News Filters

MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ *** BÀI III: THẦN LƯƠNG KỲ DIỆU *** PHẦN I: BÀI 56-71 *** Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR

04 Tháng Sáu 2021

MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ

BÀI II: THẦN LƯƠNG KỲ DIỆU

PHẦN I: BÀI 56-71

 

 

@@@@@_BÀI 56_@@@@@

 Bài ba :

 THẦN LƯƠNG KỲ DIỆU

 Hc v Rước L

(Ga 6.52-58)

DIỄN TỪ VỀ BÁNH HẰNG SỐNG.

PHẦN HAI (Tiếp theo)

TIỂU ĐOẠN HAI (Ga 6.52-58) HỌC VỀ RƯỚC LỄ

 

XIN NHẮC LẠI : Ở Tiểu đoạn Một (tr.149tt), ta đã học về Thánh Lễ, dưới tựa đề : PHỤNG VỤ THIÊN GIỚI.

Nay là Tiểu đoạn Hai, học về việc Rước Lễ, rước Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, với tựa đề

THẦN LƯƠNG KỲ DIỆU.

Trước khi vào đề, xin nhắc lại tóm tắt điều chúng ta đã nói ở đầu Tiểu đoạn Một (tr.149tt) :

Chúng ta thường quen miệng nói: “Chúa lập phép Thánh Thể để ta được chịu Mình Máu Thánh Chúa làm của nuôi linh hồn !” Qua câu nói đó, chúng ta nghĩ đó là Chúa làm một phép lạ cho bánh rượu hóa thành Mình Máu Chúa: Mà làm phép lạ là một chuyện quá dễ đối với Chúa là Đấng quyền phép vô biên ! Chẳng phải Chúa đã làm bao nhiêu phép lạ khác đấy ư : chữa lành những kẻ mù, què, câm điếc, quát một tiếng là sóng gió phải yên lặng, phán một lời là ngay cả quỉ ma cũng phải xuất ra khỏi người bị ám tức thì…, và kinh thiên động địa hơn nữa là cho Ladarô chết chôn đã bốn ngày sống lại !

Chính vì hiểu sơ xài như vậy, nên chúng ta không thấy sự cao cả của phép Thánh Thể, vì thế không trân trọng quí mến cho đủ. Giá chúng ta biết được rằng : để có Thịt và Máu mà ban cho ta làm thần lương nuôi sống, Chúa Giêsu đã phải chết đã, hẳn chúng ta sẽ cảm động, tri ân và yêu mến Người hơn ; và sẽ lên rước Mình Máu Thánh Người cách trân trọng hơn. Chuyện đó xảy ra thế nào, dưới đây sẽ nói.

Còn nữa, giá mà chúng ta còn được biết thêm rằng : Chúa thấy chúng ta không có đủ sức để đi cho tới cùng suốt cả bề dài một cuộc lữ hành dưới thế vất vả gian nan, mà không bị gục ngã giữa đường dưới khối nặng tội lỗi, mà không bị mất đức tin dưới sức ép của thử thách…, Chúa bèn lập ra phép Thánh Thể là “Thần Lương” để bổ sức cho ta.

Nhớ tích truyện ông tiên tri Êlia ! Ông nhiệt thành lo phục vụ Thiên Chúa, nhưng người cầm quyền vô đạo tìm giết ông, ông phải chạy trốn trên con đường dài hơn 200 cây số, từ miền Bắc tới sa mạc ở miền Nam tổ quốc. Đến đây ông đuối sức và gục xuống trong thất vọng, ông xin Chúa cho ông chết. Nhưng Thiên Chúa muốn ông còn phải đi xa hơn, tới tận núi Khôréb để gặp Người, cho nên Người đã sai Thiên thần đến ban cho ông một thứ bánh và nước uống lạ. Nhờ ăn uống thứ lương thực kỳ diệu đó, ông đủ sức đi một mạch 40 đêm ngày tới núi Khôreb để gặp Thiên Chúa. (1 V 19.1-8).  Tích này là hình bóng báo trước về khả năng bổ sức của Thần Lương kỳ diệu là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu !

Chưa hết, lòng nhân hậu của Chúa không dừng lại ở việc nuôi dưỡngtăng sức cho tâm hồn loài người như nói trên, mà còn muốn trở thành tấm bánh nhỏ, để ngự trong Nhà Tạm âm thầm đồng hành” với con cái trên suốt con đường thiên lý về đến quê trời, theo lời Người đã hứa :

“Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28.20),

giống như xưa Người đã trú ngụ dưới chiếc Lều vải tạm bợ, để cùng với dân Israen đồng hành suốt 40 năm rong ruổi trong hoang địa, trước khi họ tiến vào chiếm Đất Hứa.

Trên đây nói sơ lược ít điều để giúp chúng ta hiểu về công ơn lớn lao biết bao của Chúa khi lập phép Thánh Thể, và để giúp cảm nhận tình Chúa yêu thương và chu đáo lo lắng mọi bề cho chúng ta như thế nào, ngõ hầu chúng ta hết lòng cảm ơn Chúa và hết sức trân trọng rước Mình Máu Thánh Chúa.

Sau đây, ta sẽ tìm hiểu kỹ lưỡng những điều tuyệt diệu nói trên của mầu nhiệm Mình Máu thánh Chúa.

VÀO ĐỀ :

Hãy nhớ lại ở Bài 2 (tr.181tt), chúng ta đã được biết : Trong quá trình việc hiến tế, sau khi Thiên Chúa chấp nhận và thần hóa tế vật, chiếm hữu nó làm của mình rồi, Người đổ vào đó, phú ban vào đó tất cả sự sung mãn Thần Tính của Người, tất cả Thần Khí, Sự sống, sự Thánh Thiện và muôn vàn ân phúc… Rồi :

Thiên Chúa sẽ ban Tế Vật nhiễm đầy phúc lộc thần thiêng ấy như LỘC THÁNH xuống lại cho người dâng lễ,

để họ “thụ Lộc” hay “thụ tộ” tức là ăn uống. Như thế họ đuợc ăn uống trước mặt Thiên Chúa, như thể được vinh dự “đồng bàn” với Người, và nhờ đó họ múc lấy sự sống từ thức ăn thánh, và họ được thông hiệp với Thiên Chúa, họ vui hưởng niềm thân mật với Người …

Tuy nhiên ở Bài 2 đó chỉ nói tóm tắt sơ qua, ở đây, Bài 3, chúng ta sẽ học hỏi sâu rộng về Lộc Thánh đó mà Thiên Chúa ban xuống cho người dâng lễ ăn uống. Công Giáo thường gọi cách đơn sơ là Rước Lễ.

 Trước tiên, mời nghe đoạn Tin Mừng Ga 6.51-59 :

 51 "Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt Tôi đây vì sự sống của thế gian.”

52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?” 53 Đức Giê-su nói với họ : “Thật, Tôi bảo thật các ông : Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.

54 Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, Và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ sống nhờ Tôi như vậy. 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

 59 Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.

Ở đoạn này của Diễn từ Bánh Sự Sống (Ga 6.52-58), Chúa Giêsu khai triển những phúc lộc thần thiêng chứa trong LỘC THÁNH nói trên, qua 4 hiệu quả sau đây :

Ai ăn Thịt uống Máu ấy :

1- sẽ được có sự sống nơi mình (c.53) ;

2- được sống muôn đời và sống lại toàn vẹn xác hồn (c.54) ;

3- được ở lại trong Chúa và Chúa ở lại trong họ (c.56)

4- sống nhờ Chúa như chính Chúa đã sống nhờ Chúa Cha (c.57).

***

 

@@@@@_BÀI 57_@@@@@

HIỆU QUẢ THỨ NHẤT :

AI ĂN THỊT UỐNG MÁU CHÚA

SẼ ĐƯỢC CÓ SỰ SỐNG NƠI MÌNH (c.53)

Rước Mình Máu thánh Chúa thì ngày nay mọi Kitô hữu đều đã quen làm, nhưng ở thời đó, khi Chúa Giêsu nói điều ấy tại Hội đường Ca-phac-na-um cho người Do Thái, thì những thính giả ấy đâu có hiểu, vì lúc ấy nó còn quá cao sâu bí nhiệm đối với họ, cho nên thoạt nghe Chúa nói :

"Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây (hiến tế) vì sự sống của thế gian" (c.51),

họ chỉ hiểu theo lẽ tự nhiên, theo nghĩa đen, vì thế họ liền phản ứng dữ dội : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?” (c.52). Điều Đức Giêsu nói, không những họ cho là phi lý mà còn coi là ghê tởm nữa. Họ như muốn hét lên : "Chúng tôi đây, người Do Thái, không bao giờ ăn thịt người như quân mọi rợ".

Quả thật ở nơi những dân tộc bán khai mọi rợ, thấy có tục ăn thịt người, nhất là khi bắt được những chiến binh địch, đặc biệt những chiến sĩ nổi tiếng hùng mạnh, can trường, họ ăn gan, uống máu những người ấy, vì tin tưởng rằng “ăn gì bổ nấy”, ăn gan uống máu chiến sĩ thì nhờ đó họ rút được sức mạnh và tính can đảm của những chiến binh ấy vào thân mình.

Cũng có thể có một số thính giả Do Thái khác phản ứng nhẹ nhàng hơn : "Làm sao một sứ giả thiêng liêng từ trời xuống như Đức Giêsu, lại cho người ta ăn thịt mình ? Chúng tôi cần một cái gì thiêng liêng và cao sâu hơn".

- Chúng ta phải thông cảm với người Do Thái, vì không những họ tỏ ra ghê tởm trước lời tuyên bố ăn thịt uống máu người, mà còn vì họ có thêm một lý do nữa mà phản đối, đó là họ bị Lề Luật Thiên Chúa cấm ăn tiết (= uống máu) : "Anh em phải nhất quyết không ăn tiết, vì máu là mạng sống, anh em sẽ đổ xuống đất như đổ nước. Như vậy anh em và con cháu anh em sau này được hạnh phúc, vì anh em làm điều ĐỨC CHÚA coi là ngay thẳng." (Đnl 12.16,23-24).

Nếu trái lệnh Thiên Chúa thì : "Bất cứ người nào thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, ăn bất cứ thứ huyết nào, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt kẻ ăn huyết và sẽ khai trừ khỏi dân nó" (Lv 17.10t).

Lý do việc cấm ngặt ấy là vì “máu là mạng sống”, sự sống nằm trong máu, hết máu là hết sống, mà Chúa của sự sống là chính Thiên Chúa chứ không phải con người, do đó đụng đến máu là đụng đến quyền Chủ Tể của Thiên Chúa trên sinh mạng mọi loài.

Thế mà ở đây Đức Giêsu lại hiến Thịt và Máu cho loài nguời ăn uống mà được sống muôn đời ! Oái oăm thay !

- Đức Giêsu không hề nao núng trước phản ứng của thính giả, trái lại Người còn nhấn mạnh hơn đến sự cần thiết  phải ăn Thịt uống Máu Người :

“Thật, Tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người,

các ông không có sự sống nơi mình."

Người dùng kiểu nói tiêu cực "nếu không ăn uống … thì không có…" là một kiểu nói dễ đánh mạnh vào trí óc người nghe, hơn là kiểu nói tích cực "hãy ăn uống… thì sẽ có…".

* Ai đó thắc mắc : Chúng tôi hơi ngạc nhiên vì thuở trước học giáo lý thì được dạy rằng, khi ta tin và chịu phép Rửa tội, thì được ơn Thánh sủng, lãnh sự sống của Thiên Chúa nơi mình rồi (xem Ga 1.12; Rm 6.4tt), thế mà nay Đức Giêsu lại nói phải ăn Thịt uống Máu Người thì mới có sự sống trong mình ?

Giải đáp : Sau khi tin và chịu Phép Rửa, đúng là ta có Sự Sống Thiên Chúa trong mình (thường được gọi là ơn Thánh sủng hay ơn Thánh hóa), và ăn uống Thịt Máu Chúa mà Đức Giêsu nói ở đây thì cũng có Sự Sống như vậy, như thế Bí tích Thánh Tẩy (Rửa tội) và Bí tích Thánh Thể (ăn uống Thịt Máu Chúa) đều là những phương thế lãnh nhận sự sống Thiên Chúa vào mình. Nhưng nếu Đức Giêsu nhấn mạnh về việc phải ăn uống Thịt Máu Chúa thì mới có Sự sống, là vì – theo Tin Mừng thánh Gioan trình bày – Người muốn chúng ta thấy có một tiến trình giữa hai Bí tích đó : việc Rửa tội, là một ơn tái sinh, đã đành là được có sự sống Thiên Chúa, song chỉ như là một mầm sống non nớt của một em bé sơ sinh, khởi đầu cuộc đời thiêng liêng ; vậy muốn lớn lên thành người trưởng thành, thì phải ăn uống nuôi dưỡng mới có sức sống nơi mình mà phát triển.

Cụ thể, trước hết cần phải cho em bú sữa mẹ, rồi khi lớn lên một chút, phải ăn các thực phẩm đặc mới phát triển và khỏe mạnh được. Thư Thánh Phêrô viết : “Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa thiêng liêng tinh tuyền, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ” (1 Pr 2.2), Thánh Phêrô có ý bảo : muốn lớn lên và hưởng ơn cứu độ, chúng ta phải khao khát sữa giống như đứa bé sơ sinh khao khát sữa mẹ, mà sữa cho ta bây giờ là sữa thiêng liêng tinh tuyền.

Nhưng sữa thiêng liêng ấy là cái gì ? Thánh nhân lại không nói rõ, vì nghĩ rằng các tín hữu thời đó đã biết cả rồi. Còn chúng ta ngày nay có thể hiểu “sữa” đó là tổng hợp những phương thế Thiên Chúa sắm dọn sẵn cho ta trong Hội Thánh, chẳng hạn lời giáo huấn, cầu nguyện, phụng vụ, Bí tích v.v…, cách riêng Lời Chúa và Thịt Máu thần thiêng của Chúa. Mà Thịt Máu thần thiêng ấy chính là điều Đức Giêsu nói ở đây : “Thật, Tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình." Ăn uống Thịt Máu thần thiêng của Chúa, ta  mới có sức sống nơi mình mà lớn lên, đạt ơn cứu độ. Trái lại nếu chểnh mảng thờ ơ, mầm sống non nớt kia sẽ chết dần chết mòn…

* Thêm một thắc mắc nữa :

 Sự Sống Chúa nói đó là cái gì mà quí giá đến nỗi Chúa bảo "Không ăn thịt uống máu Người thì không có sự sống nơi mình"? Bộ chúng tôi đây khi không ăn Thịt uống Máu Ngài thì đều là những kẻ không có sự sống hay sao ? Chúng tôi có ai chết đâu, vẫn sống cả đấy thôi !

Thì ra Chúa nói đến một sự sống khác sự sống thể lý của loài người. Đó là SỰ SỐNG THẦN LINH, SỰ SỐNG CỦA CHÍNH THIÊN CHÚA, mà Chúa ban tặng cho những ai ăn Thịt uống Máu Người. Vì trước mắt Thiên Chúa, loài người, vì đã phạm tội, đều là những kẻ chết phần linh hồn, không có Sự sống Thần linh. Thánh Phaolô xác nhận :

"Anh em đã chết vì những sa ngã và tội lỗi của anh em.”(Ep 2.1)

- “Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã…”(Cl 2.13)

Thánh Gioan còn nói nặng hơn :

“Ai phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỉ vì ma quỉ phạm tội từ lúc khởi đầu…” (1Ga 3.8).

Quả thật do phạm tội, nhân loại đã cắt đứt khỏi nguồn sống là Thiên Chúa, nên không có sự sống Thiên Chúa trong mình. Mà không có sự sống Thiên Chúa trong mình là chết, chết phần hồn, tuy phần xác vẫn sống, nhưng chẳng khác gì “những thây ma di động” vì là “người của ma quỉ”, "thuộc về ma quỉ" (1 Ga 3.8) nó vốn là “tên lãnh chúa gây ra sự chết” (Dt 2.14).

Vì vậy mà đời sống người ta tràn ngập cay đắng, khổ đau, không hạnh phúc, cho dù họ tìm mọi thú vui đời này để khỏa lấp, nhưng vẫn không nếm được hạnh phúc thật. Và sự trầm luân họa khốn muôn kiếp trong lửa hỏa hào sẽ là tương lai đang chờ đợi họ. (xem hình)

 Không nói gì đâu xa, ngay cả những người “tiếng là Kitô hữu”, nhưng nếu đã thường rước Mình Máu Chúa cách thờ ơ, chiếu lệ, chứ không phải với lòng tin yêu, thì họ cũng không có Sự Sống Thần linh của Chúa nơi mình, không cảm thấy hạnh phúc trong cuộc đời, hơn nữa có thể nói : họ là những kẻ chết, bằng chứng là họ vẫn ngụp lặn trong tội lỗi, không có sức để từ bỏ tính xác thịt, cùng những đam mê, dục vọng xấu xa tội lỗi đưa đến sự chết đời đời. Nguy hiểm như thế mà họ vẫn nghĩ mình không sao.

 Vì thế, cần phải ăn uống Thịt Máu Chúa (tức Rước Lễ) cách xứng đáng để có Sự Sống của Thiên Chúa trong mình.

Khi có Sự sống thần linh ấy trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy thế nào ? Thưa : Có thể nói rằng Thiên Chúa sống hạnh phúc làm sao, ta cũng phải cảm thấy được thông chia phần nào như vậy.

1)  Trước tiên, khi Rước Lễ, vì ta đang có Chúa Giêsu là chính Sự Sống của Thiên Chúa trong mình, thì Sự Sống ấy sẽ làm ta sống hạnh phúc ngay giữa biển đời đầy bão tố như Thiên Chúa đang sống hạnh phúc trên trời vậy : Chúng ta sẽ cảm thấy mình được bình an, tâm hồn luôn thảnh thơi thanh thản, luôn hân hoan vui sướng, không còn nóng tính, tức giận như trước, dễ tha thứ cho những người xúc phạm đến ta cách này cách khác, thấy dễ sống chan hòa với mọi người, cảm thấy như ai cũng dễ thương, nên ta không ganh ghét loại trừ ai ; dễ dàng chia sẻ tinh thần cũng như vật chất cho người khác thiếu thốn hơn mình… Ôi ! Quả thật là ta đã được sống Thiên Đàng ngay trên trần thế này vậy ! 

2)  Kế đến, Sự Sống ấy giúp chúng ta vững bước mà phát triển mạnh mẽ, không gục ngã dưới sức nặng tội lỗi trên con đường lữ hành về Thiên Đàng, vì nhờ mãnh lực của Thần Lương ấy, ta vượt thắng tội lỗi, dục vọng, đam mê…; cũng không bị đè bẹp dưới gánh nặng cuộc đời đầy gian truân, đau khổ và thử thách …, vì Chúa Giêsu đã kêu mời : “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11.28).

Chúa sẽ cho nghỉ ngơi và bồi dưỡng bằng sự gì ? Bằng sức sống thần linh chứa trong Mình Máu thánh Người cách riêng. Chúng ta còn nhớ tích truyện ông tiên tri Êlia đã thuật trên kia (tr.284), đấy là hình bóng tiên báo Bánh trường sinh là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, Bánh thần diệu, ban cho người trần ăn mà có đủ sức đi trên đường lữ thứ về thiên quốc.

 

@@@@@_BÀI 58_@@@@@

  • May mắn hơn người Do Thái, chúng ta nhờ đã xem lời giải thích 51 ở Bài 2 (tr.155tt và tr.179tt) mà hiểu rằng: Thịt Máu Chúa Giêsu, sau khi được hiến dâng làm lễ hy sinh [1] trên thập giá, đã được Thiên Chúa Cha chấp nhậnthần hóa bằng việc phục sinh, bởi vậy không còn là thịt và máu thông thường nữa, nhưng đã được biến đổi trở nên thần thiêng để ban Sự Sống thần linh. Vì thế khi chúng ta lên Rước Lễ, vâng theo lời Chúa Giêsu dạy là hãy ăn Thịt uống Máu Chúa, chúng ta sẽ không thấy nhờm gớm như thể phải ăn miếng thịt và uống máu thông thường nữa.

Sách Tin Mừng cho chúng ta thấy vài ví dụ minh họa về sự biến đổi thần diệu ấy nơi Chúa Giêsu : Sau phục sinh, Chúa Giêsu dường như đã biến đổi thành con người khác lạ, đến nỗi :

-  khi Người hiện ra với cô Maria Mađalêna, cô không nhận ra Người cho đến khi Chúa gọi đích danh : “Maria” ;

- hay như khi hai môn đệ đi về làng Emmau, không nhận ra người khách lạ đồng hành bên cạnh là Chúa, cho đến lúc Người lập lại cử chỉ “bẻ bánh” như ở bữa Tiệc Ly. Vừa chính lúc ấy, Người lại biến đi mất...

- Ngay cả khi nơi ở của các Tông đồ dù cửa đóng then cài kín mít, vì sợ người Do Thái đến bắt, nhưng Người vẫn có thể hiện đến với họ trong nhà, tường vách không cản được Người !

Các tích đó cho thấy con người Giêsu sau phục sinh đã biến đổi trở nên thần thiêng không còn bị ràng buộc bởi các định luật tự nhiên của trái đất. Tất nhiên Thịt Máu Người cũng trở nên thần thiêng, làm Của Ăn Thiêng cho loài người.

  • Nếu Thịt Máu đã biến đổi trở nên thần thiêng, thì loài người phàm trần làm sao lãnh nhận được?

Xin trả lời : Với sự khôn ngoan thượng trí vô song của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã nghĩ ra một cách, để người phàm trần chúng ta có thể lãnh nhận được Thịt Máu đã trở nên thần thiêng của Người mà sống :

đó là lập Bí tích Thánh Thể, hay nói cách khác, Chúa Giêsu làm cho Thịt Máu đã trở nên thần thiêng của Người ‘ẩn dưới’ hình bánh hình rượu [2] cho người phàm dễ lãnh nhận. [3] 

Nhưng vẫn có những người không hiểu ý tốt của Chúa khi “ẩn mình dưới” hình bánh rượu như thế, cho nên cứ muốn thấy Thịt Máu thật của Chúa, vì thế họ đưa ra thắc mắc: “Hội Thánh nói : Lên rước Mình thánh Máu thánh Chúa, song tôi đâu có thấy Thịt Chúa Máu Chúa, chỉ thấy miếng bánh và rượu nho”.

Có lẽ để thoả mãn đòi hỏi của mấy người cứng tin ấy, cũng như để củng cố đức tin non yếu hay nghi ngờ của nhiều tín hữu, nên đôi lần Chúa đã làm phép lạ cho hình bánh hình rượu bỗng nhiên hiện hình thành thịt tươi máu đỏ thật. Đan cử một hai ví dụ: Thế kỷ VIII, ở thành Luciano, nước Ý, bánh và rượu sau khi truyền phép đã hóa thành Máu và Thịt Chúa. Phép lạ này đã được Hội Thánh công nhận.       

            

1) Hình trái : Bánh thánh trở thành Thịt Chúa, nay miếng thịt ấy đã khô lại và được đặt trong mặt nhật.

2) Hình giữa : Máu thánh cũng đã đông lại đóng cục và được đựng trong chén phalê.

3) Hình phải: Cả hai thiết bị đựng Thịt và Máu Chúa được nghệ nhân khéo léo ghép thành một hào quang mặt nhật, có hai tượng Thiên thần đứng trên một cái đế nâng đỡ.

Còn mới đây ở thế kỷ 21 này, Thiên Chúa lại muốn củng cố niềm tin của chúng ta đang sống trong thế kỷ đầy óc duy lý, bằng một phép lạ Thánh Thể thần diệu nữa.

Trong một bản tin của “Phong trào Maria”, có kể lại Phép lạ máu chảy ra từ Mình Thánh Chúa, trong Thánh Lễ do Đức Giám Mục CLAUDIO GATTI cử hành. Để trọn vẹn tính xác thực, xin nhường lời cho chính Đức Giám mục :

“Vào ngày 11-6-2000, nhằm Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, trong lúc tôi dâng Thánh Lễ tại Thánh đường Đức Mẹ Thánh Thể, thì một phép lạ Thánh Thể tuyệt vời đã xảy ra. Ngay khi tôi vừa đọc xong lời truyền phép Thánh Thể, máu bắt đầu chảy ra từ Mình Thánh Chúa… Tôi cúi xuống Mình Thánh Chúa mà tôi đang cầm trong đôi tay, và tôi dán mắt nhìn vào Máu Thánh đang lan rộng ra gần hết Mình Thánh.

Tôi sững người trong một khoảnh khắc tưởng như bất tận đối với những người đang hiện diện trong Thánh đường. Họ tưởng tôi bị bệnh, vì do quá xúc động, mặt tôi tái nhợt đi rồi lại đỏ bừng lên. Khi tôi trấn tĩnh lại được một chút, tôi giơ cao Mình Thánh lên. Những người hiện diện trong Thánh Lễ đều xúc động, nhưng mọi sự đều diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm… […]

Sau khi đọc lời truyền phép Máu Thánh, và nâng Chén Thánh lên, tôi cầm lấy đĩa thánh đựng Mình Thánh chảy máu…, đi giữa hai hàng ghế trong Thánh đường, để cho những người có mặt ở đó thấy rõ, biết chắc sự thật đã xảy ra như thế, ngửi được hương thơm từ Mình Thánh chảy máu tỏa ra, và làm chứng trong tương lai rằng : Phép lạ Thánh Thể tuyệt vời đã xảy ra.

Khi tôi “bẻ bánh”, Máu Thánh tiếp tục nhỏ giọt trước mắt những người hiện diện.

Mặc dù rất tiếc, tôi phải rước Mình Thánh chảy máu đó, vâng theo luật số 113-116, chương IV dạy trong giáo huấn về cử hành Thánh Lễ có trong Sách Lễ. Khi rước Mình Thánh Chúa, tôi được hưởng hương vị ngọt ngào của Máu Thánh Chúa Giêsu, và tôi cảm thấy sức nóng mãnh liệt cũng như hương thơm ngọt ngào xâm chiếm khắp người tôi.”

Cho dù một vài lần, Thiên Chúa làm những phép lạ kể trên để củng cố niềm tin yếu ớt của con cái, nhưng cách chung, chúng ta phải nghe Đức Giáo Hoàng Lêô Cả có lần đã nói rằng : “Những gì hữu hình nơi Chúa Cứu Chuộc chúng ta thì đã được chuyển vào các bí tích !” Hiến tế máu đổ thịt rơi xưa, với tất cả những gì hữu hình thấy được (quân lính, cây gỗ thập giá, đinh sắt, mũ gai v.v...), nay đã ẩn trong Bí tích huyền nhiệm, tức là dưới hình bánh và hình rượu trơ trụi, mà đức tin cho ta nhận biết là ở đó chính Máu Thịt Chúa Giêsu hiện diện thực sự.

Kết luận :

Chúng ta, người phàm trần, có thể lãnh nhận Mình và Máu Chúa, nay đã trở nên thần thiêng, khi ta lấy lòng tin mà lên rước Bí tích Thánh Thể, tuy là một cái gì vật chất (hình bánh, hình rượu ta thấy và cảm nhận được mùi vị), song nó là ‘dấu chỉ’ về một thực tại thiêng liêng sâu kín, tức là chính Chúa Kitô đã hiến thân chịu chết và đã sống lại “ẩn mình” trong đó. Và khi ta lãnh nhận Bí tích ấy, chúng ta tiếp nhận đích thân Chúa Kitô Tử nạn và Phục sinh sống động đang ở trong vinh quang Chúa Cha.

 

@@@@@_BÀI 59_@@@@@

  • Tiếp nhận Chúa Kitô trong Phép Thánh Thể thì ta được sự gì ?

1.- Được Người chuyển Sự Sống thần linh có trong mình Người sang cho ta, để ta được có Sự Sống thần linh ấy trong mình. Mời đọc lại những điều đã học ở trên kia (tr.287tt).

Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho để minh họa việc chuyển sự sống Chúa sang chúng ta :

"Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa quả, nếu không gắn liền với cây nho, (để được nhựa sống từ thân cây nho chuyển sang cho), anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa quả, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15.4-5)

Cành cây tất nhiên cần dòng nhựa sống từ thân cây chuyền qua, để có thể luôn xanh tươi tràn sức sống, và từ đó trổ sinh hoa trái, nghĩa là các nhân đức, các việc lành – và theo Tin Mừng Gioan (15.16) – là các việc tông đồ. Hình ảnh ấy giúp chúng ta ý thức được chúng ta cần đến Chúa như thế nào, cần gắn liền với Người làm sao, bằng không ta nhất định không thể sinh hoa quả gì tồn tại cho Nước Trời, cho dù ta hoạt động khuấy trời động đất đi chăng nữa.

2.- Được biến đổi nên con người thần thiêng.

Đề tài sự biến đổi con người chúng ta nhờ Bí tích Thánh Thể là điều Hội Thánh hằng tin tưởng, và Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Giáo Hội, số 26, trích lại lời Đức Giáo Trưởng Lêô Cả, đã nói vắn tắt như sau : “Việc tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành Đấng mà chúng ta nhận lãnh”.

Và Hội Thánh thường biểu lộ niềm tin ấy ra trong những lời cầu nguyện của phụng vụ, cách riêng phụng vụ Thánh Thể.

Chẳng hạn như Lời nguyện Hiệp Lễ này :

“Lạy Chúa, Chúa đã ban Bí tích Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng chúng con ; nhờ hiệu lực của Bí tích này, xin làm cho cuộc đời chúng con hoàn toàn đổi mới.” (Thứ năm, Chúa Nhật III Mùa chay).

Hôm sau cũng nguyện:

“Lạy Chúa, chúng con vừa kết hợp với Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Xin Chúa dùng Thần khí của Người mà đổi mới chúng con…” 

Lời nguyện Hiệp lễ (Thứ tư, Bát nhật phục sinh) :

“Xin thanh tẩy chúng con sạch mọi vết nhơ con người cũ, và biến đổi chúng con thành tạo vật mới”.

V.v…

Hàng ngày hay hàng tuần lãnh nhận Bánh Giêsu nơi Thánh Lễ bàn thờ, ta sẽ được Bánh thần thiêng ấy biến đổi, để chúng ta trở nên những Tấm Bánh Giêsu tốt lành thánh thiện, làm vinh quang cho Thiên Chúa ; và cũng trở thành những Tấm Bánh mang sự sống cho người khác, thay vì những tấm bánh vị kỷ nhồi bằng bột cũ mốc là những tính hư nết xấu, tội lỗi của trần gian.

Vì sao ta trở nên tồi tệ như vậy ?

Vì chúng ta lãnh nhận Thần Lương ấy không thành tâm, không tin tưởng…, vì thế chưa nhận được sức tác động biến đổi của Thánh Thể. Do đó chúng ta chưa thể từ bỏ mình, cứ giữ nếp sống cũ, không biến đổi để trở nên giống Chúa. Ta vẫn chưa từ bỏ được con người cũ tội lỗi, do đó biết bao lần vào tòa Hòa giải, ta cứ xưng đi xưng lại cũng những thứ tội lỗi mà không chịu chừa, vì dường như chúng đã dính kết vào da thịt mình, vào linh hồn mình không tẩy xóa được ? Vì vậy, chúng ta chẳng trở nên tấm bánh cho người khác được sống, như Chúa đã trở nên tấm bánh để nuôi sống chúng ta.

Vậy, ta cần phải đón nhận :

Tác động biến đổi của Thánh Thể !

Đúng vậy, khi ta lên Rước Lễ, ăn uống Thịt Máu Chúa Kitô, không những được có Sự Sống của Thiên Chúa nơi mình như đã nói trên, mà còn xảy ra một sự biến đổi ! Thông thường, sau khi ăn đồ ăn thức uống trần gian, cơ thể ta tiêu hóa chúng và biến chúng thành thịt máu ta, bồi dưỡng thân thể ta. Còn khi rước Thịt Máu thần thiêng của Chúa, ta không biến thành thịt máu ta, nhưng ngược lại, chính Chúa tác động biến đổi ta nên giống Người, có sự sống của Người, có sức mạnh của Người.

Thánh Tiến sĩ Augutinô viết trong cuốn ‘Tự Thuật’ : "Dường như con nghe Chúa phán từ trời cao : 'Ta là Lương Thực dành cho kẻ mạnh, cứ lớn mạnh lên đi rồi sẽ được ăn Ta. Con sẽ chẳng biến Ta thành con như biến thức ăn thành máu thịt con, mà chính con sẽ được biến đổi nên Ta." (Bài Kinh Sách, Lễ ngày 28 tháng 8).

Chỉ vì không hiểu sự biến đổi ngược chiều ấy, mà nhiều lần nghe những tín hữu sốt sắng nói một cách ngây thơ rằng : "Sau khi rước Mình Máu Thánh, tôi cảm thấy Máu Chúa chảy rần rần trong huyết quản tôi.” Những người đó ngây thơ nghĩ rằng Thịt Máu Chúa cũng giống như thức ăn thông thường, khi ta ăn vào, bộ tiêu hóa của ta chuyển hóa thành máu chảy trong huyết quản ta để nuôi thân thể ta. Không có chuyện ấy đâu ! Thánh Thể là Mình Máu Chúa Giêsu đã được hiến tế, và được Thiên Chúa Cha chấp nhận và thần hóa. Bởi vậy tuy vẫn là Mình Máu thật sự, nhưng đã được thần hóa, thiêng hóa không còn là Thịt Máu vật chất bình thường nữa, cho nên không tiêu hóa thành máu chảy rần rần trong huyết quản của thân thể ta. Ngược lại Mình Máu thần thiêng của Chúa sẽ biến đổi ta nên thần thiêng giống Chúa.

Sự biến đổi nên thần thiêng ấy thực hiện như thế nào?

Nghe thoáng qua, sự biến đổi nên giống Chúa có vẻ như một tác động luân lý, đạo đức giúp cho ta nên nhân đức hơn, thánh thiện hơn như ta thường cầu nguyện : “Xin uốn lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa”. Nhưng xét kỹ mới thấy sự biến đổi ấy có ý nghĩa rất sâu xa : nó không chỉ làm cho ta dần dần bỏ bớt tội lỗi, bỏ các đam mê, bớt tính xác thịt... để giúp ta nên đạo đức, mà còn nhất là làm ta càng ngày càng được thần thiêng hóa, “thần linh hóa” nên giống như Thiên Chúa là Thần linh.

Nhờ đó ta mới có thể vào Thiên Đàng – là Cõi Thần Linh của Thiên Chúa – để sống với Thiên Chúa là Thần Linh, vì có giống nhau thì mới ở với nhau được. Người đời thường nói: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.” Những người có những điểm giống nhau thì mới chung sống hòa thuận với nhau được. Cứ lấy chuyện đời thường mà nói, thì có ai trong chúng ta lại vui thích chung sống với một người khác tính khác nết, xung khắc từ lời ăn tiếng nói đến việc làm ? Biết bao người đã thành vợ thành chồng rồi mà lại ly dị nhau cũng vì vậy.

Ta với Chúa cũng thế, càng trút bỏ những nhơ nhớp tội lỗi phàm hèn, tục lụy trần ai, càng thần thiêng hóa nên giống Chúa, ta càng xứng đáng được ở với Chúa trong cõi thần thiêng. Vì nếu không được biến đổi như thế, thì Thánh Kinh phán rằng :

"Máu thịt (tức xác thịt tự nhiên của loài người) không thể thừa hưởng (tức là vào) Nước Thiên Chúa, cũng như sự hư nát không thể thừa hưởng được sự bất tử.” (1 Cr 15.50).

@@@@@_BÀI 60_@@@@@

Tiến trình của việc biến đổi ấy.

Nhờ Thư thứ nhất của Thánh Gioan, ta có thể biết tiến trình ấy sẽ diễn ra trong hai giai đoạn :

“Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa (giai đoạn 1)
nhưng chúng ta sẽ như thế nào (mai sau), điều ấy chưa được bày tỏ.
Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện,
chúng ta sẽ nên giống như Người, (giai đoạn 2)
vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.”

(1 Ga 3.2).

Giai đoạn 1 : Hiện giờ ta đã được là con cái thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ta không hề quên rằng thực chất ta vốn là những kẻ “đã chết vì những sa ngã và tội lỗi” (Ep 2.1; Cl 2.13), vậy nhờ cái gì mà ta được biến đổi từ tình trạng  chết sang tình trạng được sự sống và trở nên con cái thực sự của Thiên Chúa, dù vẫn còn bất toàn, khiếm khuyết, vẫn còn nhiễm nhiều tính mê nết xấu, nhiều khi còn phạm tội nữa (1Ga 1.8 – 2.2) ?

Xin trả lời : Trong Tin Mừng Gioan (3.3-6), Đức Giêsu cho biết, đó là nhờ một hành động tuyệt vời của Thần Khí, Ngài tác động biến đổi con người xác thịt đã chết vì tội lỗi, thành con người có sự sống, được trở nên con người thần thiêng, nhờ đó ta mới có thể vào được Nước Thiên Chúa. [4]

Đây ta hãy xem : Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô, một thành viên lão thành trong Đại Hội Đồng Do Thái và là bậc thầy vị vọng trong dân Israen thế này :

“Thật, tôi bảo thật ông : không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi trên.” (Ga 3.3)

Đức Giêsu dùng chữ “sinh lại” (tái sinh) [5] để nói về việc biến đổi từ chết thành sống ấy, và còn bảo là chính Thần Khí Thiên Chúa thực hiện việc sinh ra :

Thật, Tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi ... Thần Khí.  (Vì) cái gì bởi xác thịt sinh ra (chỉ) là xác thịt; cái gì bởi Thần Khí sinh ra là Thần khí.” (Ga 3.5-6)

Nghĩa là : Khi ta sinh ra bởi cha mẹ trần thế - vốn bẩm tính chỉ là những con người xác thịt - thì ta là người xác thịt (theo tính tự nhiên), mà hễ là con người xác thịt, thì “không thể vào Nước Thiên Chúa” được, vì nơi đó là thiên giới, là cõi thần linh không có chút gì vật chất hay xác thịt lọt vào được. Chẳng phải có lần ta đã nghe lời Thánh Kinh nói : “Xác thịt và khí huyết không thể thừa hưởng Nước Thiên Chúa được, cũng như cái hư nát không thể thừa hưởng sự bất diệt được.” (1 Cr 15.50) ?

Để hiểu khoảng cách giữa Thần linh và xác thịt, xin lấy một ví dụ “hơi khó nghe” : Trong một gia đình sang trọng, lịch sự sạch sẽ thơm tho, có thể nào người ta lại cho một con heo – vốn là một loài động vật thấp hèn chứ không phải loài người như mình, hơn nữa lại còn bẩn thỉu hôi hám chỉ thích trầm mình trong bùn nhơ – đến ở chung với họ, ăn chung bàn cơm với họ được không ? Giả sử nếu muốn cho nó chung sống với mình, người ta không chỉ phải tẩy rửa nó cho sạch sẽ thơm tho, mà còn phải biến đổi nó nên loài người giống như mình.

Thì loài người chúng ta trước Thánh Nhan Thiên Chúa cũng một cách nào tương tự như vậy, cần phải được không những tẩy xóa tội lỗi mà thôi, mà còn phải được biến đổi nên thần linh như Thiên Chúa là Thần linh.

Đức Giêsu bảo: Việc đó xảy ra khi ta được “sinh ra” lại bởi Thần Khí Thiên Chúa (Ga 3.6), ta được trở nên Thần khí giống như "Thiên Chúa là Thần Khí" (Ga 4.24), tức là thành con người thần thiêng giống như Thiên Chúa, có tính thần linh trong mình. Chỉ với điều kiện ấy, ta mới vào được Nước Thiên Đàng sống với Thiên Chúa là Thần Linh.

 Giai đoạn 2 thì “chưa được tỏ hiện” vì nó thuộc về “thời mai sau”, lúc Chúa Kitô tỏ hiện ngày Quang Lâm, khi ấy ta sẽ thấy Chúa, và được Người biến đổi ta nên giống như Người hoàn toàn. Vì như trên đã nói, tuy hiện giờ ta đã được tái sinh, trở nên thần khí giống như “Thiên Chúa là Thần Khí”, có sự sống nơi mình, là con thật sự của Thiên Chúa, song còn bất toàn, còn nhiễm những tính mê nết xấu, nhiều khi còn phạm tội nữa (1 Ga 1.8 – 2.2 ; x. Mt 22.10). Từ đây đến ngày Người Quang Lâm, ngày hồng phúc mà ta được Chúa Kitô biến đổi nên giống như Người hoàn toàn, sẽ là cả một cuộc hành trình dài của sự biến đổi, và Mình Máu Thánh Chúa Giêsu sẽ đảm nhiệm việc biến đổi tiệm tiến này

Có một đoạn của Thư 2 Corintô mô tả sự biến đổi mỗi ngày thêm rạng rỡ, có thể giúp ta hiểu tác động biến đổi của Mình Máu Thánh Chúa :

“Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương ; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.”(2 Cr 3.18)

Đoạn thư này cho biết : Nếu ngày xưa trong Cựu Ước, Môsê nhờ được gặp gỡ với Thiên Chúa một lúc mà mặt ông trở nên sáng láng (Xh 34.29-35), huống hồ ngày nay chúng ta đã trở nên môn đệ Chúa Kitô ! Và nhất là chúng ta không chỉ được gặp Thiên Chúa trong một lúc, mà còn được rước Mình và Máu Chúa, tức là có chính Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, với cả Thần tính và nhân tính Chúa ngự thật trong chúng ta, ắt ta sẽ còn “phản chiếu vinh quang của Chúa” đến thế nào, và “tác động của Chúa là Thần khí” sẽ càng biến đổi ta nên giống hình ảnh Chúa mỗi ngày một rực rỡ hơn biết bao !

Hiện nay, chúng ta không thấy lộ ra ngoài sự biến đổi ấy, vì Thánh Phaolô cho biết : “Sự sống mới của anh em hiện đang tàng ẩn (đang giấu ẩn) cùng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3.3). Tuy vậy, việc biến đổi ấy là một sự thật mà Kinh Thánh bảo đảm, nếu chúng ta có lòng tin, sẽ thấy tỏ hiện một cách nào đó trong đời sống của ta, chẳng phải Đức Giêsu đã nói với cô Matta : “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11.40). Dẫu thế nào, chắc chắn cứ mỗi lần rước Mình Máu Thánh cách xứng đáng, “tác động của Chúa” lại âm thầm biến đổi chúng ta nên giống Chúa mỗi ngày mỗi hơn một chút. Rồi cứ như thế, từ từ từng bước, qua năm tháng suốt dòng thời gian cuộc đời,…cho đến khi Người tỏ hiện (ngày Quang Lâm) thì ta sẽ được giống như Người (hoàn toàn), vì Người thế nào, ta sẽ được thấy như vậy” (1 Ga 3.2). Lúc ấy ta không chỉ nên giống như Thiên thần, mà nên giống chính Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa, và cũng được vinh quang sáng láng như Người !

Cuộc Biến hình sáng láng trên núi Tabo của Chúa Giêsu là tiền ảnh báo trước (Mc 9.2-8; xem Mt 13.43).

Bấy giờ sự biến đổi mới trọn vẹn và toàn diện, con người trở nên thần thiêng giống như Chúa, không những phần linh hồn mà cả phần thân xác nữa :

“Quê hương (Thiên Đàng) chúng ta là trời cao, từ đó sẽ đến vị Cứu Chúa mà ta ngóng đợi, Chúa Giêsu Kitô. Người sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của ta, sao cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người, chiếu theo phép mầu làm Người có thể bắt cả vạn vật hàng phục Người.” (Pl 3.20-21).

Thế là :

“Cái thân xác phải mục nát này sẽ mặc lấy à sự bất hoại, và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy à sự bất tử" (1 Cr 15.51-53).

 

  

@@@@@_BÀI 61_@@@@@

Tại sao loài người phải được biến đổi nên thần thiêng như thế ?

Tại có lời Thiên Chúa phán : “Người phàm không thể nhìn thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33.20), vì Thiên Chúa quá thần thiêng, quá tinh tuyền thánh thiện, quá siêu việt, “ngự trong vinh quang và ánh sáng vô phương đạt thấu, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy.” (1 Tm 6.16), còn người phàm thì từ bụi đất được nắn ra, lại đã phạm tội lỗi, dơ nhớp xấu xa, cho nên không thể nào nhìn thấy Thiên Chúa được, ở trước mặt Thiên Chúa họ sẽ phải tan biến mà chết đi, như sáp ong ở gần lửa thì phải tan chảy ra vậy.

Đoạn Thư Corintô đã trích dẫn trên đây không nói điều gì khác : “Xác thịt và khí huyết không thể thừa hưởng Nước (hay thấy) Thiên Chúa được, cũng như cái hư nát không thể thừa hưởng sự bất diệt được.” Bởi vậy “Tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” để “cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt ; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử.” (1 Cr 15.50-53)

Sau này khi ta được vào Thiên Đàng, ở đó ta "được nhìn thấy tận mắt, diện đối diện với Thiên Chúa” (1 Cr 13.12), mà không phải chết, là tại sao ? Đó là vì giả thiết rằng ta đã hết còn là người phàm tội lỗi dơ nhớp, song đã nhận được những cuộc biến đổi nói trên mà nên thần thiêng, được thần linh hóa, được trở nên Thần khí giống như Thiên Chúa là Thần Khí, và một khi đã nên giống Thiên Chúa rồi, thì nhìn tận mặt Thiên Chúa được mà không còn phải chết nữa.

Trở lại vấn đề tiến trình biến đổi, ta chỉ cần nhớ rằng :

Chính Mình Máu Chúa sẽ đảm nhiệm quá trình tiệm tiến biến đổi thần kỳ này một cách đặc biệt, cho nên những ai rước Chúa cách sốt sắng, thì sẽ được Chúa biến đổi mình dần dần mỗi ngày càng nên giống Chúa hơn. Như thế Chúa đang chuẩn bị chúng ta từ từ để xứng đáng bước vào Cõi Thiên Đàng sống với Chúa vậy.

CẦU NGUYỆN

Tạ ơn Chúa vô cùng ! Chúa đã yêu thương chịu chết thay cho chúng con, mà còn ban Mình Máu Chúa cho chúng con ăn uống để biến đổi chúng con càng ngày nên giống Chúa mà xứng đáng vào Thiên Đàng sống với Chúa đời đời !

Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa vì ơn phúc được đến lớp học Thánh Kinh, để nhờ Lời Chúa dạy, chúng con hiểu rằng nhờ Thánh Thể mà chúng con được thanh tẩy và biến đổi nên thần thiêng để xứng đáng được Chúa rước vào Cõi Hằng Sống, được gặp gỡ Chúa diện đối diện trong hân hoan, vui mừng. Còn niềm vui nào hơn khi biết rằng ngay khi chúng con còn tại thế, Chúa đã dùng phép Thánh Thể mà lo dọn chỗ cho chúng con, để sau này được về ở với Chúa :

 "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó."  (Ga 14.2-3)

Đến khi được nghe lời khẩn nguyện của Chúa thưa lên Chúa Cha, chúng con còn cảm động hơn biết bao, vì qua đó Chúa tỏ lộ lòng thương yêu của Chúa muốn chúng con được ở với Chúa, chung hưởng vinh quang và hạnh phúc với Chúa trong cõi hằng sống :

"Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành." (Ga 17.24)

Lạy Chúa Giêsu, đã quá nửa đời người con mới biết Chúa yêu con bằng mối tình si dại, bằng tình yêu nồng nàn, say đắm…nhưng đau đớn như gai nhọn, như lưỡi đòng, như thể Chúa chỉ có một mình con trên cõi đời này để chết vì con! Đổi lại Chúa được gì ? Chỉ nhận được bao tội lỗi, bao ngông cuồng, kiêu ngạo, bao tăm tối u mê của kiếp người. Không lẽ…con cứ than thở hoài lời của thánh Augustinô: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng!” Nhưng xin cho con vui mừng, hy vọng để con có thể thưa rằng: “Chúa ơi, có còn hơn không, muộn màng thì vẫn hơn…không bao giờ."

Lạy Chúa Giêsu, con xin cảm tạ Chúa đã mở đôi mắt linh hồn cho con thấy Chúa dù là lờ mờ chưa rõ. Vì con yếu hèn, vì con yếu đuối, nên con nài xin Chúa kiên trì biến đổi con hàng ngày nên giống Chúa, để con không còn là con người xác thịt, mà trở nên con người thần thiêng trong lần gặp gỡ vui mừng, diện đối diện với Chúa mai sau trên Vương quốc của Người. Amen./.

*

- Tóm tắt những điều học hỏi trên, chúng ta được biết rằng Chúa Giêsu yêu thương loài người và đã tế hiến mạng sống mà chuộc tội cho chúng ta, hơn nữa đã lập ra Bí Tích Thánh Thể nhiệm mầu để ai lãnh nhận thì được “Của Ăn Thần Thiêng” – là chính Bản Thân Chúa Kitô Tử nạn và Phục sinh – nuôi sống, làm cho sống, được có sự sống của Chúa, lại còn được biến đổi dần dần trở nên thần thiêng giống như Chúa, để xứng đáng vào Nước Trời.

Bây giờ ta hiểu rõ tại sao Chúa tuyên bố :

"Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông  không có sự sống nơi mình".

Lời tuyên bố mạnh mẽ này của Chúa Giêsu quả thật bây giờ còn hợp thời hơn bao giờ, vì ngày nay người ta đã tỏ ra lơ là với việc ăn uống Mình Máu Thánh Chúa. Văn minh đã đem lại cho loài người nhiều tiện nghi ; trong xã hội tiêu thụ này người ta chế biến ra đủ mọi loại thức ăn đồ uống cao lương mỹ vị thơm ngon, lạ kỳ…Đi chỗ nào cũng thấy nhan nhản cửa hàng ăn uống, nhậu nhẹt, bày ra những món đặc sản hấp dẫn…Chưa kể ở nhiều nước trên thế giới, người ta còn ăn uống thừa mứa, ăn đến độ béo phì thành bệnh…

Thử hỏi trong tình cảnh đầy đủ sung túc như vậy, ai còn cho là họ không có sự sống trong mình nữa. Nhưng nếu họ chịu thinh lặng một vài phút mà tự hỏi mình : Bao tử tôi đầy nhưng linh hồn tôi có đầy sự sống không ? Lúc ấy mới thấy cái trống rỗng mênh mông của tâm hồn, cái đói khát ghê gớm, vì vắng bóng Sự Sống Thần Linh mà Chúa Giêsu nói đây ! Lời Chúa nói với người Do Thái ngày xưa vẫn đúng cho người thời nay : "Tổ tiên các ông đã ăn man-na…, nhưng đã chết.” Ăn Man-na là hình bóng ám chỉ về lương thực của trần gian này, dù cao lương mỹ vị đến đâu cững chỉ là lương thực tạm bợ, ăn rồi cũng vẫn chết, còn : “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6.49, 58), ăn Bánh Bởi Trời xuống là Thịt Máu Chúa Kitô mới được sống muôn đời.

Vì thế Giáo Hội mới phải buộc các giáo hữu "chịu Mình

Thánh Chúa mỗi năm ít là một lần", để ít ra họ cũng nhận được chút đỉnh Sự Sống thần linh. Đến mức phải buộc như thế thật đáng buồn, vì cứ nghĩ mà xem, để nuôi thân xác thì chẳng ai ăn một năm chỉ một lần ! Thế mà linh hồn lại chỉ ăn Lương Thực Thần Linh một năm có một lần, hèn chi vì thiếu “vitamin” thiêng bồi dưỡng, linh hồn ta thuộc loại “suy dinh dưỡng tâm linh”! Và có nguy cơ là “thiệt mất mạng sống linh hồn mình” chứ không bỡn.

       Chúng ta đã từng thấy trong lịch sử có những danh nhân tiếng tăm lẫy lừng, trong tay thu gọn biết bao đất đai, của cải thiên hạ như Tần Thủy Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, Nã Phá Luân v.v…mạnh mẽ, oai hùng như vậy mà rồi họ cũng chẳng giữ được mạng sống mình. Lại có những bệnh nhân mắc căn bệnh nan y, đã bằng lòng đánh đổi tất cả tài sản và hàng ngàn cây vàng của mình, để cầu mong các bác sĩ cứu mạng sống mình mà nhiều khi cũng chẳng được. Mà đó chỉ là sự sống trần gian ngắn ngủi. Giá họ cũng biết hy sinh tất cả mọi sự như thế vì Sự Sống Đời Đời thì tốt biết bao !

Chúng ta hãy suy gẫm và cầu xin, cách riêng bằng lời Kinh Lạy Cha này : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày” để Cha ban cho chúng con không chỉ lương thực nuôi thân xác, mà còn xin ban Bánh Sự sống, Thần Lương Kỳ Diệu ấy ngõ hầu chúng con nhận được Sự Sống Trường Sinh. Amen.

------------------------ 

** Sau này, Hội Thánh bày ra thêm nhiều việc tỏ lòng tôn kính Mình Máu Thánh Chúa, cho các giáo hữu được thêm ơn ích phần linh hồn, như lập ra Lễ trọng thể kính Mình Máu Chúa; Rước kiệu Mình Thánh Chúa; giữ Mình Thánh Chúa trong Nhà Tạm để người ta đến viếng Thánh Thể; bày hào quang mặt nhật ra ngoài để chầu Mình Thánh; những cử chỉ bái quì, quì gối v.v… Tốt ! Tất cả những việc ấy đều rất tốt ! Song nhất thiết đừng quên điểm mặc khải chính yếu của Tin Mừng Gioan đó là : Thịt Máu Chúa Giêsu là lương thực nuôi sống, và ăn uống Thịt Máu Chúa để có sự sống của Chúa trong mình !

 

@@@@@_BÀI 62_@@@@@

HIỆU QUẢ THỨ HAI :

CÓ SỰ SỐNG MUÔN ĐỜI

VÀ ĐƯỢC SỐNG LẠI (c.54)

1/ Ở vế đầu, Chúa Giêsu bảo : "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời." (c.54a)

Tức thì nảy ra một khúc mắc : Trên kia (c.53), Người đã bảo : Ai ăn thịt và uống Máu Người thì mới có sự sống nơi mình, ở đây Người lại bảo: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, vậy :

Sự Sống Muôn Đời này là gì ? Và có khác gì với Sự sống nơi mình trên kia không?

Thưa : Không có gì khác biệt, vì cùng một Sự Sống của Thiên Chúa, mà trên Phần thứ nhất của Diễn từ ta đã nói rồi (tr.48tt), nay xin nhắc lại : Sự Sống ấy là chính Sự Sống mà Thiên Chúa đang sống, mà ta được thông phần. Song Chúa nói c.53 trong một hoàn cảnh khác và c.54 là một hoàn cảnh khác : Ở câu trên, Chúa muốn khuyến khích họ ăn uống Mình Máu Chúa, thì Chúa nói nhờ đó họ mới có Sự Sống Thiên Chúa nơi mình. Ở câu dưới, Chúa muốn nhấn đến khía cạnh vĩnh cửu của Sự Sống ấyđược sống muôn đời ! tức là sống không còn bao giờ phải chết nữa, là Cuộc Sống Vĩnh Cửu, Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống trong hạnh phúc đời đời vô cùng thế nào, ta cũng được thông chia phần nào vào Cuộc Sống ấy mà sống hạnh phúc ngay tại trần gian.

Ta thử tưởng tượng một chút: Thiên Chúa đang sống như thế nào trên Thiên Đàng ? Thánh Kinh nói : Người hằng hữu, quyền phép vô biên, thánh thiện siêu việt, toàn là Tình Yêu, vì thế Thiên Đàng thấm nhuần Tình Yêu, là Thiên Đàng Tình Yêu. Thiên Chúa sống hạnh phúc vô cùng vô tận, sống trong vinh quang, trong ánh sáng huy hoàng, không thiếu một thứ gì, vui sướng hoan lạc không hề vơi, không bao giờ hết, không bao giờ suy giảm, luôn luôn mới và lạ lùng, hôm nay mới lạ, mai lại mới lạ hơn, v.v…

 

 

Miệng lưỡi loài người không thể nào tả xiết.

Mọi trí óc cũng không thể mường tượng được Người vinh quang, cao cả, vĩ đại đến ngần nào, chỉ biết rằng : Trời mênh mông bao la như thế (xem tr.163tt và hình) mà Thánh Kinh nói chỉ là ngai của Người, Đất rộng lớn như thế cũng chỉ đáng làm bệ dưới chân Người. Và chính Sự Sống ấy của Chúa Ba Ngôi mà Chúa Giêsu sẽ ban cho cả hồn lẫn xác chúng ta, đem lại hạnh phúc hoàn hảo cho toàn diện con người, tâm hồn cũng như thể xác hoàn toàn mãn nguyện, không còn thiếu một cái gì để con nguời phải ước mơ hay khát khao. Và muôn đời muôn kiếp cứ được như thế mãi.

Chính Cuộc Sống muôn đời sung mãn ấy của Thiên Chúa Ba Ngôi, mà ngay từ trần gian này ta được thông phần, bởi được nếm trước một chút hoa quả đầu mùa của hạnh phúc Thiên Đàng ấy, khi ta lãnh nhận Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu.

Nhưng xin hỏi : Chúng ta có cảm nếm được chút nào Thiên Đàng khi lãnh nhận Mình Máu Chúa không ?

Nếu có, thì cuộc đời mình dù gian nan, thử thách, khó khăn cơ cực mấy, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được trong tâm hồn mình một hạnh phúc thần thiêng, một niềm vui khôn tả, một bình an sâu lắng chỉ có được từ Thiên Chúa. Và khi chúng ta càng sốt sắng lãnh nhận Mình Máu Chúa thì Sức Sống Thần linh ấy sẽ lan tỏa từ bản thân ta ra trong gia đình, sang nơi người lân cận và như làn sóng lan ra nhiều cuộc đời khác nữa.

*

2/ Ở vế thứ hai, Chúa Giêsu nói tiếp : "Và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết." (c.54b)

Nên nhớ : Chúng ta đã nói nhiều về sự sống lại thể xác này ở Phần Nhất của Diễn từ (Bài 1, từ tr.56-77), đây không lặp lại nữa.

Chỉ nêu lên điều hơi khác là : ở phần đó (6.35,40,44) Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại cho những người lãnh nhận Bánh Sự Sống là bản thân và lời Người, còn ở đây, hứa ban sự sống lại cho những người ăn uống Thịt Máu Người tức là Rước Lễ.

Ở cả hai nơi, đều cần phải lãnh nhận với lòng tin,hiệu quả đều giống nhau, chỉ có điều là một đàng lãnh nhận bản thân và lời Chúa bằng tâm trí, còn đàng này thì lãnh nhận Mình Máu Chúa bằng ăn uống cụ thể. Việc lãnh nhận Lời Chúa bằng tâm trí, có lẽ là việc khá dễ dàng đối với những người có học Thánh kinh và Lời Chúa, hay có trình độ trí thức nào đó ; còn việc Rước Mình Máu Thánh Chúa bằng ăn uống, thì bà già con nít, và ngay cả những ai đau ốm liệt lào trên giường bệnh thập tử nhất sinh cũng có thể làm được.

Thế mới hay tình thương của Chúa quan tâm đến hết mọi người, không để cho ai, dù nhỏ hèn kém cỏi đến đâu, cũng không bị mất ơn phúc Chúa ban.

Ở đây chỉ xin thêm đôi lời Thánh kinh để chúng ta được thêm xác tín :

Lời Thánh kinh : Sự sống lại của ta chắc chắn phải xảy ra đến nỗi Thánh Phaolô dám nói :

- "Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô cũng đã không sống lại" (1 Cr 15.16). Mà ai dám bảo Đức Kitô đã không sống lại ?

 - “Nếu Đức Kitô ở trong anh em (mà Rước Lễ là có Đức Kitô ở trong ta), thì dầu thân xác có phải chết vì tội đã phạm, nhưng Thần Khí là sự sống…, nếu Ngài … ngự trong anh em (chắc rồi, vì ta là đền thờ Ngài [6]),… thì Đấng đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ làm cho thân xác phải chết của anh em được sống, nhờ Thần Khí của Người đang ngự trong anh em.” (Rm 8.10-11).

Nghe thế mới biết việc rước Mình Máu Thánh Chúa lợi hại đến chừng nào !

VUI MỪNG CẢM TẠ

Những lời Chúa hứa hẹn, những lời Mẹ bảo ban, đã cho chúng ta niềm vui, niềm hy vọng tràn đầy hạnh phúc : quả thật đó là những lời nâng đỡ cho sự yếu hèn của chúng ta, những lời biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa Hằng Hữu, là những lời của dòng sông yêu thương êm đềm. Đời sống đạo của chúng ta luôn long lanh những lời hứa chân thật, tuyệt vời như thế, vẫn vọng về từ Cõi Trường Sinh vô tận.

Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Thiên Chúa trên các tầng trời lời tạ ơn mãi mãi. Lạy Mẹ, chúng con xin tạ ơn Mẹ đã cưu mang và sinh hạ cho chúng con Chúa Giêsu, Thần Lương Kỳ Diệu. Amen.

@@@@@_BÀI 63_@@@@@

Trước khi đề cập đến hai hiệu quả nữa, Chúa Giêsu tuyên bố :

"Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống."(c.55)

 Chúa muốn xác quyết giá trị cung cấp sức sống của Thịt Máu Người như là thức ăn thức uống thực sự, vì thức ăn thức uống là gì đối với thân xác, thì Thịt Máu Chúa cũng là như thế đối với linh hồn.

 

------------------------------------------

** Lưu ý về vấn đề văn bản :

Bản gốc Hy Lạp : “Hê gar sarx mou alêthês estin brôsis, kai to aima mou alêthês estin posis”

1) Cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn dịch :

 “Vì thịt Ta là thật của ăn và máu Ta là thật của uống.”

 2) Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch :

 “Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống.”

3) Bản Bible de Jerusalem2 cũng dịch :

“Ma chair est vraiment une nourriture et mon sang est vraiment une boisson”.

-- Mấy cách dịch trên đây sử dụng phó từ (adverbe) : “là thật” / “thật là” / (“vraiment”)… của ăn / của uống, có ý nhấn mạnh khía cạnh Thịt Máu Chúa là của ăn thật chứ không phải giả, cũng không phải của ăn theo nghĩa bóng, tượng trưng. [7]

+ Đề nghị nên dịch :

“Vì thịt Ta là của ăn thật, và máu Ta là của uống thật.”

- Bản dịch có hiệu đính (năm 2008) của nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ cũng đã dịch lại như thế.

- Bản dịch Đại Kết (TOB) cũng dịch : “ma chair est vraie nourriture et mon sang vraie boisson”.

-- Mấy cách dịch này nghe không được êm tai, vì sử dụng tính từ (adjectif) : “thật”, không nhấn mạnh về tính cách thật hay giả, mà nhấn mạnh hơn về tính cách “đích thật” theo từ ngữ của Tin Mừng thánh Gioan.

----------------------------------------

Đúng vậy, theo Tin Mừng thánh Gioan, “thật” hay “đích thật” là cái gì thực hiện đúng chức năng của cái ấy. Đức Khổng Tử gọi là Chính Danh : Vua sống sao cho ra vua, cha ra cha, con ra con. Vậy đồ ăn thức uống phải thực hiện đúng chức năng là nuôi sống, nếu ăn uống rồi mà vẫn phải chết, thì thực phẩm người ta ăn uống chưa làm tròn chức năng của chúng.

Xét như thế, thì thấy tất cả mọi thức ăn thức uống của trần gian không thực hiện đúng chức năng, chúng chỉ cho con người sự sống tạm bợ, vì cuối cùng họ vẫn phải chết, không những chết phần xác, mà có khi chết cả phần hồn, vì tự nó, thức ăn trần gian không ban cho họ sức mạnh để tránh tội lỗi đưa đến cái chết phần hồn, cũng không ban cho họ sự sống Thiên Chúa để được sống muôn đời.

Chỉ có Máu Thịt đã hiến tế và được thần hóa của Chúa Giêsu là của ăn đích thật, vì thực hiện đúng chức năng của đồ ăn thức uống, là làm cho người lãnh nhận chúng không bao giờ phải chết, trái lại đuợc sống đời đời:

"Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

Tổ tiên người Do Thái ngày xưa, thời còn rong ruổi trong hoang địa, đã lượm manna Thiên Chúa làm cho rơi từ trên không trung xuống mà ăn, nhưng rồi vẫn chết, không chỉ chết phần xác mà nhiều kẻ còn chết cả phần hồn, vì manna không có ơn thánh giúp cho họ khỏi sa ngã phạm tội, như thư Thánh Phaolô cho biết :

“Hết thảy họ đã được ăn cùng một lương thực thần thiêng (là manna), đã được uống cũng một của uống thần thiêng (nước phép lạ từ tảng đá phun ra)… song nơi phần đông trong họ, Thiên Chúa đã chẳng được hài lòng và họ đã bị phơi thây trong sa mạc…bởi đam mê ngang trái…, thờ quấy…, dâm dật…, dám thử thách Chúa…, kêu ca càm ràm…” (1 Cr 10. 3-10 ; xem  Dt 3.16 – 4.11). [8]

Tương tự như thế, nếu chúng ta không tin Chúa và không lãnh Thần Lương Kỳ Diệu ban Sự sống trường sinh, chúng ta chỉ dùng thực phẩm trần gian, thì ta chỉ có sự sống thể lý mà thôi, thì trước mắt Thiên Chúa hồn chúng ta đã chết tuy xác vẫn sống mạnh khỏe, như vậy ta chẳng khác gì những “những thây ma di động”. Nhớ lại lần kia Chúa Giêsu đã nói một câu nặng ý nghĩa với người thanh niên muốn đi theo làm môn đệ, nhưng còn muốn trở về nhà để lo hậu sự cho cha già: “Anh hãy đi theo Tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.” (Mt 8.22).

Qua câu đó Chúa cho hiểu : “kẻ chết” mà lại có thể đi “chôn kẻ chết của họ” ắt là người còn sống, nhưng chỉ sống về phần xác. Mà kẻ sống phần xác, không có sự sống phần hồn là Sự Sống của Thiên Chúa thì, trước mặt Thiên Chúa, bị coi là kẻ chết.

Tóm lại, ăn manna rồi mà vẫn chết, vì nó không có sức thiêng làm  cho người ta sống, cho nên có thể gọi đó là của ăn giả, trái lại Bánh là Thịt Máu Chúa mới là của ăn thật, đích thật vì có sức thiêng làm cho họ sống đời đời, cả hồn lẫn xác, dù xác có phải chết thì cũng sẽ được sống lại.

Qua đó, Chúa muốn người ta không được giải thích bóng bẩy về điều Người dạy phải ăn uống Thịt Máu Người, để đừng còn ai tưởng rằng Người nói bóng gió hay tượng trưng. [9]

SUY NGHĨ VÀ CẦU NGUYỆN

Của ăn thật đối chọi với của ăn giả là một câu rất đáng suy nghĩ cho cuộc đời chúng ta. Như đã nói trên, của ăn thật, “đích thật”, là của ăn nào thực hiện đúng chức năng của đồ ăn thức uống là làm cho người ăn đuợc sống không chỉ đời tạm này, vì đời tạm này là một cuộc sống để mà chết, song là được sống muôn đời không bao giờ còn phải chết nữa. Ngoài Mình Máu Thánh Chúa là Của Ăn Thật, chỉ còn là của ăn giả hay nói đúng hơn của ăn tạm bợ vì chúng không thực hiện được chức năng làm cho sống mãi. Người ta có thể ăn no nê cơm bánh, ăn những cao lương mỹ vị, bào ngư, vi cá, yến sào, v.v…nhưng rồi cũng vẫn chết, không chỉ chết phần xác, mà chết cả phần hồn, nếu không có Sự Sống Muôn Đời mà Của Ăn Thật là Mình Máu thánh Chúa ban cho. Nhờ đó linh hồn không chết, và thân xác cũng sẽ được sống lại.

Như thế, nếu chỉ lo làm cho mình giàu tiền lắm của, ăn ngon mặc đẹp nào được ích gì cho linh hồn ? Chẳng phải Chúa Giêsu đã công bố : "Được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống của mình thì nào được ích gì?" (Mt 16.26).

@@@@@_BÀI 64_@@@@@

Dụ ngôn ‘ông phú hộ và Ladarô ăn mày’ đã minh họa cho điều quan trọng ấy : “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no …

Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham (nghĩa là lên Thiên Đàng). Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên : ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !" (Lc 16.19-31)

Tại sao ông nhà giàu "chịu cực hình" ?  Không thấy nói

ông phạm tội trọng nào như cướp của, giết người, dâm bôn, ngoại tình v.v… chỉ thấy nói cả đời ông hưởng thụ sung sướng vật chất "mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình". Muốn hiểu tại sao, ta phải nghe Thánh Kinh giảng giải :

“Ai gieo gì thì sẽ gặt được thứ ấy : kẻ gieo vào xác thịt mình, thì sẽ gặt được sự mục nát từ xác thịt (mà ra); còn kẻ gieo vào Thần khí thì sẽ gặt được sự sống đời đời từ Thần khí (trổ sinh)” (Gl 6.7-8).

Cả đời chỉ lo vui chơi ăn uống cho thỏa tính xác thịt (đó là đang gieo vào thửa ruộng xác thịt), thì khi xác thịt mục nát tan rã dưới mồ, người đó sẽ chẳng còn gì (chẳng gặt được gì) ngoài sự mục nát của xác thịt, thế có nghĩa là hư vong trầm luân khốn nạn. Gieo gì thì gặt nấy ! Đương nhiên là vậy.

Sau đó ông nhà giàu nhớ đến các anh em mình còn sống cũng đang sống một kiểu như ông ta trước đây, chỉ biết có vật chất, nên xin Tổ phụ Abraham sai Ladarô hiện về cảnh cáo họ để khỏi sa chốn cực hình như ông ta, nhưng tổ phụ bảo : "Họ đã có Lời Chúa dạy thì cứ nghe mà làm theo. Nếu họ không nghe Lời Chúa, thì kẻ chết có hiện về báo mộng họ cũng chẳng nghe đâu".

Vậy qua đó Chúa dạy ta điều gì ? Dạy rằng : “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời.” (Ga 12.25).

"Yêu sự sống" có ý nói sự o bế, nuông chiều, chỉ chăm lo đời sống mình nơi trần gian này trong mọi phương diện (theo kiểu ông nhà giàu trên kia) : thì sẽ mất, vì đời sống trần gian này tạm bợ chóng tàn, sau khi chết, tất cả tan như bong bóng xà phòng, chẳng có gì tồn tại. “Còn ghét sự sống mình nơi trần gian này” có ý nói không nuông chiều đời sống xác thịt, trái lại bắt nó chịu khó sống và thi hành lời Chúa dạy, thì kết quả là gặt hái được sự sống vĩnh cửu. 

Thời nay, với những tiến bộ của văn minh, khoa học, người ta bày ra vô số những cách ăn chơi, sung sướng, thỏa mãn xác thịt cho nên biết bao người bị hấp dẫn, lôi cuốn vào lối sống hưởng thụ… mà không ngờ họ đang gieo vào xác thịt sẽ hư nát để rồi một hôm nào đó, cái chết xảy đến, mở mắt linh hồn ra, họ sẽ thấy mình chẳng có gì ngoài sự hư nát! Phần Kitô hữu chúng ta có nghe lời Chúa dạy hôm nay mà tỉnh ngộ khỏi cuộc sống mê cuồng thác loạn đưa đến cõi trầm luân đó không ?

ªªª

 

 

HIỆU QUẢ THỨ BA :

ĐƯỢC Ở LẠI TRONG CHÚA

VÀ CHÚA Ở LẠI TRONG TA (c.56)

Khi vào dự bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng trên trần thế này, bữa tiệc biệt ly, Chúa Giêsu tâm sự với các Tông đồ rằng Người khát khao, mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với họ trước khi chịu khổ hình. Tại sao Người khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua lần sau hết này ? Là vì ở đây, để tưởng niệm cái chết của Người, Chúa Giêsu sẽ thiết lập một Bí Tích trọng đại cực kỳ thiết yếu cho cuộc sống của nhân loại. Và Người hứa rằng :

"Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em." (Ga 14.18-20).

Ngày đó bây giờ đã đến : Sau khi hiến tế mình trên thập giá, thế gian không thấy Chúa nữa, Người đã trở về bên Chúa Cha trên trời, còn đối với môn đệ, Người không để họ mồ côi vắng bóng Người, Người sẽ đến, và sẽ ban Mình Máu Chúa làm Thần Lương cho họ ăn uống, và thế là việc anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em được thực hiện, vì "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6.56). [10]

Chúa Giêsu đã trao lại Kỷ Vật quí giá là chính Mình Máu Người, không chỉ làm Thần Lương Kỳ Diệu nuôi sống những ai tin vào Người, mà còn là dịp để những người yêu nhau được ở trong nhau luôn mãi. Ta được ở lại trong Chúa và Chúa ở lại trong ta, mãi mãi duy trì mối thâm tình tri âm tri kỷ gắn kết từ thuở nào.

Chúa đã được trời cao đặt tên là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, đó không chỉ là một tên để gọi, mà là một số phận, một vận mệnh, một chức vụ : ngự trong lòng ta, đồng hành với ta trên mọi nẻo đường trần gian không luôn luôn trải thảm êm ái…Người ở với ta để an ủi, khích lệ ta trong những lúc buồn nản, thất bại; bảo vệ, bênh vực ta trước những địch thù muốn làm hại ta ; thêm sức cho ta để chống trả các chước cám dỗ của ma quỉ, quyến rũ của thế gian, lôi kéo của xác thịt ; soi sáng cho ta biết con đường nào mà đi… không bị sa xuống hầm hố  hiểm nguy.

SUY NIỆM

Nhưng, có mấy ai hiểu được ý nghĩa của chữ ‘Ở LẠI’ và có mấy ai hiểu được nỗi lòng của Chúa, vì họ không bận tâm tìm hiểu sâu xa mối tương giao ấy, nên cũng không hiểu được ý nghĩa sâu xa của hình Bánh Trắng đơn sơ. Lâu dần rồi thành thói quen chỉ còn là chuyện Rước Lễ, chẳng có gì lạ, và nhiều khi còn Rước Lễ cực trọng ấy cách vô tâm vô tình, do đó tâm hồn họ sau đó vẫn trống rỗng như trước !

Vậy ta đừng quên lời Chúa Giêsu nói năm xưa : "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy". Được Chúa ở lại với mình, trong mình và mình ở lại trong Chúa, đó là cả một ơn huệ khôn sánh, các Thiên thần trên trời có lẽ cũng phải ghen tị, ta không bao giờ được coi thường !

Vì không nhìn Bánh Trường Sinh và Chén Cứu Độ bằng đôi mắt của trái tim, do đó biết bao tín hữu không cảm nghiệm được Tình Yêu linh thánh ấy nên đã tỏ ra thờ ơ, lãnh đạm khi Rước Lễ, Rước Lễ rồi chẳng biết làm gì, quay ra đọc một loạt những kinh nọ kinh kia, hay thường cũng chỉ biết xin những ơn nhỏ bé cho cuộc sống ở đời.

Dường như người ta chưa ý thức được rằng Rước Lễ là nhận ân huệ vô cùng lớn lao : Rước lấy chính Ngôi Lời Thiên Chúa oai nghi đã tạo dựng nên đất trời, muôn loài muôn vật hữu hình và vô hình, trong đó có loài người. Rước Lễ cũng là lãnh lấy chính Sự Sống của Thiên Chúa hằng sống! Nếu chúng ta ý thức và luôn cầu nguyện, ta sẽ sống trong niềm tin mãnh liệt đó, và mỗi lần Rước Lễ là mỗi lần ta mến yêu, tôn thờ, kính cẩn đón rước Thiên Chúa của chúng ta.

Nhưng chúng ta đã vô tâm, lạnh nhạt, thờ ơ biết bao… đến nỗi Chúa Giêsu phải than thở :

“Niềm vui thích lớn lao của Ta là được kết hợp với các linh hồn. Khi họ Rước Lễ, Ta đến trong tâm hồn họ. Đôi bàn tay Ta mang đầy những ân sủng mà Ta muốn ban cho họ, nhưng họ không để ý tới Ta. Ôi, buồn biết mấy vì thấy những linh hồn không nhận biết Tình Yêu của Ta. Họ đối xử với Ta như một vật vô hồn […]  Ta rất đau lòng khi các linh hồn nhận Bí Tích yêu thương này như một thói quen, hầu như họ không nhận thức được của ăn này, cho nên họ không có niềm tin hay tình yêu đối với Ta trong trái tim họ, Ta bước vào những tâm hồn đó với tất cả sự miễn cưỡng. Thà rằng họ đừng Rước Lễ thì hơn […] Thật đau đớn cho Ta, rất ít linh hồn biết kết hợp với Ta trong lúc đón rước Ta. Ta chờ đợi họ nhưng họ rất lãnh đạm và thờ ơ với Ta. Ta muốn ban nhiều ơn cho họ nhưng họ không muốn nhận lãnh…”

(Trích “Nhật ký Lòng Thương xót Chúa…” của Thánh Nữ Faustina, số 1385 và v.v…)

Ước gì chúng ta coi Thánh Lễ là món Quà Tặng quí báu cho chúng ta trong ngày. Và chúng ta đón chờ Thánh Lễ, ao ước khao khát tham dự Thánh Lễ. Chính đích thân Chúa Giêsu đang vinh hiển ngự bên hữu Chúa Cha lại tự hiến mình cho chúng ta trong Thánh Lễ. Ngược lại nếu chúng ta dự Thánh Lễ cách thờ ơ thì chúng ta sẽ trở về nhà nguội lạnh với trái tim trống rỗng.

Thật vô cùng đáng tiếc !

@@@@@_BÀI 65_@@@@@

Để giúp ta biết tôn trọng, yêu quí và đánh giá đúng mức ơn huệ hay phải nói là đặc ân vĩ đại và vô cùng quí báu được Chúa ở trong ta, ta ở trong Chúa, ta phải đem so sánh với các tin tưởng cũng như các tôn giáo từ xưa.

Trước hết, ta hãy thử nhìn xem :

I.- Người xưa có dám nghĩ Thượng Đế (hay Thiên Chúa) ở cùng họ không ?

1/ Người Á Đông mường tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự tít mãi ở 72 tầng trời, trên cõi Thiên Đình, giữa các vị quần tiên bất tử với vô số tiên đồng ngọc nữ quây quần… Không có chuyện Ngọc Hoàng Thượng đế ở với loài người. Loài người chỉ còn biết mơ ước mà không dám nghĩ bao giờ sẽ được vào đó. Tu luyện bao nhiêu ngàn kiếp cho được thành Tiên, thành Phật ?

2/ Đối với người Hi Lạp, Thượng Đế là một Đấng Vô Hình, siêu việt vô cùng, không thể thấy được, không thể hiểu được, “bất khả tư nghị”, nên đành để Người cứ ở trên chốn cao xa ấy, còn loài người thì chỉ biết vật lộn với bao khó khăn, vất vả của kiếp phàm nhân, mang thân xác vật chất xấu xa bất xứng. Cho nên hai bên cách biệt nhau xa lạ.

3/ Còn đối với dân Do Thái, thì Thiên Chúa ngự trên cõi siêu việt vĩnh hằng, “trong ánh sáng vô phương đạt thấu, không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1 Tm 6.16), không một phàm nhân nào có thể thấy Người mà vẫn còn sống được (Xh 33.20-23). Vì vậy mỗi khi Thiên Chúa đến với ai để phán truyền hay sai làm một việc gì, thì họ bèn khiếp hãi tự nhủ: “Mắt tôi đã thấy Thiên Chúa, chắc tôi sẽ phải chết mất thôi!”

Mỗi khi Người đến can thiệp vào lịch sử trần gian, trước Thánh Nhan uy linh của Người, ngay cả trời đất mà cũng như tan chảy ra, núi non vỡ lở, mặt trời tối sầm, mặt trăng đỏ lòm như máu…, thì loài người có là chi. Xét cho cùng, trước mắt Thiên Chúa, Đấng duy nhất “hiện hữu”, “tự hữu”, “hằng hữu”, họ chỉ là như con sâu, con kiến, “có một hơi thở trong lỗ mũi, có gì đáng giá đâu !” (Is 2.22), Thiên Chúa muốn cho sống thì được sống, muốn phải chết là phải chết, chẳng có quyền kêu ca, vì chính Người đã tạo dựng nên họ, thì cũng có quyền hủy diệt họ.

“Ta là ĐỨC CHÚA, không còn chúa nào khác.
 Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối tăm,
làm ra bình an và dựng nên tai hoạ.
Ta là ĐỨC CHÚA, Ta làm nên tất cả.” (Is 45.6-7)

Sự thật này, Thánh Kinh đã thường diễn tả bằng hình ảnh Thiên Chúa ví như ông thợ gốm, còn loài người như nắm đất sét trong tay ông, ông có thể nắn nên chiếc bình, chiếc lọ, cái chén, hay nếu không ưng ý, ông cũng có thể đập nó vỡ tan và vất đi :

“Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài là Cha chúng con ;
chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài,
chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con.” (Is 64.7)

 “Phải chăng thợ gốm không có quyền dùng đất sét theo ý mình : từ cùng một nắm đất mà nắn ra đồ vật khác nhau … ?” (Rm 9.21)

“Khốn thay kẻ chỉ là mảnh sành giữa đồ sành đồ gốm
mà lại muốn tranh cãi với Đấng nặn ra mình !
Đất sét mà dám nói với thợ nhào nặn mình :
“Ông làm cái gì vậy ?....

Khốn thay kẻ nói với một người cha : “Ông sinh ra giống gì thế ?”
hoặc nói với một người đàn bà : “Bà đẻ ra cái gì vậy?” (Is 45.9-10)

Tóm lại, loài người chẳng là “cái thá gì” trước mặt Thiên Chúa, cho nên đừng có tự cao tự đại, tưởng mình là ghê gớm lắm, giống như “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”.

            Ở trần gian, ta thấy các cường quốc là những nước giàu có, những lực lượng lớn lao đáng sợ, nắm trong tay những vũ khí dễ sợ : những chiến đấu cơ tối tân, tầu ngầm nguyên tử, chiến hạm khổng lồ trang bị khí giới tối tân, những hỏa tiễn mang đầu đạt hạt nhân có sức tàn phá khủng khiếp…, ấy thế mà Thánh kinh cho biết, trước mắt Thiên Chúa mọi nước mọi dân – cho dù là cường quốc – đều chỉ như hạt bụi hạt cát, hay cỏ hoa sớm nở tối tàn :

- “Người phàm nào cũng đều là cỏ,
mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội.
Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí ĐỨC CHÚA thổi qua.”

- “Này các quốc gia như thể giọt nước bám miệng thùng,
khác nào hạt cát dính bàn cân,
kìa muôn hải đảo nặng tày chút bụi.”

“Mọi nước chỉ là không không trước mặt Người,
Người coi chúng là hư vô trống rỗng.” 

(Is 40.6-8,15,17).

Chính vì Thiên Chúa có uy quyền Chúa tể trên muôn loài muôn vật như thế, nên ta đừng lấy làm lạ hay bị “sốc” lúc đọc thấy trong Cựu Ước, khi có ai, có nhóm người nào, hay nước nào cản phá kế hoạch của Thiên Chúa, hoặc gây hại cho đức tin của dân Chúa, thì Thiên Chúa ra lệnh “thần tru” (hay “tru hiến”) không tiếc xót, nghĩa là giết tất cả mọi người đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé, và ngay cả đến súc vật, trâu bò lợn gà của nước nghịch thù ấy. Vì sao ? Chỉ vì nếu để chúng sống, chúng sẽ lôi kéo dân Chúa quên bỏ Thiên Chúa, mất đức tin vốn là điều đáng quí hơn mạng sống phần xác ; và vì thờ bái tà thần, vốn là trọng tội Thiên Chúa gớm ghét nhất, ghét hơn cả các tội lỗi khác :

“Giờ đây, ngươi hãy đi đánh A-ma-lếch. Các ngươi phải tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, từ bò đến chiên dê, từ lạc đà đến lừa.” (1 Sm 15.3)

“Họ dùng lưỡi gươm mà thi hành án tru hiến mọi sự trong thành, từ đàn ông cho đến đàn bà, từ người trẻ cho đến người già, đến cả bò lừa và chiên cừu.” (Gs 6.21)

Tắt một lời, tất cả những điều nói trên là để nhấn mạnh rằng : loài người chúng ta chẳng đáng là gì trước Thánh Nhan Thiên Chúa vô cùng cao cả !

Không chỉ loài người, mà ngay cả các Thiên thần khi chầu hầu trước Nhan Thiên Chúa, cũng cung kính đến nỗi phải cúp cánh che mặt, miệng thốt lên lời tung hô Người:

"Thánh, chí Thánh, ngàn trùng chí Thánh" (Is 6.1tt).

Nguyên chỉ nghe tiếng Thiên Chúa, dân chúng cũng sợ hãi kinh hồn bạt vía, như khi Thiên Chúa hiện ra trên núi Sinai để ký kết Giao ước với dân, “toàn dân khi thấy sấm sét và tia lửa cùng tiếng loa và núi bốc khói, thì rụng rời mà đứng mãi đàng xa (ngọn núi). Họ mới nói với ông Môsê : ‘Chính ông hãy nói với chúng tôi, chúng tôi xin vâng nghe. Nhưng ước gì Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi kẻo chúng tôi chết mất !’” (Xh 20.18-20).

Tuy họ đã được Người chọn làm dân riêng của Người (Đnl 7.7-8), được Người đến gần họ (Đnl 4.7-8); được Người ngự trong Lều Tạm hay trong đền thờ để cùng họ đồng hành trong cuộc sống, để tiếp xúc, dạy dỗ, bảo vệ họ…Song Người vẫn tỏ ra oai nghi đáng sợ quá sức.

Mỗi năm một lần, vào ngày lễ Đại Xá, một mình vị Thượng tế được băng qua bức màn, bưng máu tế vật bước vào trong Thâm cung Cực thánh dâng tiến Thiên Chúa ngự ở đó, không những một mình ông run sợ, mà cả toàn dân đứng ngoài cũng nín thở lo âu, nhỡ ra có làm điều gì phật ý Thiên Chúa thì đừng hòng sống sót ! (Xem Xh 28.35)

Một truyện cụ thể biểu lộ Oai nghi Thiên Chúa, đó là lúc vua Đavít cùng với toàn dân rước Hòm Bia Giao ước [11] trên đó Thiên Chúa ngự, về thánh đô Giêrusalem, khi đến một chỗ kia chiếc xe kiệu Hòm Bia bị nghiêng sắp đổ, một thanh niên đưa tay ra đỡ Hòm Bia thì bị phạt gục chết ngay tại chỗ. (2 Sam 6.6-7).

Nghe chuyện ấy chúng ta ngày nay bị “sốc” vì thấy Thiên Chúa có vẻ ác độc, vì người đưa tay làm cử chỉ ấy là có ý tốt, muốn cứu cho Hòm Bia khỏi đổ nhào, sao Thiên Chúa lại phạt chết tươi ! Song qua sự kiện ấy, Thiên Chúa có ý muốn dạy cho dân về sự Uy linh vô cùng của Thiên Chúa, không một tay người phàm nào, ngoại trừ những người đã được thánh hiến, được đụng tới vì sẽ là bất kính, xúc phạm tới vị Thiên Chúa oai nghi thánh thiện siêu việt.

 

@@@@@_BÀI 66_@@@@@

Vì sao thời Cựu Ước, Thiên Chúa lại ra oai khiến dân phải sợ hãi đến như vậy ?

Một trong những lý do, đó là vì Người muốn họ đừng phạm tội. "Môsê nói với dân : ‘Đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và (Người ra uy như vậy) làm cho anh em luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội.” (Xh 20.20). Tội lỗi thật sự là điều tối kỵ đối với Đấng Chí Thánh, Toàn Thiện. Nhất là tội thờ ngẫu tượng, tà thần. Thiên Chúa cần phải ra oai như thế trong hoàn cảnh thời bán khai ấy : dân Chúa sống trà trộn giữa các dân ngoại đa thần, thờ đủ mọi loại ngẫu tượng và tà thần giả trá, tạc bằng đất nung, gỗ đá hay vàng bạc, nên họ thường bị cám dỗ mà chạy theo bắt chước. Tích thờ Bò Vàng là một thí dụ (Xh 32.).

Vì thế, các ngôn sứ thường phải nhấn mạnh đến vị Thiên Chúa siêu việt, vô hình, uy nghi, chí thánh, chí tôn, để nhắc nhở họ về sự cần thiết phải tôn thờ chỉ một Thiên Chúa tối cao, duy nhất hằng hữu mà thôi. Điều Răn thứ nhất cho chúng ta thấy điều đó: “Thứ nhất, thờ phượng và kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự.”

Do thái độ sợ hãi, người Do Thái đã vô tình đẩy Thiên Chúa vào cõi oai nghi, cao vời xa cách loài người !

Nhưng lạ lùng thay ! Thiên Chúa đáng sợ và xa cách như thế đấy, thế mà khi Người đã yêu thương thì mọi sự lại xoay chiều, đổi hướng : đến nỗi Người sai Con Một của Người xuống thế gian để chịu chết mà cứu loài người !

Có lẽ linh tính đã báo cho dân Israen điều ấy, nên thật là dễ thuơng, khi thấy họ tuy vô cùng sợ hãi Thiên Chúa, song vẫn tin tưởng Chúa là Thần của dân tộc, Vua của họ, đã chọn họ làm dân riêng của Người và biết Người hằng yêu thương họ, nên họ vẫn cả dám một lòng ước mơ :

Ước Mơ của dân Israen…

Họ mơ ước gì ? Mơ ước được Người đến với họ, mặc dầu họ thấy mình tội lỗi bất xứng:

“Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào cái tã dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi.”….

 “Thế nhưng, lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con. Lạy Đức Chúa, xin đừng quá phẫn nộ, đừng nhớ mãi tội ác chúng con. Cúi xin Ngài nhìn đến: chúng con tất cả đều là dân của Ngài.” (Is 64.5,7-8)

Nhất là trong những hoàn cảnh nước mất nhà tan, ngoại bang đô hộ, họ càng mong ước Người đến với họ, cứu họ:

"Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan.” (Is.63.19; xem Tv 144.5)

Ước mơ ấy thật quá viển vông hão huyền : làm sao có thể mơ một vị Thiên Chúa đích thân xé trời mà xuống !!

Nhưng thật bất ngờ ! Tình thương vô bờ của Thiên Chúa tối cao, toàn năng, uy nghi không lời tả xiết ấy đối với loài người, đã đáp ứng cái ước mơ cuồng vọng ấy : từ cõi vĩnh hằng Người đích thân “xé trời ngự xuống thật !”

Mơ ước … đã trở thành hiện thực !

Điều họ chỉ dám mơ, Thiên Chúa đã làm cho thành hiện thực : Thiên Chúa đã xuống, mặc lấy xác thịt và "đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. " (Ga 1.14,17),

Thiên Chúa bây giờ trở thành Đấng Em-ma-nu-en nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, gắn bó với loài người trong một kiếp sống phàm nhân. Người đã trút bỏ uy quyền và vinh quang, để xuống thế trong đêm đông tối tăm lạnh lẽo. Người đã chọn một nếp sống nghèo hèn của phần đông dân chúng trên trần gian: sinh nơi hang đá hôi hám, giữa những con bò lừa, chỉ có những anh mục đồng nghèo khó tới viếng thăm ; lớn lên làm thợ mộc là một nghề thủ công “tay làm hàm nhai”..., đến thời buổi ấn định đã từ giã gia đình ra đi, đem Tin Mừng Thiên Chúa Cứu Độ cho nhân loại, và sau cùng đã hy sinh mạng sống mình để đền tội thay cho loài người, tiêu diệt quỉ ma đang gieo rắc sự chết, và giải thoát loài người khỏi vòng nô lệ của chúng :

“Đức Giê-su đã (xuống thế làm người) cùng mang lấy huyết nhục đó (của loài người, để có thân xác mà chịu chết). Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ.” (Dt 2.14-15).

Người khai sáng một thời đại mới, bởi ban Thần khí tái sinh nhân loại thành con cái Thiên Chúa, chứ không còn là nô lệ sống trong sợ hãi như dân Israen xưa :

 "Không phải Thần Khí của hạng nô lệ mà anh em đã lãnh nhận để mà phải sợ hãi, nhưng anh em đã chịu lấy Thần Khí của hàng nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên: “Áp-ba ! Cha ơi !”  Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí rằng ta là con cái Thiên Chúa." (Rm 8.15-16)

Như vậy Người khai mở cuộc sống thân tình của gia đình siêu nhiên, sự liên hệ thân mật giữa cha mẹ con cái, giữa anh em chị em trong gia đình này : Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu là Trưởng tử giữa đàn em đông đúc, Đức Maria là Hiền Mẫu, các Thiên thần, các Thánh là những bằng hữu tốt bụng chuyên lo chuyển cầu, giúp đỡ cho người trần thế...

Những người đồng thời với Chúa Giêsu – không những các tông đồ và môn đệ mà còn cả dân chúng nữa – đã bắt đầu sống kinh nghiệm tình thân ấy với Người. Vị Thiên Chúa cao sang ấy đã chạm tay đến người phong hủi, tật nguyền, đôi mắt chí thánh đã đoái thương nước mắt người phụ nữ tội lỗi sám hối, và chịu đồng hàng trên thập giá cả với những tên trộm cướp vào một ngày cuối đời. Con Người ấy đã chẳng khác gì loài người chúng ta, đã mong muốn đồng chung số phận nhất là với kẻ bé mọn, nghèo hèn, đau khổ, tội lỗi ...

  • Nhưng có một điều nên lưu ý là :

Thoạt nghe, ai cũng tưởng là do công của dân Israen ước ao kêu cầu, mà Thiên Chúa đáp ứng xuống ở với loài người, làm thân với nhân loại, kỳ thực, chính vì Thiên Chúa trước tiên đã có ý muốn xuống ở với họ, nên đã gieo vào lòng họ cái ước ao khiến họ kêu cầu, để Người như có cớ đáp lại nguyện vọng của họ mà xuống. Thế là :

THIÊN CHÚA ĐÃ XUỐNG

Ở GIỮA LOÀI NGƯỜI !

Một sự “hạ cố” không thể nào tưởng tượng nổi ! “Thần linh giáng hạ” ! Một chuyện chưa từng nghe và làm ù tai: Điều mà người xưa vẫn mơ tưởng thì nay đã thành sự thật, mà không chỉ là một vị thần tướng nào trên thiên đình, song chính Thượng Đế, chính Thiên Chúa giáng hạ !! Qua sự kiện này, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa yêu quí và gắn bó với loài người thắm thiết biết dường nào ! Dám nói rằng vinh quang và niềm vui của Người sẽ chẳng trọn vẹn nếu thiếu chúng ta.

Nói thì nói thế, chứ thực ra Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, trọn tốt trọn lành, giàu có sung mãn, chẳng thiếu thốn gì cũng như chẳng cần gì của chúng ta. Nếu không, Người đã chẳng là Thiên Chúa. Kìa xem từ trước khi tạo lập vũ trụ, trước khi có chúng ta trên địa cầu bé bỏng như hạt cát giữa vũ trụ mênh mông này, [12] Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn hằng có, vẫn hằng yêu thương nhau, gắn kết với nhau nên một và đương nhiên là vẫn vô cùng hạnh phúc ! Lại có hằng hà sa số Thiên thần luôn ngưỡng mộ, thần phục, hết sức thờ phụng yêu mến Thiên Chúa... Ở trên Thiên Quốc đó, hạnh phúc không bao giờ vơi, niềm vui không bao giờ tắt, sự sống không bao giờ tàn úa, mọi sự đều viên mãn... Cần gì đến ta !

Ấy vậy mà Thánh Kinh lại cho biết :

Thiên Chúa muốn và thích ở cùng loài người.

Nếu Thánh Kinh không nói, chúng ta không dám tin. Đây xin nhắc lại một vài đoạn Thánh Kinh làm chứng :

“Chúng sẽ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự ở giữa chúng.” (Xh 25.8

 “Lạy Đức Chúa, Ngài chẳng cần gì cả. Ngài ưa thích có một Đền Thờ để lưu ngụ giữa chúng con.” (2 Mcb 14.35

“Người phán : Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ta.” (2 Cr 6.16)

  "Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. […] Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to : “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ (Emmanuen).” (Kh 21.1-3)

 

@@@@@_BÀI 67_@@@@@

Câu Thánh Kinh : "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" trên đây, trước kia chúng ta chỉ thường hiểu là việc Chúa Giêsu đến ở với chúng ta, khởi đầu với việc Nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, như Tin Mừng thánh Matthêu ghi chép: "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1.22-23) ; rồi sau đó, Người ở trần gian ít lâu để thi hành việc cứu độ, lúc hết nhiệm vụ Người về trời lại. Nhưng bây giờ nhờ được đọc đoạn sách Khải huyền trên này, chúng ta mới biết : Câu đó còn nói về việc Thiên Chúa ở với chúng ta không hạn định thời gian từ đó mãi cho đến muôn đời. [13]

Hơn nữa, kiểu nói của sách Khải huyền trên đây “Nhà Tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại” ; “Thiên Chúa dựng Lều ở với họ” còn muốn diễn tả cho chúng ta thấy sự thân tình của Thiên Chúa đối với chúng ta, khi ở cùng chúng ta, đồng hành với chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế gian nan trắc trở mọi bề…, giống như khi xưa Người thân tình ngự trong Lều tạm bằng vải để cùng đồng hành với dân Israen rong ruổi trong sa mạc 40 năm trường :

“Lều Hội Ngộ (hay Lều tạm), trước nhan ĐỨC CHÚA, nơi Ta sẽ gặp gỡ các ngươi, để nói chuyện với ngươi. Chính đó là nơi Ta gặp gỡ con cái Ít-ra-en [….] Ta sẽ ngự giữa con cái Ít-ra-en và sẽ là Thiên Chúa của chúng” (Xh 29.42-45).

 

*

 

Nhưng vì sao Thiên Chúa lại thích ở với loài người như thế ?

Chẳng lẽ nếu thiếu vắng loài người thì niềm vui của Thiên Chúa không trọn vẹn ?

Lý do thâm sâu là đây : "Thiên Chúa là Tình Yêu !" (1 Ga 4.8,16). Thánh Kinh đã xác nhận như vậy.

Mà Tình yêu bao giờ cũng cần phải có đối tượng khác mình để yêu, yêu là yêu ai chứ chẳng lẽ “yêu mình”, vì thế người ta mới nói “yêu nhau”. Vậy, vì Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên trước tiên trong nội bộ Thiên Chúa, Thiên Chúa không thể chỉ có một Ngôi cô độc, lẻ loi ngự trong Cõi Vĩnh Hằng tự tại im lìm bất biến; nhất định Thiên Chúa phải có Ba Ngôi : Cha sinh ra Con, yêu Con, Con yêu Cha trong Thánh Thần là Tình Yêu liên kết. Ở trên Cõi Vĩnh Hằng siêu việt, từ thuở đời đời, Thiên Chúa Ba Ngôi ở cùng nhau, gắn kết với nhau nên một [14], yêu nhau và hạnh phúc vô cùng…

Xét theo khía cạnh đó, Mầu Nhiệm Một Chúa mà có Ba Ngôi, ‘Tam vị nhất thể’ chẳng có gì là khó hiểu.  

Kế đến nhìn ra ngoài nội bộ Thiên Chúa, thì Tình Yêu Thiên Chúa không hề bị cạn kiệt trong quan hệ qua lại giữa Ba Ngôi, song là nguồn phát sinh ra những vật ngoài Thiên Chúa. Nói cách khác, Tình yêu vốn có đặc tính là tuôn trào, cho nên Tình Yêu mênh mông, bao la của Thiên Chúa yêu nhau và ở với nhau trong Ba Ngôi như thế xem ra chưa thỏa lòng, bởi vậy Tình Yêu vô cùng sung mãn ấy của Thiên Chúa Ba Ngôi đã tuôn trào, khiến Người tạo dựng nên vũ trụ và mọi loài mọi vật, cách riêng loài người.

Tắt một lời, vì yêu nên Thiên Chúa dựng nên vũ trụ và loài người, đến với loài người, thích ở với loài người, để thông chia hạnh phúc cho họ !

Có một điều đặc biệt truyệt vời là khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa nhìn vào nội bộ Ba Ngôi yêu nhau và hiệp nhất nên mộtsáng tạo họ họa theo hình ảnh của mình, do đó Người sáng tạo họ có nam có nữ (St 1.27) và ban lệnh phải sinh con đẻ cái (St 1.22). Như thế gia đình nhân loại gồm ba người: chồng+vợ+con gắn bó với nhau nên một là phản ảnh của mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa vậy.

Và như Tình Yêu trong Thiên Chúa Ba Ngôi có đặc tính tuôn trào, thì tình yêu vợ chồng cũng làm họ tuôn trào ra – tức là sinh sản ra – con cái, lưu truyền nòi giống loài người vô hạn định cho đến tận thế…

 

* * * * *

Thiên Chúa còn đi thêm bước nữa :

Thiên Chúa muốn làm bạn tri âm tri kỷ với loài người. Người không muốn dựng nên họ chỉ là những thọ tạo ở xa xa tôn thờ Người một cách "Kính nhi viễn chi". Rời chốn cao thẳm, Người xuống ở với họ, họ ở với Người, làm bầu bạn với họ, để Người kể truyện của Thiên Chúa cho họ nghe, để chia sẻ những bí mật của Thiên Chúa cho họ biết, cũng như nghe những nỗi niềm tâm sự của họ. Chúa Giêsu đã cho biết như thế, ai còn dám bảo là không phải thế ?

“Anh em là bạn hữu của Thầy… Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ mình làm. Thầy đã gọi anh em là bạn hữu, vì mọi điều Thầy đã nghe nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết” (Ga 15.14-15).

Trên Thiên Quốc hạnh phúc không bao giờ vơi, niềm vui không bao giờ tắt, sự sống không bao giờ tàn, mọi sự đều viên mãn..., vậy mà Thiên Chúa lại bỏ trời cao xuống dưới đất thấp này... để đi tìm những mảnh đời nhỏ bé khốn cùng mà yêu thương, mà Ở LẠI trong từng trái tim rách nát, thương đau..., để mà kiếm tìm chút tình bầu bạn của loài người !

"Con gẫm suy sao Chúa yêu con làm chi ? Kìa trên Thiên quốc cõi phúc vinh quang nào thiếu đâu, mà đến đây chung cùng chia sẻ kiếp người ?"

Sở dĩ dám khẳng định sự thân tình ấy là vì ở thời Tân Ước, chính Chúa Giêsu đã hé lộ ra cho biết ! Còn ở  thời Cựu Ước, đó là một điều mà dân Israen không hề dám nghĩ tới, do họ thượng tôn và kính sợ Thiên Chúa quá sức !

TRI ÂN VÀ ĐÁP ĐỀN TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

Những vinh dự vô cùng lớn lao nói trên, ta hãy để tâm suy niệm và cầu xin Thánh Thần tác động, hầu cảm nhận được những vinh dự ấy mà hân hoan vui sướng. Xin đừng chỉ nghe trượt qua ngoài tai giống như ta vẫn thường nghe bao tin tức hàng ngày ! Sẽ rất đáng tiếc vô cùng !

Vâng Lạy Chúa ! Suy gẫm các điều trên, nhân loại chúng con hết lòng tri ân Thiên Chúa, và sẽ ra sức lo đáp đền tình yêu Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng con, chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa cho chúng con, còn xuống làm bạn với chúng con nữa. Song đáp đền thế nào cho cân xứng đây ? Nhờ Thánh kinh, chúng con biết Thiên Chúa chẳng đòi hỏi điều gì khác ngoài sự yêu mến đáp trả lại tình yêu của Người ! Thánh kinh luôn nhắc đi nhắc lại rằng đó là điều Chúa đòi hỏi ở chúng con :

“Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc ?” (Đnl 10.12-13)

“Có một người trong các kinh sư … đến gần Đức Giêsu và hỏi : “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?” Đức Giê-su trả lời : “Điều răn đứng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” (Mc 12.28-30)

@@@@@_BÀI 68_@@@@@

II.- Diễn tiến của việc Thiên Chúa xuống ở với loài người  qua mặc khải Cựu Ước và Tân Ước :

  • Qua mặc khải của Cựu Ước

Thiên Chúa tỏ lộ cái sở thích của Người được đến sống giữa nhân loại. Sách Sáng thế cho biết việc Thiên Chúa đến trần gian : ví dụ Người đến viếng thăm ông Abraham (St 18.1-15), nhưng đó mới chỉ là một sự gặp gỡ tạm thời, dưới hình dáng bên ngoài. 

Sau đó, vào thời xuất khỏi Ai Cập, dân It-raen được cứu thoát ách nô lệ và rong ruổi trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, thì Thiên Chúa, dưới hình Cột mây, Cột lửa (xem hình),

đến trú ngụ trong Lều vải đơn sơ cùng đồng hành sống lang thang như họ, cho đến khi họ vào định cư trong đất Hứa Phalêtin, thì Người chọn một nơi để làm chốn cư ngụ ở giữa dân Người, đó là Đền thờ Giêrusalem (Xem các hình ở tr.187tt)

“Đấng cả trời đất không thể chứa đựng, đã chấp nhận được cư ngụ tại thế, trong ngôi nhà do bàn tay con người xây dựng” (Đnl 12.5; 1V 8.27-29).

Sách Thánh Kinh Cựu Ước cho biết Thiên Chúa bày tỏ niềm vui thích được ở với dân Người, khi Người ngự vào Đền Thờ một cách uy nghi huy hoàng :

"Khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ ĐỨC CHÚA. Các tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây : quả thật, vinh quang ĐỨC CHÚA đã tràn ngập Đền Thờ ĐỨC CHÚA. Bấy giờ vua Sa-lô-môn nói :“ĐỨC CHÚA đã phán : Người sẽ ngự trong đám mây dày đặc. Vâng, con đã xây cho Ngài một ngôi nhà cao sang. Một nơi để Ngài ngự muôn đời.” Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của con ! …. Xin  Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày, nhìn đến nơi này, vì Ngài đã phán ‘Danh Ta sẽ ở đấy’.” (2 Sm 7.13; 1V 8.10-13; 22-29).

(Trên đây là Đền thờ vĩ đại do vua Hêrôđê Cả xây thời Đức Giêsu. Hình mặt tiền, nhìn từ sân phụ nữ).

Ngự trong Đền Thờ nguy nga, tráng lệ dường như Thiên Chúa chưa hài lòng, thấy còn xa cách loài người quá, vì vậy các ngôn sứ, tỉ dụ như Zakarya, đã nhân danh Đức Chúa mà hứa một sự ở cùng gần gũi thân mật hơn :

“Hãy reo lên, hãy vui mừng... Này Ta đến lưu trú ở giữa ngươi” (2.14 [10]).

Và ngôn sứ Sôphônia cũng báo : “Đức Chúa ở giữa ngươi” (3.15).

*ª*ª*

(B) Qua mặc khải Tân Ước  

1- Thiên Chúa xuống làm người.

Chưa bằng lòng với việc cư ngụ trong một Đền thờ, đến thời viên mãn, khi mọi sự chuẩn bị đã xong xuôi, Thiên Chúa siêu việt không còn ngự ở một nơi nào nữa, mà mặc lấy thân xác một người, mang tên là Giêsu, ngõ hầu nơi bản thân Người, việc Thiên Chúa đến ở trần gian mới thành hiện thực thật sự. Và chúng ta đã nghe công bố: “Lời là Thiên Chúa, … đã thành xác phàm và đã lưu trú nơi chúng ta” (Ga 1.1,14).

Thiên Chúa mặc xác làm người, đến cư ngụ giữa loài người, đi đứng, nói năng, hoạt động, vui buồn và đau khổ giữa trần thế. Đấng Cao Cả đã trở nên con người Giêsu bình thường đến nỗi những nhà thông thạo Thánh Kinh thời đó không thể tin nổi, nghĩ là Người mạo danh phạm thượng, và đã chống nghịch Người.

Chính Thiên Chúa đã thực sự trở thành Emmanuen : Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Tin Mừng Matthêu xác nhận : “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 1.22-23)

* * *

2- Thiên Chúa Ba Ngôi đến ngự trong lòng con người !

Chưa vừa lòng với việc xuống thế làm người và ở cùng chúng ta, Đức Giêsu còn kéo cả Chúa Cha xuống ở với loài người, mà lại vào lập cư trong mình họ nữa :

“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy (Chúng Ta) sẽ đến và đặt chỗ ở nơi người ấy” (Ga 14.23).

Tin Mừng Gioan đã cho ta biết sự ở cùng tuyệt vời ấy, đến nỗi có một văn sĩ đã dám nói “Người ta đã thuần hóa được cả Thiên Chúa thành người nhà mình !” (domesticated God).

Có điều này nên lưu ý : Khi đề cập đến thời sau trên Thiên Đàng, Đức Giêsu nói với các môn đệ như sau : “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở,… và Thầy đi dọn chỗ cho anh em… và sẽ đến lại mà đem anh em theo Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó (với Thầy)" (14.2-3). Người nói sẽ đến lại và đem các môn đệ theo Người để Người ở đâu (ở trên trời), họ cũng ở đó với Người.

Ngược lại, khi đề cập đến thời hiện tại nơi trần gian thì Đức Giêsu nói rằng : Chúa Cha và Người sẽ đến nhưng chẳng đem họ đi đâu cả, trái lại đặt chỗ ở nơi họ, trong nơi chốn và thời gian hiện tại họ đang sinh sống. [15]

“Đặt chỗ ở”, [16] cụm từ ấy muốn nói lên tính cách lâu dài của việc ở, tức là Người muốn xây dựng một “Lâu Đài Tình Ái” [17] thiêng liêng, bền vững, kiên cố…để nơi đó ngọn lửa Tình Yêu Thiên Chúa được bừng cháy nồng nàn trong tâm hồn họ.

 @@@@@_BÀI 69_@@@@@

Dầu vậy :

Việc hiệp thông phải nhờ Thần Khí thực hiện.

Quả thế, Chúa Cha mà không hề ai đã xem thấy, và Chúa Con – Đấng đã tỏ mình ra cho ta thấy được (bởi nhập thể làm người) – dù đến đặt chỗ ở trong linh hồn người ta, thì vẫn không thể bước vào hiệp thông với họ. Tại sao không thể? Chúa Cha cũng như Chúa Con là Thiên Chúa, là Đấng Toàn Năng, có gì mà Hai Đấng lại không thể làm được ?

Xin trả lời : Tuy Hai Đấng, theo tư cách là Đấng Tạo Hóa, quyền năng vô biên, có toàn quyền trên muôn loài muôn vật, và vẫn thâm nhập vào trong bản thể sâu kín của họ, bao bọc và bảo tồn họ trong hiện hữu: “Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự…. Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu…” (Cv 17.25,28), nhưng thông hiệp với họ thì không thực hiện được, vì thông hiệp đòi buộc đối tượng phải có một hành vi tự do mở lòng ra đón nhận. Có ý chí tự do, loài người có quyền chấp nhận hay khước từ; và Chúa tôn trọng tự do mà Người đã ban cho họ. Quả là một sự tự do có thể nói là “ghê gớm”, vì trước tự do ấy ngay cả Đấng Toàn Năng cũng phải nhượng bộ!

Như thế sự quyết định đón nhận Chúa vào cuộc đời của chúng ta mới có giá trị, và sự chấp thuận ấy của chúng ta được kể như là chút công nghiệp phần ta đóng góp, để ta có thể nhận phúc Thiên Đàng Thiên Chúa thưởng cho mà không thẹn thùng, vì có câu rằng : "vô công bất thụ lộc."

Biết vậy, thì ai sẽ lay động ý chí tự do của ta khiến ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa ? 

Thưa : Chúa Thánh Thần. Là Đấng có tên là: “Thiên Chúa được thông ban”, hoặc như Đức Giáo Trưởng Gioan-Phaolô II nói [18]: "Thánh Thần là Thiên Chúa tự cung hiến mình", nhờ Ngài đến mở lòng ta đón nhận sự hiện diện huyền nhiệm của Thiên Chúa."

Ngài đến khi nào ?

Khi Thiên Chúa ban Ngài cho ta :

“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5.5)

"Anh em đã chịu lấy Thần Khí của hàng nghĩa tử nhờ đó ta kêu lên : 'Áp-ba !' Cha ơi !" (Rm 8.15).

Đón nhận Thánh Thần-Tình yêu Thiên Chúa ban, nhờ Ngài ta kêu Thiên Chúa “Cha ơi !”, như thế là bước vào sự thông hiệp với Người.

Tóm lại, Chúa Cha và Chúa Con chỉ có thể thông hiệp với ta được là nhờ Thánh Thần.

Hiểu được như vậy, ta mới thấy sự hiện diện cao trọng này của Chúa Ba Ngôi không phải bất cứ ai cũng được, mà chỉ những ai có lòng "yêu mến Thầy… giữ lời Thầy…thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến… đặt chỗ ở nơi mình người ấy." (Ga 14.23)

Ai tinh ý sẽ thấy ở đây có một khuynh hướng ngày càng đi sâu vào nội tâm, chứ không còn là những sự cư ngụ bên ngoài, ở một nơi nào hay một đền thờ nào cho dẫu nguy nga huy hoàng đến đâu đi nữa. [19]

Như vậy, ở đoạn Tin Mừng Gioan này, nhấn mạnh đến sự thân tình cực kỳ mật thiết, đến một sự thông hiệp liên vị (giữa hai nhân vị = communion inter-personnelle) trong cuộc sống, chia sẻ cùng một sự sống, (nhưng họ vẫn là họ, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa). Và đấy là một mối quan hệ năng động, chứ không tĩnh tại, mà hậu quả là năng lực thần linh tràn vào họ, làm cho họ có khả năng nói những lời của Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa.

Cha F.M.Braun nói thêm : “Đây quả quyết về Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện mới mẻ và đặc biệt trong tâm hồn các môn đệ của Chúa Kitô, khác hẳn với sự có mặt chung chung của Thiên Chúa nơi mọi loài, mọi vật. Điều đáng để ý là sự hiện diện thông hiệp triệt để độc đáo ấy, lại không được coi như là một đặc ân, đặc quyền của riêng một nhóm nhỏ ưu tuyển, nhưng như là một kết quả bình thường mà bất cứ người nào giữ các lệnh truyền của Chúa Kitô đều có thể đạt tới".

Cha Lagrange tiếp lời : “Không đòi học thức, văn hóa, chẳng bắt phải có năng khiếu chiêm niệm, ngay cả chẳng buộc một lối tu luyện khổ chế đặc biệt nào”...

Chính Đức Giêsu nhấn mạnh : Con đường đưa tới đó, mọi người đều có thể đi. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 14.6-7).

Điều kiện vỏn vẹn chỉ có thế : tình mến Chúa Giêsu chân thành, được chứng thực bởi việc thi hành các lời Người truyền dạy, với lòng đại độ và tận tụy..., vì chính Người nói :

"Ai có và giữ các lệnh truyền của Thầy người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy…Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy"…"Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy… và Chúng Ta sẽ đến… đặt chỗ ở nơi mình người ấy." (Ga 14.21-24)

Đến đây, ta có thể tóm tắt : Nếu phía Thiên Chúa thích đến ở cùng loài người là do Tình Yêu tuôn trào muốn chia sẻ các phúc lộc, muốn bảo vệ, phù hộ và cứu độ họ, thì phía loài người muốn được ở với Thiên Chúa – không phải theo nghĩa thông thường là có mặt ở bên nhau, nhưng là thông hiệpthì phải lấy tình yêu – tình yêu siêu nhiên là Thánh Thần – mà đáp trả tình yêu, gắn bó với Người bởi yêu mến hết lòng hết sức trong tâm tình tri ân sâu thẳm, và vì yêu mến thì trung thành giữ các điều Người truyền dạy.

SUY NIỆM

Ta thường quen nghĩ rằng Chúa ở trong nhà thờ, và chỉ ở nhà thờ mới có Chúa. Mặc áo đi đến nhà thờ mới gặp Chúa. Đàng khác, khi nghe đến chữ Đền Thờ / Nhà Thờ / Thánh Đường, ta nghĩ đến một nơi tôn nghiêm, vào đó phải ăn mặc chỉnh tề, giữ thái độ cung kính, nghiêm trang, làm những cử chỉ khuôn phép định sẵn, đứng lên, ngồi xuống, hát và đọc kinh chung v.v… Nghĩ như thế làm mất tính cách thân mật yêu thương trên đây vừa nói. Thật ra thì Đền Thờ là một chữ dùng cho có vẻ long trọng do sự tôn kính mà đặt ra, song thực tế chỉ muốn nói đó là nơi Chúa ở và sinh hoạt.

Nay ta phải sửa đổi ý nghĩ trước kia, song không có ý bảo đừng đến nhà thờ, nhưng vì nghe Tin Mừng Gioan bảo rằng : Thiên Chúa không chỉ ở trong nhà thờ, còn đến đặt chỗ ở ngay trong thân mình Kitô hữu. Cách đơn sơ thân tình vậy thôi. Người đến vì yêu thương ta, với hai tay đầy ơn phúc để chia sẻ cho ta, để giúp đỡ ta, phù trợ ta, bênh vực ta… Phần ta, muốn đến với Chúa, chỉ cần có tình yêu, chẳng cần mặc áo đi đâu cả. Ta có thể đến với Thiên Chúa đang ở trong mình ta như đến nhà cha mẹ, vui vẻ, thoải mái, ở đó ta sinh hoạt, ta yêu mến, ta cầu xin, ta trình bày cho Chúa những thành công hay thất bại của ta, chuyện vãn tâm sự với Chúa, có gì nói nấy, chia vui sẻ buồn với Chúa…

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa ban cho các người thuộc về Chúa – ngay từ đời này, lúc còn sống trên mặt đất, không đợi thời sau cùng – được thông hiệp thân mật với Thiên Chúa trong sâu thẳm của đời sống Ba Ngôi. Từ đây, đối với tín hữu chúng con, tuy thân xác còn sống trên trái đất này, nhưng linh hồn đang sống trên Thiên Đàng. Vì Thánh Phaolô đã xác nhận : “Thật vậy,… sự sống mới của anh em hiện đang ẩn tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa.” (Cl 3.3),"Thiên Chúa đã cho chúng ta (hiện nay) được cùng sống lại và cùng ngự trị trên cõi trời trong Đức Kitô Giêsu." (Ep 2.6)

Tạ ơn Chúa muôn muôn ngàn lần, vì tất cả những điều vĩ đại và huy hoàng khôn sánh chúng con được hưởng nhờ công nghiệp cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu. Cám tạ đội ơn Chúa mấy cũng không bằng từ nay, chúng con ra sức sống thân mật với Chúa Ba Ngôi đang ngự trong tâm hồn chúng con, đó là cách tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn hết.

@@@@@_BÀI 70_@@@@@

3- “Ở cùng” mãi cho đến tận thế.

Từ lúc Chúa Giêsu Tử Nạn và Phục Sinh đã vinh hiển về bên Chúa Cha, Hội Thánh lữ hành dưới thế, mãi cho tới thời niên cùng thế tận, phải sống giữa thế gian thù nghịch và các thế lực hắc ám tấn công hãm hại, kèm với những thử thách, cám dỗ, vất vả trăm chiều…. Nhưng may thay, Hội Thánh được Đấng Emmanuen hứa sẽ ở luôn mãi với Hội Thánh : “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28.20).

 Một sự hiện diện và ở cùng huyền nhiệm để an ủi, trợ giúp, bênh đỡ và tăng sức mạnh cho Hội Thánh trong cuộc chiến đấu với ba thù…"Thầy không bỏ anh em mồ côi, Thầy sẽ đến với anh em. Còn ít nữa thế gian không còn thấy Thầy, còn anh em, anh em thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống" (Ga 14.18-19)

*

4- Thiên Chúa sẽ còn ở với họ cho đến muôn đời muôn kiếp trong Cõi Trời Mới Đất Mới.              

Niềm Hy Vọng Hằng Sống là giấc mơ của người Kitô hữu đến đây đã trở thành hiện thực (Xem lại Bài 1). Thiên Chúa sẽ đến với họ, và Đấng Emmanuen “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” sẽ ở bên họ luôn mãi trong Cõi Sống đời đời, nơi chỉ có hạnh phúc tròn đầy và nụ cười muôn thuở :

“Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa.[…]”.

“Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ.

“Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết ; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất." (Kh 21.1-4) [20]

Sau lời hứa “ở cùng” một cách thiêng liêng cho đến tận thế của Chúa nói với Hội Thánh như Mt 28.20 trên kia đã chép, vị Thiên Chúa Emmanuen còn hứa sẽ “ở cùng” vượt quá cả tận thế, mãi mãi đời đời vĩnh viễn không bao giờ còn chia xa trong cõi Trời mới Đất mới, nhưng ở đây nhấn mạnh vào việc “ở với” như một cuộc sống chung làm bầu bạn kề cận thân tình, mặt giáp mặt, với Chúa trên Thiên Đàng.

Đúng vậy, trong Tin Mừng Gioan, lời Chúa hứa ở vĩnh viễn đời đời kiếp kiếp làm bầu bạn với loài người đã được diễn tả một cách hết sức thân thương trìu mến, qua những  câu nói với các môn đệ sau đây :

Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở … Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ đến lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó (với Thầy)" (14.2t).

Do đó Thiên Đàng quả là đáng ước ao, vì được bầu bạn với Chúa Giêsu, chẳng phải Thánh Phaolô cũng ao ước tha thiết “được ở với Chúa Kitô” sao ? :

“Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần!” (Pl 1.23; x. 2Cr 5.8)

Ông không chỉ ước ao, ông còn dùng lối văn khải huyền tả cho chúng ta biết cuộc trùng phùng vĩnh viễn với Chúa :

“Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên ; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.” (1Tx 4.16-18).

CẦU NGUYỆN

Ôi lạy Chúa Giêsu ! Chúa là Ai ? Và chúng con là ai ? Người là Thiên Chúa, còn chúng con là tạo vật nhỏ bé hèn hạ. Chúa là Đấng chí thánh, chúng con là kẻ tội lỗi, tâm hồn tràn ngập xấu xa, nhơ nhớp. Chúa cao cả vĩ đại, cả cõi trời kia còn chứa không nổi, chúng con chỉ là từ bụi đất nắn ra, chỉ có chút hơi thở trong lỗ mũi, nay còn mai mất, chỉ như hạt cát giữa cái vũ trụ mênh mông bát ngát vô tận này, thế mà loài người chúng con là chi mà Chúa phải bận tâm và yêu thương đến như vậy ? (Thánh vịnh 8.5) Nếu Thánh Kinh không cho biết, chúng con không dám nghĩ tới, không dám tin mình được ơn trọng ấy. Quả thật Thánh Kinh cho biết : "Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm, đó là hết thảy những điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người" (1 Cr 2.9). Chúng con chỉ còn biết dâng cả cuộc đời mà Chúa cho chúng con sống với Chúa để hát mừng tạ ơn Chúa. Amen.

* * *

 

5-  Nhưng còn có một sự hiện diện và ở cùng, tuy vẫn huyền nhiệm song lại thiết thực cụ thể chứ không chỉ thuần túy thiêng liêng, đó là hiện diện Thánh Thể.

Đây đúng là hiệu quả thứ 3 của việc Rước Lễ mà ta đang học hỏi : "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy." (Ga 6.56)

Khi Chúa Giêsu đã chu toàn sứ vụ cứu độ nơi trần thế bằng cái chết trên thập giá và về trời, Người không bỏ rơi hay để mặc Hội Thánh là chúng ta, sống gian nan cô đơn nơi trần thế, tình thương cũng như sự khôn ngoan thượng trí vô biên của Người đã khiến Người nghĩ ra cách lập một dấu tích bí nhiệm (hay Bí Tích) là phép Thánh Thể, để…

- trở nên Lương thực thần thiêng nuôi sống những kẻ thuộc về Người (Mc 14.22-24 và ss ; Ga 6.51-57),

Bức tranh khảm lớn có mái che "Lập phép Thánh Thể", tại khuôn viên Nhà thờ Thánh Giacôbê, giáo xứ Mễ Du.

- đồng thời nhờ đó, Người có thể ở trong tâm hồn họ với cả thần tính và nhân tính của Người – như các nhà thần học thường nói – nghĩa là với con người thật của Người nay đang ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang trên trời, và họ, họ cũng được ở trong Người (Ga 14.20); 

ngự âm thầm trong Nhà Tạm mà đồng hành với họ, cùng chia vui sẻ buồn trong suốt cuộc lữ hành dương thế của họ.

Ta hãy dừng lại một hai phút và mượn lời Thánh Tiến sĩ Tôma Aquinô ca tụng Bí tích ngọt ngào này :

"Để chúng ta ghi nhớ hồng ân cao cả Người đã đổ Máu ra hy sinh chịu chết vì chúng ta, Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể, để lại Mình Người làm của ăn, Máu Người làm của uống cho các tín hữu rước lấy dưới hình bánh và hình rượu. Cao quí thay bữa tiệc của Chúa, bữa tiệc mang lại Ơn Cứu Độ và đầy dịu ngọt ! Quả thật còn gì quí giá hơn bữa tiệc ấy ? Ở đó không phải là thịt dê thịt cừu như trong Luật cũ nữa, mà là chính Đức Kitô, Thiên Chúa thật, được dọn ra cho chúng ta lãnh lấy.

“Còn gì kỳ diệu hơn Bí tích này ?  Cũng không có Bí tích nào đem lại lợi ích dồi dào hơn, vì nhờ Bí tích này tội lỗi được tẩy sạch, nhân đức được gia tăng, và tâm hồn được chan chứa ân huệ thiêng liêng. Bí tích này được tiến dâng (trên bàn thờ) trong Hội Thánh để cầu cho kẻ sống và kẻ chết, hầu sinh ích cho mọi người, vì đã được lập ra cho mọi người được Ơn Cứu Độ. Cuối cùng không ai đủ sức diễn tả sự ngọt ngào của Bí tích ấy, dù đã cảm nếm được sự dịu ngọt thiêng liêng ngay tại nguồn mạch. Tình Yêu bao la tuyệt vời mà Đức Kitô đã tỏ ra trong cuộc Thương khó của Người, lại được tưởng niệm trong Bí tích này, là kỷ vật muôn đời ghi nhớ cuộc Thương Khó của Người, đó là phép lạ lớn nhất trong các phép lạ Người làm, đồng thời Người đã để lại một niềm an ủi đặc biệt cho những ai buồn phiền vì Người vắng bóng." (Bài Kinh Sách, Lễ Mình Máu Thánh Chúa)

SUY NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN

  • Vậy, trong cuộc sống của bạn, bạn có thấy thiếu vắng Chúa Giêsu không, nhất là khi đã mất Chúa vì tội lỗi ? Bạn có tâm tình đau đớn vì thiếu vắng Chúa Giêsu như Đức Maria và Thánh Cả Giuse khi lên Đền thờ Giêrusalem chầu lễ đã lạc mất Chúa Giêsu hồi 12 tuổi ? Những ngày thiếu vắng người Con mà Mẹ yêu dấu hơn chính bản thân mình, thực sự là một cơn hấp hối cho Mẹ. Cuộc đời hình như không còn ý nghĩa gì nữa. Mọi sự đều vô vị, lạt lẽo và buồn tẻ… Kho báu Trời trao cho Mẹ đó, thế mà nay vì sơ ý, – Mẹ tự trách mình như thế – đã vuột mất, không biết có bao giờ tìm lại được không… Lo sợ và đau đớn biết bao: “Cha con và Mẹ đau đớn tìm Con” (Lc 2.48).
  • Thiếu vắng Người, bạn có tâm tình ao ước khao khát tìm kiếm để gặp Người không ? Hay cuộc sống này quá đủ đối với bạn, quá đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần … và nghĩ rằng mình không cần Chúa, không khao khát sự hiện diện của Người, chẳng chờ mong Người ?
  • Nhớ lại tích Thánh Augutinô : ông cũng đã một thời gian dài chạy theo những danh vọng, thú vui trần gian… và ông cho biết : sau khi tìm thỏa mãn mọi ham muốn, mọi lạc thú, lòng ông vẫn thấy trống rỗng, không mãn nguyện. Và càng thấy lòng mình trống rỗng thì lại càng lao mình vào tìm những thú vui và thỏa mãn khác, nhưng vẫn vô ích, chúng chỉ để lại những dư vị đắng cay, những chán chường, những hối hận day rứt, chưa kể còn gây đau khổ ưu phiền cho bao nhiêu người thân sống quanh mình, cách riêng bà Mônica thân mẫu ông… Cuối cùng ông cũng đành thốt lên một câu thú nhận để đời: “Tâm hồn con đã được dựng nên cho Chúa, nên luôn luôn khắc khoải (không tìm đâu được sự nghỉ ngơi) cho đến khi tìm được nghỉ ngơi trong Chúa.”
  • Chúng ta hãy cầu xin cho mình cũng có lòng khắc khoải cảm thấy thiếu vắng “đói khát Thiên Chúa !” Mỗi khi tâm hồn băn khoăn, khắc khoải, mang gánh nặng nề, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, để được an ủi, được trợ giúp cho đời mình được sung mãn, toại nguyện và đắc thắng.

@@@@@_BÀI 71_@@@@@

Thái độ của chúng ta trước Bí tích huyền nhiệm này :

  1. a) Tuyên xưng niềm tin :

Để đáp lại tình yêu Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể, điều trước hết ta phải làm là "tin" : Bí tích này là Mình Máu thật của Chúa Giêsu.

Bài huấn giáo cho tân tòng ở thành Giêrusalem (năm 350) dạy một cách rõ ràng không đâu bằng : "Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em ; anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói : “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.”

Khi chính Chúa Kitô đã tuyên bố về bánh : "Đây là Mình Thầy", thì còn ai dám nghi ngờ ? Và khi chính Người đã quả quyết: "Đây là Máu Thầy", ai còn dám nói đó không phải là Máu Người nữa ? Vì thế, bạn đừng nghĩ rằng Bánh và Rượu Thánh Thể là những yếu tố thông thường… cho dù giác quan gợi ý cho bạn rằng đó chỉ là bánh rượu thông thường, nhưng đức tin làm cho bạn nắm vững sự thật này: cái xem ra là bánh lại không phải là bánh – mặc dù có mùi vị bánh – nhưng là Mình Chúa Kitô ; cái xem ra là rượu lại không phải là rượu – mặc dù có vị rượu – nhưng là Máu Chúa Kitô.” (Bài Kinh Sách, Bát nhật Phục sinh, ngày thứ bảy).

Thánh Ambrôxiô giải thích : “Nếu lời của tiên tri Elya có đủ sức mạnh đến nỗi khiến cho lửa tự trời xuống  (x. 1 Vua 18.36-39), chẳng lẽ lời Chúa Kitô  lại không có sức thay đổi bản tính của các yếu tố vật chất ? Bạn đã nghe lời này về việc dựng nên trời đất : Người phán một lời và mọi sự đã được dựng nên ! Lời của Chúa Kitô đã có thể tạo dựng từ hư vô những gì trước kia không có trở thành có, lại không thể đổi những vật đang có thành ra khác được sao ? Quả thật sáng tạo ra các sự vật mới còn khó hơn biến đổi bản chất các sự vật đã có.” (Bài Kinh sách, Mùa thường niên, Tuần 15, thứ bảy).

Bài huấn giáo trên kia nói tiếp : "Vì thế, ta hãy nhận lấy bánh rượu này với niềm xác tín tuyệt đối rằng đây là Mình và Máu Chúa Kitô. Mình Chúa được ban cho bạn dưới hình bánh, và Máu Chúa được ban cho bạn dưới hình rượu, [21] để khi bạn ăn và uống Mình Máu Chúa Kitô  bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế chúng ta trở thành những người mang Chúa Kitô, có Mình Máu Người thâm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, chúng ta được "thông phần bản tính Thiên Chúa" theo lời Thánh Phêrô” (2 Pr 1.4).

Ở đây, ta nghe nói ta được "thông phần bản tính Thiên Chúa" nhờ ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu, là điều mà ta đã nhận được khi tin và chịu Phép Rửa (xem lại tr.103tt), do đó ta được củng cố thêm trong niềm tin mình đã được trở thành đồng bản tính với Thiên Chúa, và được là con thật của Thiên Chúa trên trời (1Ga 3.1 ; Rm 8.15; Gl 4.6).

Nhưng xin hỏi : Chúng ta có thật sự tin tự đáy lòng rằng Chúa hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể không ?

Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì có nhiều tín hữu, lúc dự Thánh Lễ hay rước Mình thánh Chúa, chỉ tin thuộc lòng, tin theo thói quen, do nghe cha mẹ dạy từ hồi nhỏ, hoặc do nghe dạy giáo lý và linh mục giảng bảo tin thì phải tin thế thôi !

Nghĩ lại mà xem, giữa đám đông tín hữu đến dự Thánh Lễ và chen chúc nhau lên Rước Lễ, được mấy người có lòng tin và cầu nguyện thật sự ?

TUYÊN XƯNG NIỀM TIN VÀ CẢM MẾN

Trước đây, có thể chúng ta đã chỉ có một niềm tin theo thói quen, một niềm tin do cha mẹ, thầy cô, giáo lý viên hay linh mục truyền lại. Hôm nay được học về Thánh Thể, có những hiểu biết hơn về Mầu Nhiệm cao trọng này, nên chúng ta cần phải tuyên xưng lại niềm tin của chúng ta vào Phép Thánh Thể : cụ thể là ngày mai hay Chúa Nhật tới, khi đi dự Thánh Lễ, đến chỗ linh mục Dâng Mình thánh lên , ta hãy thật tâm, tự đáy lòng, một lần thật mạnh mẽ, tuyên xưng lòng tin của ta nơi Chúa Giêsu đang hiện diện thật sự trong hình Bánh Rượu:

"Lạy Chúa Giêsu ! Con tin thật Chúa đang hiện diện đây ! Con tin ! Con thờ lạy Chúa !"

Lời tuyên xưng này sẽ trổ sinh một hiệu quả tuyệt vời: Tất cả những phần sau đó của Thánh Lễ sẽ sống động và đầy ý nghĩa, ví dụ :

- đến phần Vinh Tụng ca : “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mọi danh dự và vinh quang đếu qui về Chúa là Cha Toàn năng …”, ta sẽ cảm thấy chính Chúa Giêsu là chủ tế đang hiện diện thực sự đây, và chúng ta được hân hạnh cùng với Người dâng lên Chúa Cha mọi vinh quang và danh dự.

- Đến Kinh Lạy Cha, chúng ta hân hoan dâng lên Cha kinh nguyện này, vì biết có Chúa Giêsu cùng hợp tiếng cầu nguyện với chúng ta, vì thế lời nguyện này sẽ được Chúa Cha dễ nhậm lời vì Cha nghe thấy tiếng Con yêu dấu của Cha cùng cầu nguyện.

- Đến lúc Rước Lễ, ta tin chắc Chúa Giêsu trong hình bánh đến ngự vào trong lòng ta, ở với ta, làm chủ đời ta, ban sự sống và mọi ơn lành cho ta …

Khi tuyên xưng niềm tin, ta không chỉ dừng lại ở việc tin một cách khách quan (bằng trí óc) rằng Mình Máu thánh Chúa hiện diện trong hình bánh hình rượu, mà còn phải cảm mến sâu xa (bằng trái tim) bởi nghĩ rằng: giữa Thiên Chúa Toàn năng và Hằng Hữu và chúng ta là tạo vật nhỏ bé hèn hạ nắn từ bùn đất, nay sống mai chết, có một vực sâu vô cùng ngăn cách không thể nào vượt qua được, thế mà làm sao vị Thiên Chúa Chí tôn chí thánh, Chúa Cả càn khôn, ngự trên chốn cao sâu thăm thẳm, “ở trong ánh sáng vô phương đạt thấu,” như thế mà lại “hạ cố” xuống ẩn trong hình bánh rượu để ngự vào trong tâm hồn những con người xấu xa tội lỗi như chúng ta !

 “Hạ cố” xuống làm người đã là một điều không thể tưởng tượng nổi, nhưng dù sao cũng còn là xuống làm một con người, đầu cao mắt sáng, đầu đội trời, chân đạp đất, có uy tín là Đấng Thiên Sai, làm vô số phép lạ, dân chúng đoàn đoàn lũ lũ chạy theo hoan hô, cám tạ…

Còn ở đây, Chúa “hạ cố” xuống đến mức làm chiếc bánh nuôi người trần thế thì chẳng còn oai vệ gì nữa, người ta có thể khinh mạn dể duôi, có thể chà đạp dưới chân, có thể băm vằm tan nát… mà chẳng hề có một phản ứng đe phạt như xưa, bắt kẻ chạm vào Hòm Bia phải gục chết tươi ngay tại chỗ! Quả thật đây mới thật là điều khó tin. Nhưng đó cũng là điều chúng ta phải tin.

Chúng ta chỉ còn biết mượn bài thánh ca “Phút than thở” của nhạc sĩ Thiên Phụng và Tâm Bảo để ca ngợi sự “hạ cố” thẳm sâu lạ lùng của Chúa :

"Con mến yêu tin thờ trong lòng

Cùng chút tình ngây thơ ngắm trông,

Trong Thánh Thể Chúa Cả Càn Khôn,

Hằng náu thân tù hãm vì con.

Giờ đây hạnh phúc độc nhất đời con,

Êm đềm Chúa nhìn hạnh phúc nào hơn ?

Lòng con ngây ngất tin Chúa, yêu Chúa,

Trong tình Chúa yêu, con phó dâng tâm hồn."

Tin và cảm mến, rồi phải hết lòng tri ân, vì Rước Lễ, là Rước lấy toàn vẹn vị Thiên Chúa Toàn Năng, Cực Thánh, là Thiên Chúa Ngôi Hai, là Ngôi Lời đã tạo thành nên vũ trụ và mọi loài, mọi vật, “ẩn mình” trong hình bánh rượu để ngự vào trong tâm hồn chúng ta, những con người hèn hạ, để thông ban Sự Sống của chính Thiên Chúa cho chúng ta!

Điều nói trên là một sự thật, một thực tại siêu phàm mà phàm nhân chúng ta thật khó mà hiểu thấu đáo được, nếu không nhờ ánh sáng của ơn trên. Thật sự là loài người chúng ta đã “vô tri nên bất mộ !” Vì không hiểu biết nên không yêu mến, tôn thờ, cảm tạ tri ân Chúa với trọn vẹn trái tim mình.

 Vậy không những chúng ta tin yêu, tôn thờ Chúa Giêsu mà còn tin yêu, tôn thờ Người thay cho những ai chưa biết Người, cho những ai không tin yêu, tôn thờ Người, và hợp cùng Đức Mẹ đền tạ biết bao ơ thờ, bao bội bạc, bao sỉ nhục, bao xúc phạm loài người đã làm cho Con Chí Thánh của Mẹ :

“Lạy Mẹ Maria, Mẹ nỉ non bao lần, tội gian trần để phiền cho Trái Tim Mẹ. Lòng Mẹ thương bao la, tình mến yêu vô ngần. Con dâng mình đền thay tội lỗi muôn dân.”

Lạy Mẹ Maria, chúng con xin vâng Lời Mẹ đã kêu gọi chúng con. Xin Thần Khí Chúa đốt cháy trong chúng con ngọn lửa nồng nàn Tin Yêu Chúa.

Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Chúa, chúng con yêu mến Chúa. Xin ngự vào lòng chúng con và Ở LẠI với chúng con... mãi mãi. Amen.

*

 

 

 

 

 

[1]     Việc hiến tế thân mình của Chúa Giêsu để nên Thần lương mà chúng ta là Kitô hữu chấp nhận tin, thì trái lại đối với người Do Thái lại thêm một cớ nữa để họ chống đối : vì theo Lề Luật Thiên Chúa trong Cựu Ước, không bao giờ được phép hiến tế mạng người. Ngày xưa, có đôi lần người Do Thái chạy theo phong tục ngoại giáo sống chung quanh, đã tế sát con mình để làm lễ cúng tế thần linh (1 V 16.34; 2 V 3.27; 16.3; 2 Sb 28.3; 33.6; v.v…). Việc này đã bị Thiên Chúa kịch liệt lên án (xem Lv 18.21; 20.2-5; Tv 105.37t; Gr 7.31; 19.5; Ed 16.19,22 v.v..). Chính Thiên Chúa đã dạy họ luật cấm ấy bằng một bài học cụ thể sống động : Khi Người truyền cho ông Abraham đem tế sát con một là Isaac (thực ra chỉ là để “thử lòng ông” thôi, St 22.1), cho nên vào chính lúc ông giơ dao lên định giết con, Thiên Chúa ngăn lại : "Đừng giơ tay hại đến đứa trẻ!" (St 22.12).

[2]     Dùng chữ ‘ẩn dưới hình bánh, hình rượu’ là nói theo lối bình dân cho dễ hiểu.

[3]     Nếu không, thì cứ thử tưởng tượng xem : giả sử bây giờ linh mục chủ tế cầm một miếng thịt sống của Chúa máu còn đang chảy ròng ròng hay một chén máu đỏ tươi mà đưa cho ta, hỏi có ai dám lãnh nhận mà ăn mà uống không ? Vì thế, xin nhắc lại một lần nữa : trong Bí tích Thánh Thể, ta lãnh nhận Thịt Máu đã được tế lễ và đã trở nên thần thiêng của Chúa, chứ không phải Thịt Máu Người trong trạng thái bình thường trước khi phục sinh.

[4]   Vào Nước Thiên Chúa trong giai đoạn trần thế hiện tại là vào Hội Thánh, sau này vào Nước Thiên Chúa hoàn hảo thời cánh-chung cùng tận là vào Giêrusalem thiên giới, là Thiên Đàng, là cõi Trời mới Đất mới.

[5]    Xảy ra khi chịu Phép Rửa tội.

[6]    Xem 1 Cr 3.16; 1Cr 6.19

[7]    Cũng chính vì Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến tính cách thật là thức ăn mà Người lập Phép Thánh Thể trong một bữa ăn tối (Tiệc Ly, Lc 22.19), và Hội Thánh trong những thời đầu, Tiệc Thánh Thể cũng luôn được cử hành đi kèm với một bữa ăn (xem Cv 2.43,46; Lc 24.31,35; 1 Cr 10.16-21 ; 11.20-27). Mời đọc quyển “Đức Yêsu Phục sinh”, phóng tác của L.m. HMTuấn, Tập 2, tr 685tt, trình bày về Tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh sơ khai.         

[8]    Mời đọc một đoạn tiêu biểu : Ds 14., để thấy dân Do Thái đã làm những điều phản nghịch như thế nào, đến nỗi Thiên Chúa phạt họ chết phơi thây trong sa mạc, dù họ đã được ăn manna, uống nước phép lạ từ tảng đá phun ra. Ở đây không tiện trích đăng vì quá dài.

[9]      Sở dĩ phải nhấn mạnh như thế là vì có một số giáo phái ly khai cho rằng Chúa Giêsu bảo ăn thịt uống máu Người cách tượng trưng, như một kỷ niệm hay tưởng niệm, chứ không ăn uống Thịt Máu thật của Chúa, vì họ không tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự (présence réelle) trong Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta tôn trọng niềm tin của họ, song chúng ta có thể thắc mắc :

Không biết khi chủ trương như thế, các giáo phái ấy cắt nghĩa làm sao mấy đoạn Mt 26.26-28 ; Lc 22.19-20 ; 1 Cr 11.23-34 ; Ga 6.51-58 trong đó nói minh bạch hai việc : 1) Chúa bảo ăn Thịt uống Máu Chúa, rồi 2) lệnh truyền làm lại việc đó mà tưởng niệm (công cuộc cứu chuộc của) Chúa. Thiếu một trgt hai việc ấy là không thi hành đúng ý Chúa. 

Và nhất là không biết họ làm sao đối mặt với truyền thống mười mấy thế kỷ trước đây, có sách vở ghi chép làm bằng chứng luu truyền đến ngày nay, rằng : Hội Thánh – mà trong đó họ vẫn còn là thành phần, chưa ly khai tách rời – vẫn đã tin vào sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể và cử hành Thánh lễ, trong đó có việc Rước Mình Máu thánh Chúa ? Không biết họ có nghe những lời giảng dạy của các Giáo Phụ, chẳng hạn: Bài hộ giáo thứ nhất, I, 66-67, của Thánh Giútinô ; Bài huấn giáo tân tòng ở Giêrusalem, trích đăng ở tr.357tt… ?

[10]  “Ở lại”, cha Thuấn dịch “lưu lại” (động từ Hy Lạp “menein”) để nhấn mạnh hơn chữ “ở trong”, vì “ở lại” / “lưu lại” hàm ý ở lại lâu dài.

[11]   Chiếc hòm trong đó đựng hai tấm bia đá ghi chép 10 Điều răn của Thiên Chúa

[12]      Xem hình cho thấy vị trí nhỏ bé của trái đất và mặt trời của ta trong giải Ngân Hà, ở Bài 2, tr.163t.

[13]    Công thức “Thiên Chúa ở với hay ở cùng” thường gặp trong Thánh Kinh, có hai nghĩa : Nghĩa 1) Khi Thiên Chúa muốn dùng ai để thi hành một sứ mệnh trọng đại, Người luôn bảo đảm với họ : “Ta sẽ ở với ngươi”, tức là người đó được Thiên Chúa hiện diện bên cạnh để bảo vệ, ban sức mạnh và trợ giúp họ chu toàn sứ mệnh Người trao. Ví dụ, sau khi Môsê qua đời, ông Giôsuê được chọn kế nghiệp ông để đưa dân Israen vào Đất Hứa, Thiên Chúa bảo đảm với Giôsuê rằng: “Như Ta đã ở với Môsê, Ta cũng sẽ ở với ngươi; Ta sẽ không bỏ rơi hay để mặc ngươi đâu… Đừng khiếp vía, đừng nhát gan, vì Thiên Chúa của ngươi ở với ngươi bất cứ ngươi đi đâu” (Yos 1.5-6,9; x. thêm 3.7; 6.27).

Một ví dụ nữa: Dân Israen bị giặc cướp đàn áp quá cơ cực, kêu cứu với Thiên Chúa, Người đã nghe lời, và sai Thần sứ đến với ông Ghêđêôn và nói: “Đức Chúa ở với ông, hỡi chiến sĩ anh dũng!”… “… Vì Ta ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Mađian như thể chỉ có một người” (Tl 6.12,16).

            Ngày truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria, Thiên sứ cũng chào Người : "Vui lên ! Hỡi Đấng đầy ơn phúc !” và thêm câu ấy : Chúa ở cùng Người" (Lc 1.28), để đảm bảo là trong sứ mạng làm Mẹ Ngôi Hai xuống thế làm người, và cộng tác trong công việc cứu độ, Thiên Chúa sẽ ở bên Người để bảo vệ, giúp đỡ và ban sức mạnh.

            Nghĩa 2) : chúng ta đang gặp ở đây, nói về việc Thiên Chúa đến ở lại, lưu lại lâu dài, và sống cùng loài người chúng ta.

[14]  Giống như Ngọn Lửa với Ánh Sáng và Sức Nóng, cả ba chỉ là một, không thể tách rời nhau.

[15]    Tất cả đoạn sau đây phỏng theo quyển Đọc Tin Mừng theo Yoan, Tập V, từ trang 448tt.

[16]    Bản văn gốc Hy Lạp : “monên par’autô poiesomêtha”, bản La Tinh dịch đúng từng chữ : “mansionem apud eum faciemus”; và cha Thuấn dịch rất sát (bản gốc Hy Lạp) : “Chúng Ta sẽ đặt chỗ ở nơi mình nó”, cho nên chúng ta theo bản dịch Việt ngữ của cha Thuấn. Muốn gò sát hơn nữa có thể dịch “sẽ đến làm nhà ở nơi mình nó”, ý muốn nói một sự định cư lâu dài… Dịch là “sẽ ở lại với người ấy” tuy cũng đúng song non nghĩa, vì ở lại có thể chỉ vài ngày rồi lại đi” (Trích : Đọc Tin Mừng theo Yoan, Tập V, trang 448).

[17]    Tít đề một bản nhạc của ca-nhạc sĩ Nhật Trường Trần thiện Thanh.

[18]   Trong Thông điệp về Chúa Thánh Thần : “Chúa và Nguồn sinh khí”, số 10-12

[19]   Như xưa nơi dân It-raen, Đức Chúa đã đến ngự trong Đền Thờ nguy nga vĩ đại họ xây lên dâng kính Người (xem lại tr.342tt). 

[20]   Trên đây chỉ trích dẫn một đoạn ngắn, xin mời đọc tất cả hai chương 21 và 22 của sách Khải huyền để thấy mô tả - bằng những hình ảnh biểu tượng - tất cả vẻ huy hoàng phong phú của cõi Thiên Đàng của chúng ta.

[21]   “Vì các lý do mục vụ, Nghi lễ của Giáo Hội La Tinh qui định cách Rước Lễ với hình bánh mà thôi (tức rước Mình Thánh) là hình thức thông dụng nhất… Rước Lễ với hai hình (tức rước cả Mình và Máu Thánh) là hình thức đầy đủ hơn” (Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 1390). Khi dâng Thánh Lễ với một nhóm thân cận ít người tham dự, có thể cho Rước Lễ với hai hình đầy đủ. Khi người tham dự khá đông, có nơi vị linh mục chủ tế cầm Mình Thánh chấm vào chén Máu Thánh rồi cho người Rước lễ chịu. Còn tại những nhà thờ lớn hay trong những kỳ hành hương, đông đảo tín hữu tham dự Thánh lễ, thì vì những lý do mục vụ nêu trên (bất tiện, phức tạp…), tín hữu chỉ Rước lễ với hình bánh mà thôi. Dầu vậy, theo Giáo lý của Hội Thánh dạy thì “trong hình bánh cũng như trong hình rượu, Đức Kitô hiện diện trọn vẹn” ; “và Rước lễ dưới hình bánh mà thôi vẫn đem lại trọn vẹn hiệu quả ân sủng của Bí tích Thánh Thể.” (Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 1377; 1390)

back to top
Filters