thiên Chúa trên trời truyền dạy, không đạo nào do người phàm lập ra có thể dạy được.
*
5/ Theo Đạo Chúa, có phải là bỏ tổ tiên ông bà không?
Không. Sở dĩ trong dân gian vẫn chuyền miệng nhau câu: “Theo đạo là bỏ ông bà”, là vì người ta tin rằng “trần sao, âm vậy”, cho nên tổ tiên ông bà chết rồi ở bên kia thế giới cần đơm cúng đồ ăn thức uống, mà theo Đạo Chúa thì không được làm việc ấy, vậy là bỏ ông bà phải đói khát. Vì thế mà có người tuy mến Đạo Chúa, vẫn không trở lại đạo.
Thực ra theo Đạo Chúa chỉ thôi đơm cúng chứ đâu có bỏ quên tổ tiên ông bà. Thôi đơm cúng, vì đó là việc không ích lợi cho tổ tiên ông bà: chết rồi, thân xác ông bà cha mẹ nằm dưới mồ, miệng lưỡi bụng dạ cũng không còn, chỉ còn lại một nắm xương dần tan thành bụi đất, phần xác không còn làm sao ăn uống gì được nữa. Chỉ còn hồn thiêng tồn tại đúng như sách có câu: “Chết là thể xác, còn là tinh anh”, mà hồn là tinh anh, là linh, có tính linh thiêng nên chẳng cần của ăn thức uống, đồ dùng vật chất.
Thay vào đó, Đạo Chúa dạy thi hành những việc hiếu nghĩa cao quý và ích lợi thực tế hơn cho tổ tiên ông bà. Đó là:
1) Xác thì chôn ở đất thánh, cách tôn trọng, mồ mả được giữ gìn tử tế; ngày nay có tục hỏa táng, lấy tro cốt đem về kính cẩn gửi tại nhà Hài cốt của Xứ đạo, vì gần gũi nên rất tiện cho con cháu đến thăm viếng.
2) Còn hồn thì con cháu dâng Thánh lễ, lần chuỗi, kinh nguyện, dâng hy sinh hãm mình v.v… để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đã quá cố được mau siêu thoát khỏi nơi luyện tội, mà chóng được về Thiên Đàng hưởng phúc. Giống như ở đời, nếu ông bà cha mẹ phải tù tội, con cháu cố gắng chạy chọt gánh đỡ, đền thay.
3) Ngoài ra, các ngày kỷ niệm, tuần ba, tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm hay giỗ đầu, giỗ năm của ông bà cha mẹ, thì gia đình hay con cháu dâng Thánh Lễ, hay họp nhau cầu nguyện cho các ngài trước Bàn thờ. Xét như thế, thì theo Đạo Chúa, con cháu rất là hiếu nghĩa với tổ tiên ông bà.
4) Chưa hết, tổ tiên ông bà lại được toàn thể đạo hữu trong Hội thánh cầu thay nguyện giúp hàng ngày trong Thánh lễ. Mỗi năm lại có một tháng, gọi là “Tháng các linh hồn” (tháng 11 dương lịch), để mọi người thân cũng như sơ, chuyên chú cầu nguyện tỏ lòng nhớ ơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên ông bà cha mẹ đã quá cố.
5) Đạo Chúa có một niềm tin về sự “Các thánh thông công” (Nghĩa là người đã được phúc về trời, người có đạo còn ở dưới thế, hay đang phải đền tội trong luyện ngục, đều có thể giao tiếp liên lạc với nhau, giúp đỡ nhau.), nên đã dạy rằng: Ông bà cha mẹ qua đời, vẫn có thể thông công với con cháu luôn luôn. Vì tin rằng chết không phải là hết, song là sang một cuộc sống khác [“Đời sống đổi thay chứ không mất đi.” (Kinh Tiền Tụng Thánh Thể)]: hoặc được về cùng Chúa trên Thiên Đàng, hay nếu còn mắc đền tội ít lâu ở dưới Luyện ngục, cho nên các ngài vẫn sống tuy trong một thế giới khác, vì thế các ngài và con cháu vẫn có thể liên lạc với nhau: các ngài vẫn có thể lưu tâm đến đời sống con cháu nơi trần gian và hằng cầu xin với Chúa cho chúng. Còn con cháu vẫn có thể tâm sự với ông bà cha mẹ đã quá vãng, kể lể nỗi niềm, chuyện vui chuyện buồn, và khi gặp khó thì xin các ngài cầu nguyện với Chúa cứu giúp cho mình.
6) Có người sợ: Theo Đạo Chúa, là bất trung với tổ tiên đã bao nhiêu đời thờ Phật. Trái lại mới đúng, vì sau khi tạ thế, các ngài nhìn rõ đâu là Đạo thật, cho nên thấy con cháu theo Chánh Đạo các ngài rất vui lòng.
7) Xưa, các vị cầm đầu trong Đạo Chúa thấy những việc đơm cúng, đốt vàng mã… là những việc mê tín dị đoan nên đã tưởng lầm mà cấm việc thờ tổ tiên ông bà, nay đã phân biệt rõ phần nào là việc hiếu nghĩa, phần nào là mê tín dị đoan, nên cho phép lập Bàn Kính Nhớ Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã quá cố để tỏ lòng hiếu thảo, song phải đặt dưới Bàn thờ Chúa (xem hình). Cũng được đốt hương, dâng hoa nến, bánh trái để xin Tổ tiên ông bà chứng giám cho lòng thành của con cháu tưởng niệm nhớ công ơn các ngài.
Chỉ cấm những việc như đơm cúng của ăn thức uống cho ông bà về ăn, dâng đồ dùng và đốt vàng mã v.v… vì cho rằng những việc đó là sai giáo lý, lại còn tốn kém và vô ích như trên đã nói, bởi chết rồi ở bên kia thế giới, các ngài không cần đến đồ ăn thức uống, đồ dùng vật chất nữa.
6/ Trường hợp ông bà, cha mẹ còn sống không bằng lòng cho con cháu theo Đạo Chúa thì sao?
Khi cha mẹ dạy một điều phải mà mình không tuân phục, là có tội, vì phạm điều răn thứ tư Chúa dạy con cái phải thảo hiếu với cha mẹ. Đó là nói khi cha mẹ dạy một điều phải, vì cha mẹ được Chúa ủy thác cho quyền đại diện Chúa giáo dục con cái. Còn khi cha mẹ dạy điều gì trái hay sai lề luật Chúa, lúc đó cha mẹ lạm quyền, nên con cái không buộc vâng lời. Ví dụ: Khi cha mẹ dạy nói láo, đi ăn cắp, buôn bán đồ giả, hay đánh đập người ta v.v... thì con cái không nên vâng lời, vì đó là những điều xấu và cũng là những điều Chúa cấm.
Ngược lại, khi ông bà, cha mẹ cấm làm một việc mà Chúa buộc làm: như Chúa buộc giữ đạo làm tôi thờ phượng Chúa, ông bà cha mẹ vì không biết mà ngăn cấm con cháu, trong trường hợp ấy con cái không buộc vâng lời, vì phải kính phục Chúa là Đấng lớn hơn ông bà cha mẹ, vốn chỉ là thụ tạo của Chúa.
Tuy phải hết sức nương chiều ý các ngài, nhưng không vì thế mà đến nỗi con cháu phải “bỏ” việc trở lại với Thiên Chúa, vì Chúa đáng cho ta tôn thờ, yêu mến và tuân phục hơn gấp trăm ông bà cha mẹ thế gian, bởi lẽ: Không có Chúa Trời thì làm gì có ông bà cha mẹ, vì chính ông bà cha mẹ cũng nhờ Chúa Trời sinh ra nuôi dưỡng, cũng do Chúa Trời đặt vào trần gian trong cái vũ trụ này, cho hưởng một cuộc sống dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng phải từ giã cõi trần mà về nguồn cội của mình: “Sinh ký, tử qui” sống gửi, thác về là thế!
Vả lại, chính đức hiếu với ông bà cha mẹ cũng là do Chúa Trời in vào lòng ta, và còn ra luật buộc (Điều răn thứ bốn), cho nên việc hiếu nghĩa cũng phải theo cách Chúa Trời sắp đặt, vì vậy việc hiếu nghĩa không nên dừng lại ở Tổ tiên, ông bà, cha mẹ mà phải lên cao hơn nữa, đến tận Chúa Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, đích đáng, vì “Chúa Trời mới là Gốc Tổ mọi loài” (Thiên vi vạn vật chi tổ), còn Tổ Tiên ông bà cha mẹ chỉ là những móc xích trung gian truyền sự sống đến con cháu mà thôi. Phận con cháu nhớ công ơn cúc dục cù lao, nuôi nấng dạy dỗ của các ngài là điều chính đáng phải đạo, song không nên dừng lại ở đấy.
Đó là nói theo giáo lý Đạo Chúa, còn theo luân lý đạo hiếu Á Đông, thì phải xử sự thế nào?
Phải cư xử khéo léo, mềm dẻo và uyển chuyển hơn: Không nên cứng cỏi bất chấp sự ngăn cấm của ông bà cha mẹ, mà cứ ra mặt tỏ tường theo Đạo.
Trong tình thế gay cấn ấy, tạm thời chỉ cần tin trong lòng là đủ vì Đạo Chúa cốt tủy là lòng tin [TM Gioan ch.3, c.16; ch.5, c,24; Thư Rôma ch.3, c.28-30; ch. 10, c.10-13] (trên kia đã nói), những việc hay những nghi lễ hình thức bên ngoài tuy cần thiết song vẫn là phụ.
Đang khi đó con cháu vẫn cứ một lòng tôn trọng quý mến và ra sức thảo hiếu hơn… đối với ông bà cha mẹ. Đồng thời hãy lấy lời lẽ khiêm cung và rành rẽ mà cố thuyết phục, để các ngài đồng ý cho mình theo Đạo Chúa. Nếu chẳng may ông bà cha mẹ quyết không nghe, thì ta dùng những lời cầu nguyện, những việc hy sinh dâng lên Chúa mà xin Chúa ban ơn uốn lòng các ngài… Trong khi ấy càng gia tăng cử chỉ con hiền cháu thảo. Rất nhiều khi đành phải chờ đợi đến khi các ngài khuất bóng, mình mới được thong dong theo Đạo Chúa.p
7/ Có nên mong cả gia đình cùng giữ Đạo Chúa không?
Được như thế thì còn gì bằng: cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng đi một đàng, cùng về một nẻo, đồng tâm nhất trí với nhau nên hòa thuận vui vẻ hơn. Giống như người ta thường nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”.
*
8/ Có nên đợi gần chết mới nhập đạo không?
Không nên tí nào:
- Vì như thế là bội bạc: Thiên Chúa dủ lòng thương kêu gọi vào đường hạnh phúc, thế mà mình lại dám trùng trình như không thèm lãnh ơn Trời;
- Như thế là vô lễ: Vì để gần chết mới vào đạo thì như muốn chỉ dành một chút hơi thừa cho Thiên Chúa, miễn là mình cướp giật được cõi phúc;
- Như thế cũng là nguy hiểm: Vì nếu không may mà chết bất ưng không kịp theo Chúa thì sẽ khốn đời đời.
*
9/ Thấy có người đang giữ đạo tự nhiên, hay đạo Ông bà, ăn ngay ở lành, có danh thơm tiếng tốt, mà khi gặp Đạo Trời, lại bỏ đạo tự nhiên để theo, tại sao vậy?
Vì đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai, thô thiển còn thiếu sót. Vì thế khi người thiện tâm gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn hảo thì không thể không theo.
Đức Giê-su đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá, ai là người khôn ngoan đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém cỏi để sắm cho bằng được. (TM Matthêu ch. 13, c.45-46)
Những thứ khác nói đây ám chỉ các nền luân lý, giáo thuyết, hay đạo tự nhiên, được coi là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời khi Đạo Trời chưa được truyền giảng. Khi Đạo Trời công khai xuất hiện trong lịch sử với sự giáng trần của Đức Giê-su, Con Chúa Trời, thì vai trò của các sứ giả tiền phong đương nhiên nhường bước, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời, là chỗ có chân lý hoàn hảo và thiện mỹ viên mãn vậy.
Sau đây xin trích dẫn vài bằng chứng của những nhân vật có tên tuổi, trước đã sống đạo tự nhiên, rồi đã trở lại Đạo Chúa:
- I) Ông Ngô Gia Lễ, Tri phủ Kim Sơn, Ninh Bình, Bắc Việt, vì tiếp xúc với nhiều người Công giáo, ông muốn tìm hiểu đạo Chúa, đã đọc sách Phúc Âm, đã nhận ra được tính cách siêu việt của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa giáng thế. Ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Ki-tô.
Ông nói: “Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Ki-tô không phải chỉ là một nhân vật xuất chúng. Ngài chính là Con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra nhờ đọc Phúc Âm.”
(Trích sách: Ông Tổ đạo Công giáo)
- II) Ông Trịnh Sùng Ngô, (John Wu) Giáo sư Triết lý Đại học Honolulu, nguyên Đại sứ Trung Hoa Dân quốc tại Vatican. Từ nhỏ được sinh trưởng trong gia đình thấm nhuần tư tưởng Tam giáo Khổng Lão Phật. Nhờ thế, sau khi trở lại đạo Thiên Chúa, ông đã có thể giúp nhiều bạn hữu cùng cảnh ngộ được biết và theo đạo. Ông nói:
“Thiên Chúa giáo là Đạo bởi Trời. Người ta lầm mà cho đó là đạo của Âu châu. Đạo đó không phải của Âu châu hay Á châu, không cũ, không mới. Tôi cảm thấy Đạo đó tiềm ẩn ở trong tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão, Khổng, Phật giáo, là những đạo tôi đã hấp thụ từ khi sinh ra.
Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với Đức Giê-su Ki-tô. Nay tôi được đến với Ngài để ở luôn với Ngài, thật là vui sướng vô biên! … Gia nhập Hội thánh Chúa Ki-tô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện.”
[Trích cuốn: Par delà l’Est et l’Ouest (Tạm dịch : Vượt quá Đông-Tây)]
III) Ông Mashaba, một học giả Ấn độ, sinh tại Bihar, trong một gia đình theo Ấn giáo, sau du học bên Anh quốc nhiều năm. Trong 20 năm ông đã tìm tòi, suy luận và nghiên cứu các tôn giáo như Ấn giáo, Bà la môn giáo, Khổng, Lão, Phật giáo, Hồi giáo, Thần đạo Nhật bản, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và các phái Tin Lành Âu- Mỹ…
Ông đã phân tích như sau:
Mỗi tôn giáo nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp. Bởi thế có tôn giáo kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bằng, bác ái, v.v…; nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa giáo, vì xây dựng cho con người một cuộc sống có ý nghĩa cao thượng, bảo đảm cho một tương lai hạnh phúc trường tồn, và có nhiều đặc điểm mà các tôn giáo khác không có, như:
- Vị Giáo tổ bởi Trời giáng thế và đã được Sấm ký báo trước từ mấy ngàn năm trong lịch sử hẳn hoi, khác hẳn với những Giáo tổ khác chỉ là người trần tục.
- Có từ Trời xuống lập đạo thì đạo đó mới có khả năng đưa người ta về Trời.
- Các đạo khác chỉ xoa dịu hay làm quên đau khổ, còn Đạo Trời chẳng những cứu khổ mà còn ban cho con người sự sống đời đời, vốn thật là ước vọng tột đỉnh của mỗi người.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV
MỤC THỨ MƯỜI BA
KẾT LIỄU ĐỜI NGƯỜI.
CUỘC PHÁN XÉT. VIỆC THƯỞNG - PHẠT.
Người ta có sống ở thế gian này mãi chăng?
Không. Người Việt chúng ta tin rằng “sinh ký tử qui”, sống trên trần gian chỉ là nơi ký gởi tạm bợ vài chục năm rồi sau cùng, ai cũng phải chết, tức là về. Về đâu?
Đạo Chúa trả lời: Về quê thật là Nước Thiên Đàng! (Thư Philiphê ch.3, c.20) Thế gian là đời tạm, chúng ta là khách lữ hành đi trên đường… Vì thế, đừng sống chỉ để hưởng trần gian, coi trần gian là tất cả, vì chết là mất hết, hãy sống sao để chiếm được Thiên Đàng vĩnh cửu. Đó mới là khôn ngoan thật. Vì Thiên Đàng vĩnh cửu là mục đích, là cứu cánh của cuộc đời.( Xem lại đoạn “Một cõi đi về”)
Mà bởi vì người ta sống ở trần gian chỉ có một lần thôi, nếu sống sai lầm hư đốn sẽ đánh mất hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời, thế thì thà đừng sinh ra còn hơn là phải chìm nghỉm vĩnh viễn vào nơi khổ ải.
Sao nghe nói có luân hồi chuyển kiếp để làm lại cuộc đời?
Những người chủ trương có luân hồi tin rằng sau khi chết, thì theo thuyết nhân quả, nếu người ta chưa đủ tự tin có thể lọt qua cổng Thiên Đường hoặc Tây du qua Thế giới Cực lạc, thì con người phải đi xuống chầu Diêm vương, chịu sự phán xét (xem hình bên). Diêm vương sẽ tùy tội lớn nhỏ mà bắt phải đi qua một trong “Thập điện Diêm vương” để chịu gia hình nặng hay nhẹ, nếu công tội tương đương, họ sẽ đến điện thứ 10 để được “chuyển kiếp”, ở đây sẽ quyết định cho họ được “đầu thai làm người” (nếu trước kia đã sống tử tế), còn (nếu đã sống độc ác) thì “đầu thai làm súc sinh” theo luật luân hồi quả báo.
Đạo Chúa trái lại dạy rằng: Người ta sống ở trần gian này chỉ có một lần thôi, tức là chỉ có một kiếp người, để lập công bởi làm lành lánh dữ, sau đó là chết và chịu xét xử (Thư Hipri ch. 9, c.27) về những việc tốt mình đã làm hay những việc tội mình đã phạm trong cuộc sống dương thế.
Sau khi đã chịu xét xử thì tùy công hay tội mà tức khắc đi ngay vào ở một trong ba nơi này: Thiên Đàng, Luyện Ngục, Hỏa Ngục (Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1022); nhưng trừ ở nơi Luyện Ngục thì số phận là tạm thời, còn số phận ở hai nơi kia được cố định từ đó đến muôn muôn ngàn đời không bao giờ còn thay đổi được nữa.
Vì thế không có chuyện luân hồi hóa kiếp, đầu thai sang kiếp khác để làm lại cuộc đời mong cải thiện số phận.
Vậy nhất định có ngày ta sẽ phải chết và không bao giờ quay trở lại cuộc đời này sao?
Phải! Người nào cũng phải chết, hễ có sanh thì có tử. Không bao giờ còn quay trở lại đời sống này nữa. Chính bạn rồi cũng phải chết…
Nhưng chết là gì?
Chết là linh hồn lìa ra khỏi thân xác. Linh hồn sẽ vào một trong ba nơi nói trên, còn xác bởi những yếu tố vật chất hợp lại mà thành, thì sẽ tan rã vào lòng đất, hay đốt thành tro bụi, không tồn tại nữa.
Chết rồi có mang theo mình được gì không?
Khi chết bạn sẽ bỏ hết mọi sự:
Của cải ………………… bỏ.
Danh vọng……………… bỏ.
Vui thú ………………… bỏ.
V.v………………………
Chỉ còn lại một nấm mồ…, và đáng buồn là nấm mồ ấy cũng không thuộc về bạn, vì bạn không còn nữa.
Vì thế, đừng sống chỉ để hưởng thụ trần gian, coi trần gian là tất cả. Tức là nếu bạn chỉ luôn sống gắn bó với những cái vật chất, và o bế cưng chiều thể xác thì bạn đã đánh hỏng cuộc đời, vì khi chết những cái đó bạn bỏ lại hết không còn nắm giữ được gì, thể xác bạn cũng tan rữa trong mồ, bạn sẽ trắng tay (Thư Galát ch. 6, c.7-8), quả là dại dột biết chừng nào!
Thế nên để cảnh báo, Chúa Giê-su có dạy một câu vô cùng thâm thúy:
“Được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống (= mất linh hồn) nào được ích gì?” (TM Matthêu ch.16, c.26)
Vậy chết là hết sao?
Không! Chết không phải là hết tất cả mọi sự…, đã đành thể xác, của cải, danh vọng v.v… mất hết, nhưng có một cái còn, đó là “bản ngã”, hay nói theo Đạo Chúa, là “hồn linh”, được dựng nên giống hình ảnh của bản tính bất tử Thiên Chúa (Sách Khôn ngoan ch. 2, c.23), nên có tính linh thiêng, sẽ không tan rã, sẽ còn tồn tại mãi, không bao giờ chết. Cha ông chúng ta đã cảm nhận được chân lý ấy nên đã nói:
“Chết là thể xác, còn là tinh anh”.
Vì thế vấn đề nghiêm trọng nhất trong cuộc đời mỗi người là đây:
Nếu bạn sẽ còn tồn tại mãi, thì sẽ tồn tại ở đâu? Sẽ tồn tại vĩnh viễn muôn đời trong nơi hạnh phúc, hay tồn tại muôn đời ngàn kiếp trong trầm luân khổ ải? Nói theo Đạo Chúa thì: sẽ sống hạnh phúc trên Thiên Đàng với Thiên Chúa, hay sẽ bị rớt xuống lửa hỏa ngục, chịu Satan ác quỉ tàn độc khống chế? (TM Matthêu ch. 25, c.41)
Bạn nên suy nghĩ kỹ mà chọn lựa!
Thiên Chúa không dựng nên ta để phải bị đày đọa trầm luân trong Hỏa ngục, trái lại Ngài “muốn mọi người được cứu độ”( Thư 1 Timôtê ch. 2. c.4), được hưởng phúc Thiên Đàng đời đời.
Nhưng Thiên Đàng lại là phần thưởng cho những ai có công, vì đương nhiên chúng ta đều biết: “Vô công, bất thụ lộc” (không có công, không được hưởng bổng lộc).
Thế thì phải sống sao để có công đáng được thưởng Thiên Đàng, tức là được hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa? Bởi vậy, như chúng ta đã nói lúc đầu, việc quan trọng là phải chọn cho đúng Đạo chân thật, vì chỉ Đạo chân thật mới dạy cho bạn biết sống làm sao để đáng được thưởng!
Do vậy mà đời sống trần gian này, ta phải coi là chuyện rất nghiêm trọng.
Sao vậy? Vì cuộc sống ở trên trần gian là thời gian thử thách để xem ta có làm điều lành mà đáng thưởng hay làm điều dữ mà bị phạt; là đấu trường để xem ta chiến đấu với sự ác mà chiến thắng đáng được triều thiên khải hoàn, hay chiến bại mà bị vùi dập trong hổ nhục muôn đời!
Vì vậy mà, sau khi chết, phải có một cuộc xét xử để xét ai được thưởng ai bị phạt.
Xét xử diễn ra thế nào?
Cũng như trong một gia đình, người cha là chủ cầm cân nảy mực để thưởng phạt người trong nhà đã tuân hành hay lỗi phạm gia qui, thì nơi Thiên Chúa cũng vậy, Ngài là Chúa tể, là Chủ, vì Ngài đã tạo dựng nên loài người, do đó ai ai cũng phải vâng giữ lề luật Chúa – luật đã thành văn được công bố hay luật âm thầm ghi trong lương tâm(Thư Rôma ch.2, c.14-15), và sau khi chết mọi người đều bị Chúa xét xử.( Thư Rôma ch. 14, c.12 ; Hipri ch.4, c.13)
Nơi đây mọi việc lành dữ, đã tơ tưởng, đã nói, đã làm, từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết đều bị đem ra xét xử là tốt hay xấu, là nặng hay nhẹ, là đáng công hay bị luận phạt...
Sách xưa cũng đã nói: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”: Tùng phục Thiên Chúa và luật pháp của Ngài mà làm lành thì được tồn tại, tức là sống với Chúa đời đời trên Thiên Đàng; trái lại ngỗ nghịch với Chúa nghĩa là không học hỏi cho biết lề luật Chúa mà tuân giữ, cứ theo tính mê nết xấu của mình mà làm sự tội, sự dữ, khi chết sẽ bị Chúa xét là hỏng mà lãnh phần phạt trầm luân muôn kiếp!
- Cuộc xét xử này Đạo Chúa gọi là phán xét riêng, vì chỉ riêng linh hồn mỗi người ra trước tòa Chúa mà thôi.
Còn một cuộc phán xét chung nữa vào ngày tận thế, chúng ta dành lại mục sau nói thì thích hợp hơn.
Sau khi đã chịu phán xét rồi thì chuyện gì xảy ra?
Như trên đã nói thì tùy công hay tội mà linh hồn tức khắc đi ngay vào ở một trong ba nơi này:
Thiên Đàng, Luyện Ngục, Hỏa Ngục(Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1022).
(1) Thiên Đàng là nơi nào?
Thiên Đàng hay cũng gọi là cõi Trời mới Đất mới, là nơi Thiên Chúa dọn sẵn (TM Matthêu. ch 25, c.34) cho người tốt lành được hưởng trong vinh quang và mọi phúc lạc đời đời vô cùng vô tận với Thiên Chúa.
Hưởng mọi phúc lạc đời đời là những sự gì?
Là được chiêm ngắm nhãn tiền (= nhìn thấy) tôn Nhan Đức Chúa Trời là Đấng Trọn Tốt Trọn Lành vô cùng, Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ, và được thỏa mãn tất cả mọi ước vọng của mình, không còn thiếu một sự gì bởi vì chiếm được chính Thiên Chúa là tất cả mọi sự, là chính NGUỒN HẠNH PHÚC vô biên, họ không còn bao giờ phải khổ đau, khóc lóc, bệnh tật, không còn phải chết nữa, và cứ sống sung sướng như thế mãi chẳng khi nào hết, chẳng khi nào cùng.
Đấy là nơi mà người Á Đông chúng ta hằng mơ ước, nên đã tưởng tượng ra như là “Tây phương Cực lạc”, “nơi quần tiên tụ hội”, nơi có “vườn đào của Tây Vương Mẫu”, ở đó có những quả đào tiên 3.000 năm mới chín một lần, ăn vào được trường sinh bất tử, v.v…
Những người tốt lành được lên Thiên đàng là người thế nào?
Là những kẻ đã tin Chúa, rồi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy (= chịu phép Rửa tội) gia nhập Hội Thánh và tuân giữ các giới răn của Chúa, nghĩa là đối với Chúa, có lòng tin cậy kính mến, đối với người ta, thì thi hành bác ái, và luôn ra sức làm lành lánh dữ, chẳng hề phạm tội gì trọng, hay nếu nhỡ đã phạm tội thì đã ăn năn sám hối và được Chúa tha, cách riêng khi đến xưng thú tội lỗi nơi Bí tích Giải tội.
Vậy cớ sao Đức Khổng Tử ngày xưa nói: “Phạm tội với trời không cầu đảo được nữa” ? (Hoạch tội ư Thiên vô sở đạo giã!)
Đó là vì không được biết Thiên Chúa, nên không làm cách nào để được tha tội, bởi vậy người ta đau khổ vô cùng vì hầu như suốt đời phải mang lấy gánh tội không cách nào cất đi được.
Nhưng từ khi biết Đạo Chúa, thì Chúa dạy rằng: Phạm tội đến Chúa, cho dù tội lớn bằng núi non, hay đỏ lòm như máu, nếu thống hối xin Chúa thứ tha, (cách riêng nơi tòa giải tội) thì được Chúa tha tội, linh hồn lại trắng như tuyết. Thế là tâm hồn được nhẹ nhõm thanh thản, sung sướng vô cùng!
(2) Hỏa ngục là chốn nào?
Là nơi dành cho ma quỷ và kẻ dữ (TM Matthêu, ch. 25, c.41) chịu khổ hình uất hận nghiến răng khóc lóc trong lửa thiêng đời đời chẳng cùng…
Những kẻ dữ phải sa Hỏa ngục là những kẻ nào?
Một là những kẻ không chịu hay không muốn nhận biết Thiên Chúa, kính tin, tôn thờ Ngài và tuân giữ luật pháp của Ngài dạy làm lành lánh dữ; hai là những người dù có đạo mà không giữ luật đạo, còn mắc tội trọng khi qua đời. Như thế, sa hỏa ngục là do họ tự chuốc lấy.
Chúa rất nhân từ, Ngài không đày ai xuống hỏa ngục cả. Nhưng Ngài cũng rất là công bằng, Ngài đã cho con người sống trên trần gian có đủ mọi phương thế cần thiết để sống và sống đạo đức(Thư 2 Phêrô ch.1, c.3), và nhất là cho có tự do để chọn làm lành, để tránh làm dữ. Tuy nhiên vẫn có những người lại ưa thích làm sự dữ, ngoan cố sống trong tội lỗi, như thế là chính họ tự chọn sự chết, có thể nói họ tự chọn hỏa ngục. Giống như kẻ biết ma túy là nguy hiểm chết người nhưng lại khoái cái thú đê mê chết người ấy, thì họ tự chuốc lấy thảm họa. Không thể trách ai được.
(3) Luyện ngục là chốn nào?
Luyện ngục hay cũng gọi là nơi Luyện tội, là nơi dành cho những người lành tuy được cứu độ, song chết đang khi tâm hồn chưa đạt mức thánh thiện cần thiết để hưởng Thiên đàng, cụ thể mà nói, còn lơ là chưa thờ, chưa mến Thiên Chúa mấy, còn mắc tội nhẹ, hay là đền tội chưa đủ khi còn ở trần gian, nên họ sẽ phải vào nơi Luyện tội chịu hình khổ tạm một thời gian để tẩy luyện. Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, tinh khiết vô cùng, không có một sự gì hay một ai còn chút bợn nhơ xấu xa mà có thể vào sống trong Thiên Đàng với Ngài.
Người ở trong Luyện tội không thể tự giải thoát mình ra khỏi, mà phải nhờ đến những người thân còn sống, cầu nguyện, hy sinh hãm mình, dâng Thánh lễ giúp họ mau chu toàn việc tẩy luyện mà được vào Thiên Đàng với Chúa.
***
Xem như thế mới thấy, Thiên Chúa công minh chính trực vô cùng, công bằng vô cùng, Ngài không để cho những gì người ta làm trên đời này đều vô tội vạ, người ác lộng hành, người lành bị oan ức… Người xưa cũng đồng ý khi nói : “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”: Mọi việc lành dữ, tốt xấu chung cuộc đều có đáp trả, sẽ phải trả lẽ.
Sao không trả lẽ ngay ở đời này?
Vì khi ta còn sống trên đời, coi như đang lữ hành trên đường chưa về tới quê, cho nên đó là một quãng thời gian thử thách, Thiên Chúa để ta được tự do muốn tuân giữ hay vi phạm lề luật Chúa, nghĩa là làm lành hay làm ác tùy ý.
Vì không hiểu đường lối ấy của Thiên Chúa, nên nhiều khi thấy những kẻ làm điều ác hoành hành tác quái, người lương thiện bị áp bức, hãm hại, tàn sát…, ta sốt ruột tức tối khi thấy Thiên Chúa không ra tay phạt chúng chết tươi nhãn tiền... Có khi ta còn nhìn lên trời và hỏi: “Trời có mắt không?”
Trời có mắt, đợi đến giờ chết sẽ biết: Đó là lúc Thiên Chúa lập lại sự công bằng cho những ai bị ức hiếp oan ức, không để kẻ gian làm việc ác vô tội vạ. Ngài sẽ nghiêm nghị xét xử, thưởng kẻ làm điều lành, phạt kẻ làm điều ác, một cách vĩnh viễn, tuyệt đối không khoan nhượng, không kháng cáo! Cũng như nhà nông, có mùa gieo có mùa gặt; đến mùa gặt, lúa thóc sẽ được thâu về, rơm rạ sẽ bị thiêu hủy. Đời này là mùa gieo, đời sau là mùa gặt.
Chúa xét xử người có đạo chứ người lương, không biết Chúa, không biết luật Chúa, sao lại bị xét xử?
Không. Thiên Chúa đã dựng nên loài người, nên Ngài là Chúa tể của mọi người, từng cá nhân cũng như mọi dân tộc, dù họ có nhận biết Chúa hay không, có biết luật Chúa hay không, tất cả đều phải bị xét xử, không trừ ai. Người không biết luật Chúa, sẽ bị xét xử theo lương tâm của họ (Thư Rôma ch.2, c.14-15). Vì vậy cổ nhân xưa mới nói : “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” : Lưới trời thưa thưa, nhưng không ai lọt được.
XVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXVXV