007.- ĐỨC GIÊ-SU CHỊU PHÉP CẮT BÌ_Lc 2,21-40_Đọc "TIN MỪNG" và Đọc Sách "BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI" của Maria Valtorta
11 Tháng Giêng 2021
Đọc "TIN MỪNG" và Đọc Sách "BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI" của Maria Valtorta
007.- ĐỨC GIÊ-SU CHỊU PHÉP CẮT BÌ_Lc 2,21-40
21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su ; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Tiến dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa
22 *Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng : “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng :
Bài ca “An Bình Ra Đi” (Nunc dimittis)
29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân : 32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
Ông Si-mê-ôn nói tiên tri
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi : “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng ; 35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”
Bà An-na nói tiên tri
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
Đức Giê-su tiếp tục sống ẩn dật tại Na-da-rét
39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
**** ĐỨC GIÊ-SU CHỊU PHÉP CẮT BÌ (Sách “BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI” của Maria Valtorta _Quyển 1, trang 300)
Tôi thấy một cặp vợ chồng đi ra từ một căn nhà khiêm tốn. Từ chiếc cầu thang nhỏ ở ngoài nhà, bà mẹ rất trẻ đi xuống, ẵm trong tay một trẻ sơ sinh bọc trong khăn trắng.
Tôi nhận ra ngay là mẹ của chúng ta. Vẫn luôn là mẹ: Tái xanh, tóc vàng hoe, nhanh nhẹn duyên dáng trong hết mọi cử điệu. Mẹ mặc y phục trắng với áo khoác mầu xanh dương lạt phủ bên ngoài. Trên đầu là tấm voan trắng. Mẹ ẵm bé với bao là cẩn thận. Giuse chờ mẹ ở chân cầu thang, bên cạnh một con lừa xám. Giuse mặc y phục mầu nâu lạt với áo khoác đồng mầu. Ông nhìn Maria và mỉm cười với mẹ. Khi Maria tới bên con lừa, Giuse chuyển giây cương qua tay trái, để tay mặt ông ẵm lấy hài nhi đang ngủ ngon một lát, để Maria dễ dàng ngồi lên yên. Rồi ông trả lại Giêsu cho mẹ và họ bắt đầu bước.
Giuse đi bên cạnh Maria, luôn luôn cầm giây cương của con vật, canh chừng để nó bước thẳng và không bị trượt. Maria ẵm Giêsu trên ngực Người, vì sợ gió lạnh làm phiền cho bé. Mẹ phủ vạt áo khoác của mẹ trên mình bé. Hai vợ chồng nói rất ít, nhưng họ thường mỉm cười.
Con đường không phải loại đường kiểu mẫu, nó băng qua miền quê mà mùa đông làm cho trơ trụi. Có vài người đi đường khác gặp họ, nhưng rất hiếm.
Đây, họ đã thấy các căn nhà và các bức tường bao quanh một thành phố. Hai vợ chồng vào đó qua một cái cổng, rồi bắt đầu đi vào các con đường lát đá hay gạch rất gồ ghề của thành phố. Bước đi trở nên rất khó khăn, hoặc do dòng người làm con lừa phải dừng lại luôn, hoặc vì đá gạch hay xà bần làm gián đoạn, và làm con lừa đi lúc lắc liên tục, làm phiền cho Maria và chú bé.
Con đường cũng không phẳng, nó lên dốc, dù là từ từ. Nó hẹp ở giữa các căn nhà cao cũng như ở giữa các căn nhà thấp rất ít cửa sổ mở ra lối đường. Ở trên cao, bầu trời để lộ các mảnh xanh dương ở giữa khoảng từ nhà nọ qua nhà kia, hoặc từ sân thượng này tới sân thượng khác. Dưới thấp, trong đường phố, người ta la lối, đi giao nhau với những người khác, đi bộ hoặc cỡi lừa, hoặc dắt những con lừa chở đồ; và những người khác đi theo một đoàn du mục với các con lạc đà kồng kềnh. Có một chỗ họ nghe thấy tiếng động của nhiều gót giầy và vũ khí, đó là đám lính Rôma đi tuần. Rồi họ biến mất sau một khung cổng tò vò bắc ngang qua một con đường hẹp và đá lởm chởm.
Giuse quẹo tay trái và đi vào một đường rộng hơn, đẹp hơn. Tôi nhận ra bức tường có các lỗ châu mai mà tôi đã biết, hiện ra ở cuối đường.
Maria xuống lừa gần cổng, nơi có một chỗ trú cho lừa. Tôi gọi là “chỗ trú”, vì đó là một loại nhà kho, đúng hơn là một chỗ trú có mái che, lủng củng những cỏ rơm và những cây cọc có trang bị những cái khoen để buộc các con vật bốn chân. Giuse đưa mấy đồng tiền cho một cậu bé chạy tới để mua chút cỏ, và ông kéo một xô nước tại một cái giếng thô kệch trong một góc và cho lừa uống.
Rồi ông lại với Maria, và cả hai đi vào nội khu Đền Thờ. Trước hết, họ đi về phía một hành lang, nơi có những người mà sau này Giêsu quất cho tơi bời: Các người bán bồ câu và chiên, và các người đổi tiền. Giuse mua hai con bồ câu trắng. Ông không đổi tiền. Ta hiểu rằng ông đã có con số cần thiết.
Giuse và Maria đi về phía cửa hông, nơi mà họ tới được bằng cách lên tám bậc. Ta thấy tất cả các cửa đều như vậy, vì khối vuông của Đền Thờ ở trên đỉnh, cao hơn tất cả vùng đất chung quanh. Cửa này đi vào một phòng lớn, giống như cổng chính ở các biệt thự của thành phố chúng ta, nói vậy để có một hình ảnh, nhưng nó lớn hơn rất nhiều và trang trí nhiều hơn. Ở đó, hai bên phải và trái, đều có một loại bàn thờ, tức là hai kiến trúc hình chữ nhật mà lúc đầu tôi không biết nó để làm gì. Ta thấy nó giống như những cái bể hơi sâu, ở giữa sâu hơn ở bờ bên ngoài vài phân.
Tôi không biết Giuse có gọi không, nhưng đây, một thầy cả chạy tới. Maria dâng cho ông hai con bồ câu tội nghiệp. Và tôi, tôi biết số phận của chúng nên tôi quay đi, không nhìn chúng nữa. Tôi quan sát những trang trí của cánh cửa rất nặng và của trần nhà trong phòng. Nhưng tôi thấy bằng khóe mắt, hình như vị thầy cả vảy nước cho Maria. Chắc là nước, vì tôi không nhìn thấy dấu vết trên y phục của cô. Maria, trong khi đưa chim câu cho thầy cả, cũng trao cho ông một nắm tiền (tôi quên không nói trước). Rồi Maria cùng với Giuse vào chỗ Đền Thờ chính thức với Thầy cả hộ vệ.
Tôi nhìn khắp phía: Đây là một nơi trang trí rất nhiều: điêu khắc các đầu thiên thần với các cành cây, và trang trí dọc theo các cây cột, trên tường và trần nhà. Ánh sáng lọt vào qua các cửa sổ dài và hẹp một cách ngộ nghĩnh, không có kính, làm xéo trên tường. Tôi đoán họ làm vậy để mưa khỏi tạt vào.
Maria vào tới một chỗ nào đó, rồi dừng lại. Ở cách cô vài mét, có các bậc thềm khác, và ở bên trên, có một loại bàn thờ, và ở bên ngoài đó lại có một kiến trúc khác.
Tôi nhận ra rằng tôi đã tưởng mình đang ở trong Đền Thờ, nhưng không phải. Tôi đang ở trong khu bao quanh Đền Thờ chính thức, tức là nơi thánh. Bên trong chỗ này thì không ai được vào, ngoại trừ các thầy cả. Chỗ mà tôi tưởng là Đền Thờ thì chỉ là tiền đường có cửa đóng bao quanh Đền Thờ, nó bao quanh ở ba phía, ở giữa là nơi để nhà Tạm. Tôi không biết tôi có giải thích rõ không, vì tôi không phải kiến trúc sư hay kỹ sư.
Maria dâng tiến bé của Mẹ. Cậu thức dậy và quay đôi mắt thơ ngây khắp chung quanh, quay về thầy cả với cái nhìn ngạc nhiên của đứa trẻ mới được mấy ngày. Thầy cả đỡ lấy bé trong cánh tay và giơ bé lên, khuôn mặt quay về Đền Thờ, trong khi ông đứng trước một loại bàn thờ ở bên trên các bậc thềm. Nghi lễ kết thúc, bé được trả lại cho bà mẹ và thầy cả ra đi.
Có những người tò mò đứng nhìn. Trong số đó có một ông già nhỏ gù lưng, bước đi cách nặng nề bằng cách tì vào chiếc gậy. Chắc ông già lắm, tôi nói phải ngoài tám mươi. Ông lại gần Maria và xin cô cho ông ẵm hài nhi một lát. Maria mỉm cười làm vui lòng ông.
Đó là Simêon. Tôi luôn luôn tưởng rằng ông thuộc hàng giáo sĩ, nhưng trái lại, ông chỉ là giáo hữu thường, tôi luận tùy theo y phục của ông. Ông ẵm lấy bé, hôn Người. Giêsu mỉm cười với diện mạo không rõ ràng của trẻ sơ sinh. Dường như bé quan sát ông cách tò mò, vì ông già nhỏ vừa khóc vừa cười, nước mắt làm cho mặt ông như dính ngọc trai và chảy vào những vết nhăn, rồi rơi xuống bộ râu dài trắng toát mà Giêsu giơ tay rờ. Đó là Chúa Giêsu, nhưng luôn luôn vẫn là một bé thơ, cái gì nhúc nhích trước mặt cũng lôi kéo sự chú ý của trẻ, và cho nó cái ý muốn cầm lấy sự vật để coi cho rõ xem là cái gì.
Maria và Giuse mỉm cười, những người khác đang hiện diện cũng vậy. Và họ khen đứa bé đẹp. Tôi nghe những lời của ông già thánh và tôi thấy cái nhìn ngạc nhiên của Giuse cũng như sự xúc động của Maria, và sự phản ứng của nhóm nhỏ những người đang hiện diện. Một số ngạc nhiên và cảm động vì những lời của ông già; một số khác thì cười như điên. Trong số những người loại thứ hai, có những ông râu ria và các ông cao cấp của Đại Pháp Đình. Họ nhìn Simêon với sự thương hại mỉa mai. Chắc họ nghĩ rằng tuổi già của ông đã làm ông lẩm cẩm.
Nụ cười của Maria tắt đi trong sự tái mét mạnh mẽ khi Simêon loan báo sự đau đớn của cô. Mặc dầu cô biết, nhưng những lời này cũng đâm thâu tâm hồn cô. Maria sát lại gần Giuse hơn để tìm sự nâng đỡ. Cô ôm ghì một cách say sưa con cô vào lòng. Và như một linh hồn được giải khát, cô uống các lời của Anna, một đàn bà có lòng thương cho sự đau khổ của Maria, bà hứa với cô rằng Thiên Chúa sẽ làm dịu giờ đau đớn của cô bằng cách thông sức mạnh siêu nhiên cho cô: “Bà ơi, đấng đã ban Vị Cứu Tinh cho dân Người sẽ không quên sai thiên thần của Người để thoa dịu nước mắt của bà. Sự trợ giúp của Thiên Chúa không bao giờ thiếu cho các phụ nữ vĩ đại của Israel. Và bà còn rất vĩ đại hơn Judith và Jahel. Thiên Chúa của chúng ta sẽ ban cho bà một qủa tim bằng vàng rất tinh tuyền để chịu đựng cái biển cay đắng, và bởi đó, bà sẽ nên người đàn bà vĩ đại nhất trong sự tạo dựng người mẹ. Còn con, hỡi bé thơ! Con hãy nhớ đến bà trong giờ sứ mạng của con”.
Thị kiến chấm dứt cho tôi ở đây.
(Dịch giả : Nữ tu Phạm Thị Hùng, CMR.)