009_CÁC NHÀ CHIÊM TINH ĐẾN BÁI LẠY (Mt 2,1-12)_ Đọc "TIN MỪNG" và Đọc Sách "BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI" của Maria Valtorta
11 Tháng Giêng 2021
009_CÁC NHÀ CHIÊM TINH ĐẾN BÁI LẠY (Mt 2,1-12)_ Đọc "TIN MỪNG" và Đọc Sách "BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI" của Maria Valtorta
9_CÁC NHÀ CHIÊM TINH ĐẾN BÁI LẠY (Mt 2,1-12)
1 *Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và hỏi : “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời : “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng : 6Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” 7Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng : “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở Phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. 12Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
******
009_CÁC NHÀ CHIÊM TINH ĐẾN BÁI LẠY (Sách “BÀI THƠ của VỊ-THIÊN-CHÚA-LÀM-NGƯỜI” của Maria Valtorta_Quyển 1, trang 313)
*******
Đấng loan báo cho tôi trong nội tâm nói với tôi: “Con hãy gọi những chiêm ngắm mà con sắp có này, và Cha sắp tỏ bày cho con là: ‘Tin Mừng của Đức Tin’, vì đối với con cũng như đối với những người khác, nó sẽ đặt ra trong ánh sáng sức mạnh của Đức Tin và các hoa trái của nó, và bảo đảm cho các con trong Đức Tin của các con nơi Thiên Chúa”.
Tôi thấy Bétlem: nhỏ bé, trắng toát, tụ họp như bầy gà con dưới240 ánh sáng của các tinh tú. Hai con lộ chính băng qua thành phố cắt nhau thẳng góc. Một đường từ bên ngoài xứ đi vào, đó là lộ chính, băng qua thành phố rồi còn đi tiếp. Con lộ kia cắt ngang hết bề rộng của nó, nhưng không đi xa hơn. Nhiều con lộ khác cắt ngang dọc cái xứ nhỏ này, nhưng không có một họa đồ toàn bộ nào như thành phố chúng ta ngày nay, vì nó chỉ thích nghi với mảnh đất có nhiều cao độ khác nhau. Nhà cửa được phân tán đó đây tùy mặt đất và ý thích của người xây cất. Có những lộ rẽ về bên phải, một số về bên trái, một số khác chạy xéo so với con lộ mà nó giao nhau với, bó buộc nó chạy khúc khửu, thay vì là một con đường thẳng chạy từ nơi nọ tới nơi kia mà không phải đi trệch. Thỉnh thoảng có một công viên nhỏ, hoặc để họp chợ, hoặc để làm một phông-ten, hoặc là tại vì các nhà cửa xây cách tình cờ nên còn thừa lại những mảnh xéo mà người ta không thể xây cái gì được.
Tại nơi mà tôi thấy như tôi phải dừng lại cách đặc biệt, chính là một trong những mảnh đất bất thường này. Đáng lẽ nó phải vuông hay chữ nhật, thì nó lại là hình thang kỳ cục đến nỗi người ta thấy nó là tam giác có góc nhọn ngoằn nghoèo ở đỉnh. Bề dài hơn, đáy của tam giác, là căn nhà rộng và thấp, căn nhà rộng nhất xứ. Bên ngoài là bức tường cao, nhẵn và trần trụi, chỉ có hai khung cửa bây giờ đang đóng. Trái lại, bên trong, ở tầng thứ nhất, có nhiều cửa sổ mở quay ra sân vuông, trong khi ở tầng trệt, người ta thấy các hành lang bao quanh cái sân rải rác những cỏ rơm và rác rến, với những bể để cho ngựa và các súc vật khác uống nước. Tại những cây cột thô kệch của hành lang, có những cái vòng để cột súc vật. Ở một bên, có một cái kho mênh mông để cho các đoàn vật và lừa ngựa cư trú. Tôi hiểu đó là quán trọ của Bétlem.
Ở hai phía có cùng chiều dài, có những căn nhà lớn nhỏ, căn thì có mảnh vườn ở đàng trước, căn thì không, bởi vì trong số những nhà này, có những căn có mặt tiền quay ra công trường, có căn thì quay ra phía sau. Trên phía hẹp hơn, ngay trước trạm nghỉ của các đoàn lữ hành, có một căn nhà nhỏ duy nhất với một cầu thang nhỏ ở bên ngoài, dẫn lên ngay giữa mặt tiền để vào các phòng ở tầng thứ nhất. Tất cả các phòng đều đóng, vì lúc này là đêm, cũng vậy, giờ này không có ai ở ngoài đường cả.
Tôi thấy ánh sáng ban đêm chiếu xuống từ bầu trời đầy sao lấp lánh gia tăng và rất đẹp ở phía đông. Ánh sáng rất mạnh và rất lớn đến nỗi nó như ở rất gần, giống như những bông hoa trên bầu trời bằng nhung mà người ta có thể đến rờ vào nó. Tôi ngước mắt lên để tìm cái nguồn làm gia tăng ánh sáng này. Tôi thấy một ngôi sao lớn khác thường, giống như một vầng trăng nhỏ, đang tiến đi trên bầu trời của Bétlem. Những ngôi sao khác như mờ đi để nhường lối cho nó, giống như những kẻ theo hầu một bà hoàng, vì ánh sáng của nó trổi vượt, tựa như làm chúng biến mất. Từ quả cầu giống như một viên lam ngọc khổng lồ, được soi sáng ở trong ruột bởi mặt trời, phát ra những luồng sáng, trong đó, do sự trổi vượt của ánh sáng lam ngọc, hòa tan với mầu vàng của hoàng ngọc, mầu lục của bích ngọc, mầu sáng của miêu ngọc, ánh đỏ máu của hồng ngọc, và các lấp lánh êm dịu của tử ngọc. Tất cả các đá qúi của trái đất đều ở trong giải sáng đang di chuyển mau lẹ trên trời, dợn sóng giống như nó sống động. Nhưng mầu sắc trội hơn cả là mầu lam ngọc lạt và sáng của Thiên Đàng. Trông như nó mưa xuống từ trái cầu của vì sao, nó chiếu xuống và phủ mầu xanh biếc cho các nhà cửa, đường phố, đất đai của Bétlem, cái nôi của Vị Cứu Tinh.
Đây không còn là một thị trấn tội nghiệp, mà với chúng ta, đó là một nơi qui tụ dân cư thuộc miền quê. Đây là một thị trấn tuyệt vời của chuyện thần tiên, nơi tất cả đều làm bằng bạc. Nước ở phông- ten và các bể trông như kim cương lỏng.
Với sự huy hoàng của một luồng sáng mạnh hơn, ngôi sao dừng lại trên căn nhà nhỏ ở phía hẹp hơn của công viên. Các người ở trong căn nhà này cũng như dân thành Bétlem, không ai thấy nó,vì họ ngủ trong các nhà đóng cửa kín. Nhưng ngôi sao gia tăng những nhấp nháy ánh sáng của nó, và cái đuôi rung động của nó vẫy mạnh hơn, vẽ thành một hình bán nguyệt trên bầu trời được soi sáng toàn bộ bởi cái lưới tinh tú mà nó lôi theo. Từ cái lưới bằng đá qúi này tỏa ra rực rỡ muôn vàn mầu trên các ngôi sao khác, như để thông thương với chúng những lời vui mừng. Căn nhà nhỏ hoàn toàn chìm trong thứ lửa bằng đá ngọc lỏng này: Mái nhà và cái sân thượng nhỏ, cái cầu thang bằng đá tối, cái cửa nhỏ... Tất cả đều là khối bạc ròng rắc bụi kim cương và đá ngọc. Không một lâu đài vua chúa nào có, không có một bậc thềm nào giống như ở đây, được làm để nhận bước chân của các thiên thần, để phục vụ một người mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Bàn chân nhỏ Đồng Trinh Vô Nhiễm của Người có thể đặt trên mầu trắng huy hoàng này, các bàn chân được tiền định để đặt lên các bậc thềm của Ngai Tòa Thiên Chúa.
Nhưng Đức Trinh Nữ không biết gì về chuyện thần tiên này. Người canh thức bên nôi của Con Người và cầu nguyện. Linh hồn Người chiếm hữu những huy hoàng vượt qua những rực rỡ mà ngôi sao trang điểm cho vạn vật.
Từ con phố chính, một đoàn diễn hành tiến tới: ngựa thắng yên và các con khác dắt bằng tay, đơn phong đà và lạc đà, con thì người cỡi, con thì chở đồ. Tiếng động của các móng như tiếng thác nước đổ xuống trên đá. Tới công viên, tất cả đều dừng lại. Đoàn diễn hành, dưới những tia rực rỡ của ngôi sao, là một sự huy hoàng tuyệt diệu: Các đồ trang trí rất giầu của các con vật, các y phục kỵ mã, các khuôn mặt, các hành lý, tất cả đều chói sáng và kết hợp vẻ sáng của kim loại, của da, của lụa, của ngọc, của các bộ lông... với ánh sáng sao. Con mắt rạng rỡ, miệng mỉm cười, vì một huy hoàng khác đã đốt lên trong lòng họ: Sự huy hoàng của niềm vui siêu nhiên.
Trong khi các đầy tớ tiến lại chỗ dành cho các đoàn du mục và các con vật, ba Đại Nhân Vật xuống khỏi các con vật dành riêng của họ mà một người đầy tớ dắt tới một nơi khác, họ đi bộ về phía căn nhà. Ở đó, họ qùi gối, trán chạm đất và hôn cát bụi. Đó là ba nhân vật quyền thế, theo như y phục của họ chỉ cho biết. Một người nước da rất đậm, vừa xuống khỏi con lạc đà, ông liền bao phủ toàn thân trong một áo lụa trắng tuyệt vời. Trên trán ông có một vòng đai bằng kim qúi. Ở thắt lưng ông là cái giây lưng đắt tiền, ở đó có dắt một con dao hay cái kiếm mà bao có trang trí các hạt ngọc. Hai người kia cũng xuống khỏi con ngựa tuyệt trần. Một ông mặc vải sọc rất đẹp mà mầu vàng nổi bật. Y phục này được làm giống như một loại áo dài, có một cái nón và một sợi giây, hình như tất cả là một mảnh liền bằng sợi vàng, vì nó trang trí bằng các đường thêu chỉ vàng. Người thứ ba mặc một áo lụa thùng thình, để ló ra cái quần rộng và dài túm lại ở cổ chân. Ông khoác một cái khăn rất mỏng, giống như một mảnh vườn đầy hoa, vì nó được trang trí toàn bộ bằng những mầu sắc rất tươi. Trên đầu ông cuốn khăn, được giữ bằng một sợi giây xích bằng miêu ngọc và kim cương.
Sau khi đã tôn kính căn nhà, nơi Vị Cứu Tinh cư ngụ, họ đứng dậy và đi tới nhà dành cho đoàn du mục, nơi các đầy tớ đã gõ cửa để xin mở.
Thị kiến dừng lại ở đây, rồi sau ba tiếng đồng hồ, lại tiếp tục với cảnh các nhà đạo sĩ thờ lạy Chúa Giêsu.
Đây là lúc ban ngày. Mặt trời rực rỡ trên trời vào lúc sau trưa. Một người đầy tớ của các Đạo Sĩ băng qua công trường và đi lên chiếc cầu thang nhỏ của căn nhà nhỏ. Anh ta vào. Anh ta ra. Anh ta trở về quán trọ.
Ba nhà Đạo Sĩ ra, mỗi người có người đầy tớ riêng theo sau. Họ băng qua công trường. Số người ít oi qua lại quay mặt nhìn các nhân vật oai vệ đi qua rất từ từ và trang trọng. Từ lúc người đầy tớ vào tới lúc ba nhà Đạo Sĩ vào, có khoảng thời gian độ một khắc đồng hồ. Điều đó cho phép các người trong nhà chuẩn bị đón khách.
Những người này bây giờ ăn vận còn sang trọng hơn là đêm hôm trước: Lụa là rực rỡ, vàng ngọc sáng chói. Một chòm lông đắt giá lốm đốm những vảy qúi lấp lánh trên đầu của ông có quấn khăn. Một trong những người đầy tớ mang một cái rương có cẩn khắp chung quanh, mà các đồ trang điểm bằng kim loại đều là vàng cẩn. Người thứ hai mang một cái cúp được làm cách rất tinh tế, được đậy bằng một cái nắp hoàn toàn bằng vàng chạm trổ. Người thứ ba mang một thứ bình rộng và thấp, cũng bằng vàng, có nắp đậy hình kim tự tháp mà ở trên đỉnh có một viên kim cương. Những vật này hẳn là nặng, vì các người đầy tớ mang cách khó lòng, nhất là người mang cái rương. Ba người lên cầu thang và vào. Họ vào trong một phòng mà từ ngoài đường, người ta phải đi ra lối sau nhà để vào. Người ta nhận thấy mảnh vườn nhỏ qua cửa sổ mở ra cho mặt trời. Các cửa ra vào thì ở trên hai bức tường. Các người chủ nhà đang đứng đó để nhìn: Một người đàn ông, một người đàn bà, và ba hay bốn đứa trẻ trong khoảng hai lứa tuổi.
Maria ngồi ôm con trong lòng, Giuse đứng bên cạnh. Nhưng cô đứng dậy ngay và cúi mình khi thấy ba nhà Đạo Sĩ vào. Cô mặc toàn trắng. Cô rất đẹp trong y phục trắng đơn giản,bao phủ từ cổ tới bàn chân, từ vai tới cổ tay tinh tế. Rất đẹp với đầu tóc quấn các bím vàng vòng quanh như triều thiên, với khuôn mặt mà sự cảm động phủ cho một lớp mầu hồng rõ hơn, với đôi mắt mỉm cười dịu dàng, với khuôn miệng mở ra để nói: “Thiên Chúa ở với các ngài”. Ba nhà Đạo Sĩ ngây ra một lát, rồi họ tiến lên, họ qùi phục dưới chân cô và xin cô ngồi.
Họ thì không, họ không ngồi, dù Maria mời. Họ vẫn qùi gối và ngồi trên gót chân. Ba người đầy tớ ở đàng sau và cũng qùi gối. Tất cả họ đều ở ngay sau cửa. Họ để ba vật mà họ mang theo ở trước mặt và họ chờ.
Ba nhà Đạo Sĩ nhìn ngắm chú bé. Tôi thấy chú có vẻ độ từ chín tháng tới một năm, vì chú rất tỉnh táo và phốp pháp. Chú ngồi tựa vào ngực mẹ. Chú mỉm cười và nói líu lo với giọng chim nhỏ. Chú cũng mặc toàn trắng như má, với đôi xăng-đan tí xíu ở chân. Y phục đơn giản: một áo dài nhỏ, từ đó lú ra các bàn chân lúc lắc, đôi bàn tay mũm mĩm muốn rờ vào tất cả, và nhất là khuôn mặt nhỏ rất đẹp với đôi mắt mầu xanh dương đậm trong sáng; cái miệng núm đồng tiền ở hai bên khi chú cười nhe ra mấy cái răng nhỏ. Các lọn tóc nhỏ giống như bụi vàng, vì chúng bóng và mịn như tơ.
Người Đạo Sĩ lớn tuổi nhất nói nhân danh tất cả. Ông giải thích cho Maria rằng họ đã thấy, vào một đêm của tháng mười hai trước, một vì sao mới đã thắp sáng lên trên trời với vẻ rực rỡ khác thường. Các bản đồ trời không hề bao giờ có vì sao này hay báo hiệu nó. Tên nó không được biết tới. Nó không có tên. Được sinh ra từ lòng Thiên Chúa, nó đã nở hoa để nói cho loài người một sự thật có phước, một bí mật của Thiên Chúa. Nhưng loài người không lưu tâm, vì linh hồn họ chìm trong bùn. Họ không nhìn lên Thiên Chúa và không biết đọc những lời Người viết ra - Nguyện chúc tụng Người muôn đời - bằng những thiên thể bằng lửa trên bầu trời.
Họ đã thấy ngôi sao và đã cố gắng để hiểu tiếng nói của nó.
Tự nguyện từ bỏ một ít giấc ngủ mà trước đây họ đã chấp nhận cho cơ thể họ. Họ quên ăn để vùi đầu vào việc nghiên cứu hoàng đới, sự giao hội của các hành tinh; thời gian, các mùa, các tính toán về thời gian cổ xưa và các phối hợp về thiên văn, đã nói cho họ tên và sự bí mật của ngôi sao. Tên của nó là “Messi”. Bí mật của nó là: “Đấng Messi đến trong thế giới”. Và họ đã ra đi để thờ lạy Người. Người nọ không hề biết gì về những người kia. Băng qua núi, sa mạc, thung lũng, sông ngòi, đi trong đêm, họ đã đến Palestin, vì ngôi sao đi về hướng này. Rồi họ gặp thấy nhau ở phía bên kia biển Chết. Ý Thiên Chúa đã hội tụ họ ở đó, và cùng nhau, họ tiến lên phía trước. Họ hiểu nhau, mặc dù mỗi người vẫn nói tiếng của mình. Họ hiểu và có thể nói những ngôn ngữ của các nước mà họ đi qua, bởi phép lạ của Thiên Chúa.
Cùng nhau họ đi về Jêrusalem, vì Đấng Messi là Vua của Jêrusalem, vua của người Do-Thái. Nhưng ngôi sao biến mất ở trên trời của thành phố này. Họ cảm thấy con tim họ vỡ ra vì đau đớn. Họ tự xét mình xem có phải vì họ bất xứng với Thiên Chúa. Nhưng lương tâm của họ bảo đảm cho họ. Họ liền đến tìm vua Hêrôđê để hỏi xem Vua Do-Thái sinh ra trong lâu đài nào để họ đến thờ lạy Người. Nhà vua liền tụ họp các thủ lãnh của các thầy cả, các luật sĩ để hỏi xem Đấng Messi sinh ra ở đâu, và họ trả lời ông: “Tại Bétlem xứ Juđa”.
Họ đi tới Bétlem và ngôi sao lại hiện ra trước mắt họ. Nó đã rời Thành Thánh, và tối hôm qua, nó đã gia tăng vẻ rực rỡ của nó. Tất cả bầu trời đều được đốt cháy. Rồi ngôi sao dừng lại, thu thập ánh sáng của các ngôi sao khác vào các luồng sáng của nó và chiếu xuống trên căn nhà này. Họ liền hiểu là trẻ Thiên Chúa sinh ra ở đây. Bây giờ họ thờ lạy Người, dâng cho Người các tặng phẩm hèn mọn của họ, và hơn tất cả, họ dâng cho Người qủa tim của họ, sẽ không bao giờ ngừng chúc tụng Thiên Chúa vì ơn Người đã ban cho họ, và yêu mến Con của Người mà họ được nhìn thấy trong một nhân tính thánh thiện. Rồi họ sẽ trở về cho Hêrôđê biết, vì ông cũng muốn thờ lạy Người.
“Đây, cùng mộc trật: Vàng là thứ thích hợp với một vị Vua, đây là nhũ hương, thích hợp với Thiên Chúa; và đây, ôi Mẹ, đây là mộc dược, vì con Mẹ sinh ra, là Thiên Chúa nhưng cũng là người, trong thân xác của Người và trong cuộc sống làm người, Người sẽ biết cái cay đắng của định luật không thể tránh được của sự chết. Tình yêu của chúng con không muốn nói những lời này, và nghĩ rằng thân xác Người sẽ muôn đời giống như Thần Trí Người. Nhưng ôi Bà! Nếu sự nghiên cứu của chúng con, nhất là nếu tâm hồn chúng con không lầm, thì con Bà là Vị Cứu Tinh, là Đấng Kitô của Thiên Chúa, và vì thế, để cứu thế giới, Người phải mang trên mình Người mọi khốn nạn của thế gian, trong đó có hình phạt và sự chết. Chất nhựa này là để cho giờ đó, để xác thịt thánh của Người không phải biết tới sự hư thối, và bảo trì nó nguyên vẹn tới giờ sống lại. Chớ gì do những của này, Người nhớ đến chúng con và cứu các tôi tớ của Người, bằng cách ban Nước của Người cho chúng. Lúc này, để được thánh hóa, xin Mẹ là Mẹ Người, ban con nhỏ của Mẹ cho tình yêu của chúng con, để nhờ được hôn chân Người, phúc lành của Trời xuống trên chúng con”.
Maria đã thắng vượt sự sợ hãi gây ra bởi các lời của các nhà thông thái, và đã giấu dưới nụ cười nỗi buồn của đám táng được nhắc tới. Cô ban tặng con nhỏ của cô. Cô đặt Người vào cánh tay của người già nhất. Ông hôn Bé và nhận những vuốt ve của Bé, rồi ông trao Người cho những người khác.
Giêsu mỉm cười và chơi với những tua rua và những sợi giây chuyền của ba ông. Người nhìn với vẻ tò mò vào chiếc hộp mở, chứa đầy những cái gì vàng và bóng loáng. Người cười khi thấy mặt trời làm thành một cái cầu vồng khi chiếu vào viên kim cương ở nắp bình mộc dược.
Rồi ba người trả chú bé lại cho Mẹ Người và đứng dậy. Maria cũng đứng lên. Người Đạo Sĩ trẻ tuổi nhất ra lệnh cho người đầy tớ của ông ra ngoài. Lúc đó cả hai phía đều cúi đầu. Ba người còn nói thêm tí nữa. Họ không thể quyết định rời bỏ căn nhà này. Nước mắt cảm động ở trên mọi con mắt. Sau cùng họ tiến ra cửa. Maria và Giuse hộ vệ họ.
Chú Bé muốn xuống dưới nhà nên đưa tay cho người già nhất trong ba người. Chú bước đi như vậy: một tay ở trong bàn tay Maria, tay kia ở trong tay người bác học. Ông này cúi xuống để dắt chú. Giêsu có bước đi chưa vững. Người cười và đập chân vào giải ánh sáng mà mặt trời chiếu trên nền nhà.
Ra tới cửa - không nên quên là căn phòng dài theo suốt bề dọc căn nhà - ba nhân vật từ biệt bằng cách qùi gối lần chót để hôn chân Giêsu. Maria cúi xuống trên đầu bé, cầm tay Bé để hướng dẫn Bé làm cử chỉ chúc lành trên đầu mỗi người. Đó đã là dấu Thánh Giá do ngón tay nhỏ của Giêsu vẽ dưới sự hướng dẫn của Maria.
Rồi ba người xuống cầu thang. Đoàn du mục đã sẵn sàng và đang chờ. Các đầu hàm thiếc ngựa sáng loáng dưới mặt trời đang lặn. Người ta tụ họp ở công trường nhỏ để nhìn cảnh tượng khác thường.
Giêsu cười và vỗ tay. Má Người ẵm Người lên và đứng tựa vào lan can trên đầu cầu thang. Mẹ giữ Người, để một tay trên ngực Người cho khỏi ngã. Giuse xuống dưới với ba ông và giữ giây cương cho mỗi người khi họ trèo lên ngựa hay lạc đà.
Bây giờ chủ cũng như đầy tớ, tất cả đều ở trên yên. Họ ra lệnh khởi hành. Ba người cúi xuống tới sát cổ con vật của họ để chào lần chót. Giuse cũng cúi mình, Maria cũng vậy. Và Mẹ lại cầm tay Giêsu để vẽ một cử điệu từ biệt và chúc lành.
(Dịch giả : Nữ tu Phạm Thị Hùng, CMR.)