MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ *** BÀI III: THẦN LƯƠNG KỲ DIỆU *** PHẦN II: BÀI 72-87 *** Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR
07 Tháng Sáu 2021
MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ
BÀI III: THẦN LƯƠNG KỲ DIỆU
PHẦN II: BÀI 72-87
@@@@@_BÀI 72_@@@@@
- Thắc mắc : Làm sao Chúa hiện diện được trong tấm bánh nhỏ ?
Chúa cao cả, vĩ đại như thế làm sao có thể hiện diện ở trong một miếng bánh nhỏ, trong một ly rượu bé được ?
Xin trả lời : Sở dĩ chúng ta khó hiểu là tại vì trí khôn ta có hạn, và ta nghĩ Thiên Chúa cũng phần nào giống loài người chúng ta, tài lực bị hạn chế, bất lực, bất khả thi. Không! Không thể suy bụng ta ra bụng người như thế ! Thiên Chúa vô cùng khác biệt với chúng ta: Người là Đấng thượng trí khôn ngoan vô biên, như có lời Thánh Kinh :
"Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy." (Is 56.9);
đồng thời cũng là Đấng Toàn Năng, quyền phép vô hạn, như lời Thánh kinh dạy :
“Đối với Thiên Chúa, không có việc gì là không thể làm được.” (Lc 1.37 ; St 18.14).
Bằng một Lời Người đã tạo dựng nên cả vũ trụ, trời đất, muôn vật, muôn loài... Ngay cả khi Người đã xuống thế làm người trần, sách Tin Mừng cũng thuật lại nhiều lần Người đã thi thố những phép lạ đầy quyền năng : khi hóa nước thành mấy trăm lít rượu hảo hạng ở tiệc cưới thành Cana đang lúng túng vì nửa chừng hết rượu (Ga 2.1-11) ; khi Người hoá vài cái bánh ra nhiều nuôi 5000 người ăn (Ga 6.1-15) ; ngay cả bão tố, Người quát bảo một tiếng là phải vâng phục mà yên lặng như tờ (Mc 4.35-41) ; còn ma quỉ, thì Người ra lệnh một cái là lập tức chúng phải xuất ra khỏi những người chúng ám, và cả đến kẻ chết như ông Ladarô đã chôn bốn ngày bắt đầu tan rữa, Người cũng làm cho sống lại được !
Vậy thì phép lạ Chúa hiện diện trong tấm bánh cũng chẳng có gì khó đối với quyền năng vô biên của Người !
- Nhưng Chúa hiện diện trong tấm bánh như thế nào, có phải Chúa “ẩn thân” trong Hình Bánh như vẫn thường nghe ?
Thưa : “Ẩn thân” là cách nói bình dân cho dễ hiểu, song thực chất là không đúng. Không phải Chúa thu nhỏ mình lại để ẩn náu trong chiếc bánh. Theo đúng thần học thì phải nói: Trong Thánh Lễ, khi linh mục tuân theo lệnh truyền của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc ly : "Hãy làm điều này mà nhớ đến Thầy", mà đọc lời Truyền phép trên bánh : “Này là Mình Thầy”, và trên chén rượu : “Này là Máu Thầy” thì xảy ra một phép lạ : bánh và rượu mất đi bản thể (substantia) của chúng mà biến thành Thịt Máu Chúa Giêsu. Nói khác đi : Bánh ấy bây giờ là Mình Chúa, chứ không phải Chúa ẩn mình dưới bánh ấy ; và rượu cũng vậy, bây giờ là Máu Chúa. Bánh và rượu kia đã mất đi bản thể của chúng, chỉ còn giữ lại cái "hình" dáng, vẻ (species) bên ngoài và mùi vị là bánh, là rượu mà thôi, thần học gọi đó là tùy thể (accidents).
Thuật ngữ thần học chuyên môn gọi phép lạ đó là "sự biến thể" (transsubstantiatio). (Sách Giáo Lý HT Công giáo, số 1375-76). Mời đọc lại Bài huấn giáo cho tân tòng thành Giêrusalem ở trên kia, tr.357t, đã diễn tả rất chính xác.
Hơn hết, hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói lúc lập Phép Thánh Thể, Chúa cầm lấy bánh và chén rượu mà nói : “Anh em hãy nhận lấy mà ăn, mà uống : (Cái) này là Mình Thầy…, (chén) này là Máu Thầy” (Mc 14.22-24), tức là cái Chúa đang cầm đó là Mình Chúa, là Máu Chúa. Chúa không nói : “Cái này là Bánh / là Rượu trong đó Thầy ẩn mình.”
Những lời cắt nghĩa về “sự biến thể” trên đây, giúp trí khôn ta thấy có lý, dẫu vậy vẫn không thay thế đức tin, vì thực chất nó vẫn là một mầu nhiệm. Trước phép lạ Thánh Thể, ta vẫn phải giục lòng tin, như đã nói trên (tr.356tt).
SUY NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN
Thương xót cho loài người u mê, lầm lạc, sa đọa… Đấng Cứu Thế phải chịu biết bao đau đớn mới chuộc được những tội tình của thế gian ; và để nuôi sống nhân loại bằng Sự sống Thiên Chúa, Người đã hiến tế đời mình, tinh luyện thành lương thực thần thiêng, ẩn thân dưới hình Tấm Bánh đơn sơ, Chén Rượu khiêm nhường, nhưng không phải là tấm bánh, chén rượu bình thường, mà là tấm bánh, chén rượu được kết tinh từ những chặng đường Thương Khó, thấm đượm tất cả những giọt Máu cho đến giọt cuối cùng trong cuộc Tử Nạn, nhờ đó thấm nhuần tất cả bằng sự viên mãn của Thần tính, của Thần khí, của Thánh Thiện trong cuộc Phục sinh thần thánh.
Nhưng thảm thay ! ngày nay loài người vẫn còn đang trút tội lỗi họ trên đầu người Tử Tội năm xưa trần trụi, rét mướt trên thập giá.
Vẫn có người giả điếc làm ngơ, thờ ơ và dửng dưng như khách qua đường bàng quan, cứ đi đi mãi không hề dừng lại chân đồi Gôngôtha mà ăn năn, hối cải ? Họ có biết đâu Con Người Giêsu vẫn còn như cô đơn, giữa dòng người đông đảo nhưng nhởn nhơ lạnh lùng… Họ không hề biết đến Con Người siêu phàm ấy đã trở nên người trần gian chia sẻ kiếp hèn mọn, tội lỗi và còn tự nguyện trở nên Bánh thiêng nuôi sống hồn xác họ, và cứ còn ở lại mãi mãi giữa dòng đời nhân thế cho đến ngày tận cùng.
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, vì yêu con nên Người rời bỏ Cung Điện thiên quốc để ngự xuống ẩn thân dưới hình chiếc bánh thô sơ, ngự âm thầm trong Nhà Tạm nghèo nàn ; vì yêu con mà Người chịu nghiền nát để nên Bánh nuôi con sống mãi với Người, vì yêu con nên không nỡ rời bỏ kẻ tội lỗi trong tuyệt vọng nhưng ban Lòng Xót Thương. Lạy Chúa, xin thương xót con đang trên mê lộ lỗi lầm, lạc đường sai lối. Xin đưa con về với ánh sáng của Bình Minh vĩnh hằng. Amen.
***
- b) Đừng đòi hỏi phải thấy mới tin.
Trước phép lạ Thánh Thể vô tiền khoáng hậu ấy, hiện nay vẫn diễn ra hằng ngày trong Thánh Lễ trên các bàn thờ, như một phép lạ trường kỳ, vẫn có nhiều người tín hữu hoài nghi chưa tin cho hẳn, vẫn muốn được thấy bằng mắt sờ bằng tay, giống như Tông đồ Tôma xưa : phải xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa mới tin.
Để củng cố niềm tin cho những ai còn yếu tin và nghi ngờ như thế, trong lịch sử Giáo Hội, có vài lần Chúa làm phép lạ cho Bánh Rượu sau Truyền phép hiển thị ra thành Thịt và Máu thật của Chúa. Mời xem lại phép lạ Thánh Thể ở thế kỷ VIII. Ngày nay cũng có mấy phép lạ… song phép lạ xảy ra năm 2000 khá độc đáo, đã thuật ở trên kia tr.295tt.
Nhưng còn bình thường, thì Thánh Phaolô dạy rằng hiện nay : "Chúng ta đang bước đi trong niềm tin, chứ không phải trong sự được thấy" (2 Cr 5.7), bởi vậy, chúng ta phải chấp nhận sống trong đức tin dù mắt không thấy, và vui vẻ hưởng cái phúc mà Chúa Giêsu hứa : “Phúc cho những người không thấy mà tin !” (Ga 20.29). Cái phúc mà chính Thánh Phêrô, Tông đồ Cả của Chúa cũng phải ca ngợi : “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ linh hồn anh em.” (1 Pr 1.8-9)
Khi đã hiểu được cái phúc không thấy mà tin ấy, ta còn được Thánh Phaolô nói cho ta thêm an lòng khi bảo rằng : việc thấy hay biết Đức Giêsu theo cách thông thường nhân loại là chuyện chẳng cần thiết: “Từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo cách loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo cách loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa.” (2 Cr 5.16). “Biết Đức Kitô theo cách loài người” nghĩa là sống đồng thời và tai nghe, mắt thấy Người tận mắt, quả là một cái phúc mà nhiều người mong ước mà không được, như Đức Giêsu nói với các môn đệ : “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.” (Mt 13.16-17). Thế mà thánh Phaolô lại bảo : “thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa.” Tại sao vậy ? Hãy nghe Thánh nhân trả lời :“Ta đừng dán mắt vào những điều trông thấy được, nhưng là vào những điều mắt không trông thấy, vì hữu hình là phù vân, vô hình mới trường cửu.” (2 Cr 4.18)
Không phải thánh Phaolô chê cái phúc được thấy Đức Giêsu và sống gần Người hồi Người ở tại thế, nhưng cái phúc ấy bấp bênh, vì quả thật có biết bao người đồng thời với Người, đã nghe Người giảng, đã thấy các phép lạ Người làm mà có tin Người đâu, chưa kể có kẻ còn chống đối và giết Người nữa. Thánh Phaolô bảo ta vượt lên trên cái phúc ấy vì nó tạm thời, để hướng ta tin vào những chân lý hay mầu nhiệm vô hình, cái đó mới trường cửu, cái đó mới là phúc vững bền.
Vậy, áp dụng vào phép Thánh Thể ở đây : Cho dù giác quan ta không thấy được Chúa, chúng ta cứ tin chắc một niềm : Vì thương nhân loại, Chúa đã dùng sự khôn ngoan thượng trí vô song và quyền năng vô hạn của Người, mà tạo tác ra được một phương thế thần diệu là Bí Tích Thánh Thể, để có thể đến hiện diện với ta, và nuôi sống tâm hồn ta.
Qua bao nhiêu thế kỷ, muôn ngàn ức triệu tín hữu lành thánh đã đem hết lòng kính tin đêm ngày túc trực, cúc cung tận tụy, hết sức hết lòng tôn thờ, yêu mến, cảm tạ Thánh Thể Chúa ! Nhờ đó, họ đã nhận được vô vàn ơn phúc…
Chúng ta cũng vậy, hãy theo gương những tín hữu lành thánh ấy mà sống, không cần phải thấy.
*
@@@@@_BÀI 73_@@@@@
- c) Cảm nhận hạnh phúc được Chúa ở trong ta, ta ở trong Chúa.
Khi rước Mình Máu Thánh Chúa vào lòng, thì việc ở trong nhau là chuyện đương nhiên :
Thánh Hilariô giảng về điều ấy như sau : "Chúng ta hãy nghe Đức Kitô tuyên bố : "Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em." (Ga 14.19-20).
Và Thánh nhân giải nghĩa Lời Chúa đó như thế này :
- "Ngày đó anh em sẽ biết rằng" : Ngày đó là nói về thời gian sau khi Đức Giêsu đã tế hiến mình trên thập giá và được phục sinh, lên ngự bên hữu Thiên Chúa, khai mở thời cánh-chung là thời ta đang sống.
Anh em sẽ biết điều gì ?
- Biết : "Thầy ở trong Cha Thầy" : Do bản tính là Thiên Chúa, nhất là sau phục sinh, Đức Kitô ở trong Chúa Cha, là một với Chúa Cha : “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10.31);
- Và : "Anh em ở trong Thầy" : Nhờ lãnh nhận Mình Máu Người, vốn là bản tính nhân loại Người đã nhận lấy từ loài người chúng ta, chúng ta ở trong Đức Kitô một cách đặc biệt và cụ thể.
- "Và Thầy ở trong anh em" : Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm có máu có thịt, mang tên Giêsu, nên khi chúng ta lãnh nhận Thịt Máu Người, thực sự chúng ta lãnh nhận Ngôi Lời Nhập thể vào ở trong mình ta.
"Chính Đức Giêsu đã quả quyết về sự ở trong nhau cụ thể ấy: "Ai ăn thịt Tôi và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở trong người ấy" (Ga 6.56). Quả thế, chỉ người nào rước lấy Thịt Máu Chúa mới có nơi mình trọn vẹn Đức Giêsu-Kitô gồm cả thần tính và nhân tính, còn nếu không rước Thịt Máu Thánh Người thì không được như vậy.
"Khi chúng ta ở trong Đức Giêsu-Kitô thì Người vẫn ở trong Chúa Cha, và khi Người ở trong Chúa Cha thì Người cũng ở trong chúng ta nữa… Như thế, Thiên Chúa với chúng ta tất cả là một,
“Chúa Cha ở trong Đức Kitô,
và Đức Kitô ở trong chúng ta…,
chúng ta ở trong Người,
và cùng với Người chính chúng ta đây cũng ở trong Thiên Chúa…."
(Phỏng theo Bài Kinh Sách, Mùa p.s. Tuần IV, thứ 4).
Bài giảng này của Thánh Giáo Phụ quả thật tuyệt vời. Song nếu đọc sơ qua thôi, ta không thấy được sự kết hiệp nên một với Chúa nói trên lại thắm thiết, mặn nồng và keo sơn đến chừng nào ! Đến mức như tình nghĩa phu thê !
Phải dừng lại nhờ Thánh Kinh mà suy gẫm mới thấy :
Trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa đã mặc khải điều ấy khi Người xưng mình là “Phu Quân” yêu dân Israen như "Hiền Thê". Bởi vậy, khi thấy dân Israen thờ ngẫu tượng tà thần, Người đau lòng và than rằng họ đã "ngoại tình", và nếu sau khi đã được các ngôn sứ Người sai đến cảnh tỉnh họ, dạy bảo phải từ bỏ “các tình nhân” (các ngẫu tượng tà thần), mà họ không nghe, Người sẽ nổi “cơn ghen” và tàn sát họ cách khủng khiếp.
Mời đọc vài đoạn Cựu Ước ngăm đe về những trừng phạt khủng khiếp mà Thiên Chúa sẽ giáng xuống… Và quả thật lịch sử dân Israen ghi nhận là đã xảy đến cho họ :
“Hãy đưa mẹ các ngươi ra toà,
đưa nó ra toà đi !
Vì nó không phải là vợ của Ta,
và Ta không phải là chồng của nó.
Những vật đĩ thoã trên mặt nó,
và những dấu ngoại tình trên ngực,
nó đều phải vứt bỏ.
Nếu không, Ta sẽ lột trần nó ra,
và để nó như ngày mới lọt lòng mẹ.
Ta sẽ biến nó thành sa mạc hoang vu,
cho nó trở nên đất khô khan cằn cỗi,
và làm cho nó chết khát.
Con cái nó, Ta sẽ không thương,
vì chúng là những đứa con sinh ra do đĩ điếm.
Mẹ chúng quả thật đã làm điếm,
kẻ mang thai chúng đã thất tiết rồi,
[….] Giờ đây, trước mặt các tình nhân của nó,
Ta sẽ phơi bày ra cái đáng hổ thẹn của nó,
và không ai giựt được nó khỏi tay Ta.
Ta sẽ chấm dứt mọi thú vui,
mọi ngày sóc, ngày hưu, ngày lễ,
và mọi cuộc hội hè của nó.
Ta sẽ phá tan vườn nho, nương vả,
…..Ta sẽ biến chúng thành bụi rậm,
mặc cho dã thú gặm tan hoang.”
(Hs 2.4-15)
Sách Đệ Nhị Luật đã cảnh báo :
“Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân (ngoại) chung quanh anh em, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương ; hãy coi chừng kẻo ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em, không còn cho sống trên mặt đất.” (Đnl 6.14-15)
[…]“Nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, thì hôm nay tôi (Môsê) báo cho anh em biết : chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, […] Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em : tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa.” (Đnl 30.17-19). (Nên đọc thêm mấy chương đầu sách Giêrêmia).
Trái lại, khi dân ăn năn sám hối, quay trở về với Chúa là Phu Quân của họ, thì Người giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày, đem họ về lại quê hương, lúc ấy Người sung sướng thốt lên những lời ân ái thiết tha:
“Đừng sợ chi : ngươi sẽ không phải xấu hổ,
chớ e thẹn : ngươi sẽ không phải nhục nhằn.
Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân
và không còn nhớ bao nhục nhằn thời goá bụa (lúc Chúa bỏ họ).
Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt
chính là Đấng đã tác thành ngươi,
tôn danh Người là ĐỨC CHÚA các đạo binh ;
Đấng chuộc ngươi về (từ cảnh nô lệ), chính là Đức Thánh của Ít-ra-en,
tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất.
Phải, (từ nơi lưu đày), ĐỨC CHÚA đã gọi ngươi về
như người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn.
“Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho đành ?”,
Thiên Chúa ngươi phán như vậy.
Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi,
nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp.
Lúc lửa giận bừng bừng,
Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi,
nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót, ĐỨC CHÚA, Đấng cứu chuộc ngươi, phán như vậy.” (Is 54.4-8)
“Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay ĐỨC CHÚA,
sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.
Chẳng ai còn réo tên ngươi : “Đồ bị ruồng bỏ !”
Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “Phận bạc duyên đơn.”
Nhưng ngươi được gọi : “Ái khanh lòng Ta hỡi !”
Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng.”
Vì ngươi sẽ được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái,
và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi.
Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ,
Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về.
Như cô dâu là niềm vui cho chú rể,
ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.”
(Is 62.3-5)
Yêu thương Hiền thê da diết và ghen tuông đến cuồng nộ như thế, vậy mà vẫn có một điều Thiên Chúa thời Cựu Ước chưa làm được, đó là việc kết hiệp “nên một xương một thịt”, vì lúc đó Thiên Chúa còn thiêng liêng chưa mặc xác làm người để có xương có thịt mà kết hiệp nên một với ta !
@@@@@_BÀI 74_@@@@@
Đức Giêsu đã đến, đã làm người có xương có thịt nên đã làm được, nhờ Bí tích Thánh Thể : chẳng phải lúc chúng ta lên rước Mình Máu thánh Người, Người ngự vào trong ta, ở trong ta, ta ở trong Người, Chúa với ta cả hai bây giờ kết hiệp gắn bó với nhau đến nỗi chỉ còn là “một xương một thịt” đó sao ? Thánh Phaolô đã viết về điều đó như sau :
“Sách Thánh có lời chép rằng : Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về (sự kết hiệp của) Đức Ki-tô và Hội Thánh” (là chúng ta) (Ep 5.31-32)
Khi vợ chồng yêu nhau thắm thiết, da diết, họ cứ muốn hòa tan vào nhau để họ không còn là hai nữa mà là một. Chúa Giêsu đã thực hiện được : Người đã làm cho mình trở thành Bánh, thành Rượu cho ta “nuốt” Người vào trong ta và ta ở trong Người (Ga 6.56), để từ đó Người với ta không còn là hai mà là một.
Để cho thấy rõ hơn, Thánh Phaolô lấy lại những lời Cựu Ước nói về tình yêu vợ chồng giữa Thiên Chúa và dân Người để nay gán cho Chúa Giêsu và Hội Thánh :
“… Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết.” (2 Cr 11:2)
Đây không phải là chuyện mơ mộng hão huyền hay tình cảm lãng mạn, lấy chuyện vợ chồng trần tục mà gán cho các Đấng thiêng liêng siêu phàm đâu !
Ngược lại mới đúng :
Vì từ thuở đời đời, Thiên Chúa Cha đã tiền định cho Chúa Giêsu làm “Phu quân” của “Hiền thê” là Hội Thánh (= chúng ta) và hết dạ yêu thương Hội Thánh. Và chiếu theo mẫu gương thiên thai tiền định ấy, mà Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ làm vợ chồng kết hợp với nhau thành “một xương một thịt”, để cho loài người qua kinh nghiệm mình, có thể thấy và cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa đối với Hội Thánh, và của Hội Thánh đối với Chúa. Như vậy, tình yêu vợ chồng là bản sao của Tình Yêu thần thánh thiên thai ấy! Bởi vậy mới có lời dạy rằng :*
"Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh !” (làm gương trước cho họ noi theo)
Đức Kitô yêu thương Hội Thánh như thế nào ?
-“Người hiến mình (hy sinh chết) vì Hội Thánh ;
-“Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền.
-“Người nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận, (là chi thể, là xương là thịt) trong thân thể của Người.
“Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình…, (vì vậy)
“Sách Thánh có lời chép rằng : Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về (sự kết hiệp của) Đức Ki-tô và Hội Thánh." (Ep 5.25-32). [1]
Trong hôn nhân trần thế, người nam sẽ lìa cha mẹ để gắn bó nên một xương một thịt với người nữ vợ mình. Thực hiện được như thế là họ đã đạt tới chóp đỉnh của hôn nhân theo ý Thiên Chúa. Bởi vì trong ý của Thiên Chúa, tình yêu phải làm cho đôi vợ chồng hòa tan nên một với nhau thành một xương một thịt. Nếu vợ chồng Công giáo không cảm nhận và thực hiện được điều đó, là họ chưa yêu nhau đầy đủ thật sự, và cũng không có cái nhìn của Thiên Chúa.
Đem áp dụng vào việc Rước Lễ – vốn là “lễ cưới mầu nhiệm” của Chúa với chúng ta, chẳng thế mà trước khi cho Rước Lễ, linh mục giơ cao Mình Thánh Chúa lên trước mặt giáo dân và tuyên bố : “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc cưới của Chiên Thiên Chúa !” (Kh 19.9) – thì sẽ thấy rằng : nếu chúng ta, lúc Rước Lễ, mà cảm nghiệm được : ăn thịt và uống máu Chúa thì ở lại trong Chúa và Chúa ở lại trong ta (Ga 6.56), tức là ta được kết hiệp nên một với Chúa đến mức “trở thành một xương một thịt” (vì chẳng phải ta là xương là thịt (là chi thể) của Người sao, Ep 5.30), và cảm nghiệm được tình yêu nồng cháy của Chúa, là Đấng Phu Quân thần linh, như của người chồng đối với vợ yêu dấu, khi ấy chúng ta mới đạt đến tuyệt đỉnh của Phép Thánh Thể.
Mà khi đã cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương ta đến mức ấy, thì bí quyết hạnh phúc là “ta hãy để cho Chúa yêu thương ta cho thỏa lòng Chúa!” Và lúc ấy ta hãy hát lên :
“Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa.
Chúa thương chúng ta vì thế Chúa sinh ra.
Chúa thương chúng ta vì Chúa muốn thương ta,
vì Thánh Ý của Ngài là luôn luôn thương ta.
- Ðâu phải ta ngoan mà Thiên Chúa mến thương ta,
Đâu phải ta hay mà Ngài thương ta,
nhưng do nơi lòng hay thương xót của Ngài,
ngàn đời thời gian không xóa.”
Lm. Thành Tâm
Ngợi khen Chúa ! Ngợi khen Thượng Trí khôn ngoan siêu việt đã khiến Chúa lập nên Bí Tích Thánh Thể để thể hiện tình yêu thương và sự hiệp nhất nên một giữa Người và chúng ta nồng nàn tha thiết keo sơn như vậy !
THỰC HÀNH
Nếu Rước Lễ là tuyệt vời như vậy, thì quả thật đó là một đại ơn vô cùng quí báu, miệng lưỡi ta không biết phải nói bao nhiêu lời tạ ơn Chúa cho đủ ! Thế mà buồn thay, khi thấy một số người lên Rước Lễ, lãnh nhận Mình Máu Chúa mà không hề nghĩ ngợi gì, chẳng chuẩn bị gì cả, cũng chẳng tha thiết tận tình, nhưng chỉ làm như một thói quen !
+ Cần chuẩn bị : Chúng ta phải được chuẩn bị càng nhiều càng tốt khi đến với Chúa Giêsu :
Chắc chắn nếu chúng ta càng chuẩn bị nhiều hơn chừng nào, chúng ta càng thấu hiểu được quyền năng lớn lao của Thánh Thể trong đời sống mình hơn chừng nấy. Để giúp sự chuẩn bị thì trước khi rước Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta hãy đọc Lời Chúa Giêsu, đọc về cuộc đời Người trong sách Tin Mừng. Nhờ đó sẽ đạt được sự hiểu biết Người và có thể xứng đáng hơn để gặp gỡ Người trong Bí tích Thánh Thể. Và chuẩn bị tốt hơn nữa là nên đi xưng tội.
Ngoài sự chuẩn bị thiêng liêng cũng nên chuẩn bị cả mặt thể xác nữa.
Cứ thử nghĩ xem khi đi gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta có coi đó là một cuộc gặp gỡ quan trọng không ? Nhớ lại khi đi dự tiệc cưới, chúng ta tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo đẹp và trang điểm cho mình xinh đẹp thế nào. Hoặc đặc biệt hơn nữa, khi chúng ta được mời đi dự một buổi gặp gỡ hay dự buổi yến tiệc trong hoàng cung của một Hoàng đế hay tại đại sảnh của một Tổng thống, chúng ta sẽ còn sửa soạn kỹ càng và cẩn thận hơn biết bao. Thì khi chúng ta đi gặp gỡ Thiên Chúa, là một cuộc gặp gỡ còn cao trọng vô cùng hơn các cuộc gặp gỡ giả tưởng nêu trên, chúng ta càng nên chuẩn bị cẩn thận hơn nữa.
Nếu có thể được, hãy nghĩ về Chúa Giêsu trước khi chúng ta đi gặp gỡ Người. Và khi đi, hãy chuẩn bị để gặp gỡ Người như chúng ta làm khi đi dự một bữa tiệc đặc biệt. Hãy trút bỏ bộ quần áo mình đã mặc suốt cả ngày khi làm việc, mặc một bộ quần áo sạch sẽ tươm tất nhất. Vì đây là cuộc gặp gỡ đặc biệt, thì cũng phải chuẩn bị cách đặc biệt cho cuộc gặp gỡ đó.
@@@@@_BÀI 75_@@@@@
+ Tránh thái độ lơ là : Có một số tín hữu, sau khi Rước Lễ, thay vì ở với Chúa, thờ lạy, tạ ơn Chúa, yêu mến Chúa, cầu nguyện, thưa chuyện, tâm sự vui buồn với Chúa…, lại đi đọc kinh này kinh khác, hoặc đến trước ảnh tượng Đức Mẹ, hay thánh nọ thánh kia mà cầu xin… Chẳng ai khờ dại đến nỗi có vua ngự đến, lại bỏ vua mà chạy đến cùng đầy tớ vua !
Hỏi họ tại sao làm thế ? Họ đáp : Cầu xin Đức Mẹ và các thánh thì thấy gần gũi, cụ thể hơn, còn Chúa thì thiêng liêng và cao xa quá !
Tình cảm đã làm ta lầm to ! Đức Mẹ và các thánh mới thiêng liêng và ở xa ta, bởi vì Đức Mẹ và các thánh đã qua đời, hiện nay đang ở trên trời, và nghe ta cầu xin, cầu bầu cho ta, nhưng không ngự vào lòng ta. Còn Chúa Giêsu Thánh Thể thì khác, khi ta rước Mình Máu Người là đón tiếp chính mình Người với cả thần tính và nhân tính, đã rời bỏ cõi trời xuống ngự trong hình bánh, để ngự vào trong ta. Cụ thể và gần gũi đến thế là cùng !
- Đáng buồn là có rất nhiều người sau khi Rước Chúa, ra về liền, không ở lại tạ ơn Chúa hay ít ra ở lại bầu bạn với Chúa, như Chúa đã khứng ở lại trong ta và bầu bạn với ta : “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6.56).
Thái độ ấy chẳng lịch sự chút nào ! Cứ thử nghĩ mà xem : trong giao tiếp xã hội, nếu có một người bạn đến thăm, ta có bỏ mặc người bạn ngồi chơ vơ một mình, còn ta đi làm việc khác, như đi xem Truyền hình, viết sách, hay đi chơi không ? Trước cách cư xử bất nhã đó, thử hỏi có ai còn thèm đến thăm ta nữa !
Chuyện chúng ta không dám làm với người đời, thế mà ta vẫn làm cho Chúa chúng ta đấy thôi, mà không thấy ân hận gì cả, và còn lấy làm thường chẳng để tâm ! Vô tâm, vô cảm đến chừng ấy, không còn biết lấy lời nào mà tả nổi nữa !
Cho nên nhiều lần, Chúa than thở với những tâm hồn bạn hữu tri kỷ của Chúa rằng : trong Phép Thánh Thể, là Bí tích tình yêu, Chúa đau đớn vì bị người ta – nhất là chính con cái Chúa – khinh mạn dể duôi !
Ngày xưa khi các nước bên Âu châu còn toàn tòng đạo, nghĩa là mọi người trong nước đều có đạo Công giáo, người ta rất mực tôn kính Phép Mình Thánh, chẳng hạn như khi linh mục đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt, là có thể đi công khai ngoài đường – (ngày nay, thời tục hóa, không còn làm như thế được nữa) – và lúc ngài mang Mình Thánh Chúa đi ngoài đường như thế, luôn có hai chú giúp lễ cầm nến đi hầu hai bên, để tỏ lòng tôn kính Mình thánh Chúa mà linh mục đang mang ; chưa kể có nơi còn cho bốn người cầm lọng che trên đầu, và đi trước còn có một người cầm thánh giá cao, chẳng khác gì một cuộc rước Mình Thánh Chúa nho nhỏ vậy!
Vì thế, một lần kia, khi Thánh Philiphê đơ Nêri thấy một bà Rước Lễ rồi mà không ở lại thờ lạy, tạ ơn Chúa, bỏ nhà thờ ra về cách vô tâm như vậy, thánh nhân liền sai hai chú giúp lễ cầm nến đi bên cạnh bà đó, để tôn kính Mình Thánh Chúa đang ngự trong tâm hồn bà, và gián tiếp nhắc nhở cho bà ấy sự vô phép của bà.
Sau Rước Lễ, ở lại và cầu nguyện với Chúa là để làm gì ? Thưa : Để Người chữa lành chúng ta về nhiều mặt. [2]
Chẳng phải chính chúng ta vẫn cầu xin trước lúc Rước Lễ: "Lạy Chúa, con chẳng đáng rước Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”? Thế mà vừa cầu xin như thế xong, Chúa nghe lời ta và chuẩn bị chữa lành, thì ta đã vội vã bỏ ra về mất tiêu, Chúa Giêsu làm sao kịp chữa lành bệnh tật của linh hồn ta? Đành rằng Mình Máu Thánh Chúa có tác dụng chữa lành và biến đổi chúng ta nên tốt lành, nhưng không phải một cách tự động, cứ lên Rước Lễ là ta được biến đổi. Chẳng lạ gì có biết bao giáo hữu Rước Lễ dài dài mà đời sống và tính nết chẳng thay đổi chút nào. Bởi vậy phải ở lại và cầu nguyện với Chúa, dành cho Chúa thời gian để Người chữa lành những tính mê nết xấu của ta….
Cũng như bệnh nhân cần phải ở lại Viện điều dưỡng để được bác sĩ điều trị, chúng ta cũng cần dành thời gian để Chúa – vị Bác Sĩ siêu phàm đại tài – đang ở trong ta với tràn đầy Thần Khí, thánh thiện, sung mãn thần tính của Thiên Chúa, sẽ chữa lành – cách chắc chắn không sai sót – những bệnh hoạn tật nguyền hồn xác chúng ta.
Nhớ lại lời Thánh Aogutinô Tiến sĩ nói: “Thiên Chúa tạo dựng nên ta không cần có ta (cộng tác), nhưng Thiên Chúa không thể cứu ta nếu không có sự hợp tác của ta.” Cũng thế, Thiên Chúa sẽ không chữa lành cho ta được nếu ta không cộng tác với Người, bằng cách dành thời gian thinh lặng và cầu nguyện, cách riêng sau khi Rước Lễ.
Trong mươi lăm phút thinh lặng ở lại với Chúa, Người
sẽ nhắc nhớ Lời Chúa mà ta đã nghe đọc lúc nãy qua bài Thánh thư, bài Tin Mừng và lời giảng của linh mục, để ta xét mình, để soi sáng cho ta thấy đời sống ta có điều gì còn sai trái, dạy bảo mọi điều ta lơ là, quên bỏ, thiếu sót…, hay chưa đi đúng với ý Chúa. Rồi Chúa sẽ giúp ta ơn sức mạnh : để cải thiện nếp sống nhiều cái xấu xa của ta, bởi vì cuộc đời với bao nhiêu vất vả, lo toan, đau khổ… do bệnh tật, do những nghịch cảnh trái ý, mất lòng…đã tiêm nhiễm vào trong ta những tính mê tật xấu… khiến cho ta biết bao lần sa ngã phạm tội… Và sau nữa để động viên ta làm những điều tốt cho gia đình, cho tha nhân, cho xã hội…
Như vậy cứ từ từ, ngày qua ngày, nhờ rước Mình Máu Thánh Chúa, ta sẽ được Chúa “chữa lành” và “biến đổi” ta trở nên mỗi ngày một tốt lành, thánh thiện hơn, thần thiêng hơn, giống Chúa hơn, cho đến lúc xứng đáng vào Cõi Trời Thần Linh, là nơi tuyệt đối thánh thiện, nơi tràn ngập ánh sáng tinh tuyền. (Xem lại tr.300tt)
Đáng tiếc là vì không hiểu Vì Đức Giê-su nói với phụ nữ Samari : “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4.13-14)
Chúa nói : đến với Chúa thì không còn đói và không còn khát bao giờ nữa. Vì khi ta đến với Chúa, ăn lấy Bánh Sự Sống là chính Người và Lời Người ; uống dòng nước sự Sống là Thần Khí từ lòng Người chảy ra, các sự ấy trở thành mạch nước sự sống vọt lên thỏa mãn mọi khát vọng tìm kiếm sự thật của tâm trí ta, lấp đầy những khao khát yêu thương của trái tim ta, khiến ta không còn thèm khát những sự đời này, chúng chỉ giảm khát của ta chốc lát rồi khát lại….
việc biến đổi này cần thiết cho linh hồn mình, mà biết bao tín hữu cứ tà tà lên Rước Lễ theo thói quen, cách ơ thờ, trước Thánh Lễ chẳng dọn mình, sau Rước Lễ chẳng ở lại cầu nguyện ; chưa kể nhiều người đi Lễ thì đến trễ, và sau Lễ thì ra về vội vã… Thiết nghĩ nếu có thái độ đáng buồn như vậy thì thà đừng đi dự Lễ còn hơn đến vội vàng và ra về vội vàng. Luôn luôn ta nghe các đấng các bậc khuyến khích thúc giục siêng năng đi dự Thánh Lễ, thế mà nay lại nói : thà đừng đi còn hơn, thì đủ biết cách dự Lễ như thế là có hại hơn có lợi, nghĩa là nếu không tham dự một cách đúng đắn, thì không những chẳng nhận được ơn ích gì hết, vì không kết hiệp với Chúa trong tình mến yêu, tin cậy…, mà còn có nguy cơ xúc phạm đến Mình Máu Chúa, vì có lời Chúa phán rằng : “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa !” (1 Cr 11.27)
Hậu quả là sau bao năm dự Thánh Lễ và Rước Lễ, ta không được tẩy rửa, chữa lành, không được biến đổi nên tốt, trái lại vẫn trơ trơ nguyên si con người xác thịt với các đam mê dục vọng, tham lam, gian dối … Sau khi nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời, ta sẽ đi về đâu ? Có chắc sẽ về Cõi Thiên Đàng hạnh phúc không ? Hay ỉ lại vào lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa nhờ việc linh mục đến Xức dầu lần cuối?
CHỨNG TỪ : Cảm nghiệm sự chữa lành
của Thánh Thể.
Ngày thứ Năm (3-9-2009) tôi (Têrêsa K.L.) đến nhà thờ sớm hơn thường lệ để chầu Thánh Thể. Tôi thưa với Chúa : “Chúa ơi, cha giáo bảo tuần này sau Thánh Lễ, hãy ở lại để cầu nguyện, cảm tạ Chúa và để được Chúa chữa lành về mọi phương diện. Nhưng Chúa ơi, hôm nay trong lòng con bất an vì con cảm thấy khó thương người kia quá. Họ đã làm mất lòng con mà Chúa lại bảo phải yêu thương mọi người. Vậy con xin Chúa giúp con.”
Và trong Thánh Lễ tôi cũng vẫn thầm thì nhỏ to với Chúa. Hôm đó, dự Thánh Lễ và Rước Lễ xong ra về, thì trên quãng đường ngắn chưa kịp về đến nhà, tôi bỗng cảm thấy trong tâm hồn mình tràn ngập tình thương, dường như có ai rót vào lòng tôi cả một dòng sông tình yêu rất êm đềm. Cùng lúc ấy, tôi không cảm thấy ghét người ấy nữa mà chỉ có tình thương mến. Và Lời này bỗng tràn vào tâm trí tôi :
“Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng vì Thiên Chúa đã đổ Tình Yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5,5)
Lạy Chúa, con đã có lòng trông cậy và bất ngờ, dòng sông tình yêu của Chúa đã làm đầy trái tim khô cạn của con. Chúa phủ lên trái tim thương tích của con tình yêu của Chúa và tức khắc trái tim ấy được chữa lành và hát ca lời cảm tạ. Amen.
Một thời gian sau, tôi đọc được một câu trong Sứ Điệp của Mẹ với cùng một ý trên mà cảm thấy lòng mình bất chợt quá đỗi xúc động :
“Hỡi các con yêu dấu, chớ gì dòng sông tình yêu tuôn chảy trong tâm hồn các con.” (SĐ 14-8-2009 qua thị nhân Ivan)
@@@@@_BÀI 76_@@@@@
- Sau Rước Lễ, Chúa ở lại với chúng ta bao lâu ?
Chúa đã hứa : “Kẻ ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong kẻ ấy”(Ga 6.56), thì dù hình bánh hình rượu có tan biến đi trong lòng ta sau mươi phút Rước Lễ, nên Nhân tính của Người không còn ở trong ta, nhưng vì Chúa đã hứa : “Tôi ở lại trong kẻ ấy”, cho nên Người vẫn còn hiện diện trong ta một cách thiêng liêng, có thể nói là còn ở lại suốt cả ngày hôm đó. Đôi khi vì bổn phận hay bận việc, ta chỉ ở với Chúa, hầu chuyện và bầu bạn với Người sau Rước Lễ được ít phút rồi ra về, thì trong ngày khi rảnh rang đôi chút, ta nhớ lại là Chúa vẫn còn ở trong ta, ta có thể tiếp tục tạ ơn, yêu mến, và thưa chuyện với Người.
Nhớ đến kinh nghiệm của mình khi được Con Thiên Chúa đầu thai ngự trong dạ Mẹ 9 tháng 10 ngày, Mẹ liên lỉ nói chuyện với Con mình, nên như thể Đức Mẹ bảo ta : Chúa vẫn hiện diện trong tâm hồn và nói với các con nhiều lần suốt ngày, nhưng cuộc sống của các con quá vội vã và bận rộn, nên các con không thể nghe tiếng Người hay cảm nghiệm được sự hiện diện của Người. Đấy là lý do tại sao cần phải dành chút thời gian để ở với Người, ngõ hầu trong thinh lặng Người có thể nói với các con, và các con im lặng đủ để nghe những gì Người nói.
Đúng vậy, chúng ta không mấy khi giữ yên lặng đủ để nghe Chúa nói. Chúng ta mắc phải thói quen từ thời lâu lắm rồi, đó là khi vào nhà thờ, là bắt đầu làm dấu đọc kinh, đọc riết cho đủ các kinh, xong rồi làm dấu ra về. Như thế là ta nói suốt từ đầu đến cuối ! Chúa không nói với chúng ta được một lời nào! Cứ thử tưởng tượng một cuộc gặp gỡ giữa hai người, mà ta nói từ đầu chí cuối thì bất lịch sự biết là chừng nào. Huống chi người đối thoại với ta lại là chính Thiên Chúa Hằng sống.
Thấy vậy, như thể nghe có tiếng Đức Mẹ từ trời nhắc nhở : Trong thinh lặng trước Thánh Thể, đức tin của các con sẽ lớn lên và cuộc sống của các con trở nên sâu sắc hơn và mạnh mẽ hơn. Và trong những giờ khắc ấy Thiên Chúa tỏ mình ra cho các con.
Ngẫm nghĩ và suy niệm những lời Mẹ thầm nhủ trên đây vì thương và vì thiện ích của ta, mới thấy Đức Mẹ để tâm dạy bảo chúng ta cần dành thời giờ cho Chúa, và cần giữ yên lặng để nghe Chúa nói đến chừng nào. Chớ gì ta nói được với Chúa như tiên tri Samuel hồi niên thiếu:
"Lạy Chúa, xin Người phán dạy, vì tôi tớ Người đang nghe" (1 Sm 3.10)
Và từ đó, biết bao ơn ích sẽ đến cho tâm hồn chúng ta.
Có nhiều người muốn ở lại với Chúa, song họ thấy mình chẳng biết nói gì với Chúa, nên đã bỏ ra về. Thế thì nên nghe câu chuyện này do một linh mục người Pháp kể lại:
Anh Phaolô thường ngồi ăn xin nơi hành lang nhà thờ Thánh Giacôbê. Anh rất thích uống rượu nên vì thế mà bệnh hoạn nhiều. Những người trong khu xóm gần đó đều nghĩ rằng anh sẽ chết sớm thôi, nên không ai thèm để ý đến anh. Chỉ có một phụ nữ tốt bụng trong giáo xứ đôi khi chuyện trò với anh. Bà thương hại anh vì thấy anh cô đơn quá.
Bà ta cũng quan sát thấy cứ mỗi buổi sáng, anh rời hành lang, để đi vào nhà thờ vắng vẻ, và đến ngồi ở hàng ghế đầu, hướng mặt vào Nhà Tạm, và cứ ngồi đó mà không làm gì cả. Một ngày kia, bà thắc mắc hỏi anh :
- “Này Phaolô, tôi cứ thấy anh vào nhà thờ, vậy anh làm gì ở đó, có khi ngồi suốt cả giờ chẳng làm gì cả ? Anh không có sách Kinh, không có chuỗi Mân Côi, có khi còn ngủ gục nữa… Thế anh làm gì trong nhà thờ ? Anh cầu nguyện à ?”
- “Làm sao tôi có thể cầu nguyện được ? Anh đáp. Tôi không thể nhớ lấy một kinh mà người ta dạy tôi khi tôi còn là đứa bé. Bà muốn biết tôi làm gì hả ? Thật là đơn giản. Tôi đến trước nhà Tạm, nơi Chúa Giêsu cô đơn trong cái hộp đó, và tôi nói với Người :
“Giêsu ơi ! Con là Phaolô đây ! Con đến thăm Chúa đây!”
Và tôi cứ ngồi trước mặt Người một hồi lâu chỉ để cho Người biết tôi có mặt đó với Người.”
Không biết nói gì, chỉ hiện diện là đủ. Và sơ Emmanuel chú thích : Cầu nguyện với cả trái tim tức là đến với Chúa bằng chính mình, với tất cả những gì mình có. Nếu chúng ta không có gì, thì cứ đến với cái trống không đó… Chắc anh Phaolô đã an ủi Chúa Giêsu hơn nhiều người khác…
(Trích cuốn Phép lạ tại Medj. Nam Tư, California, USA, năm 2002, tr.88, Câu chuyện thứ 16 )
+ Cho những ai không biết nói gì với Chúa sau Rước lễ, xin đề nghị một cách sau đây :
Đó là nhớ lại 4 hiệu quả của việc Rước Mình Máu thánh Chúa đã học (từ tr.286 trở đi), và 4 kết quả (sẽ nói dưới đây). Mỗi lần sau khi Rước Chúa, nhớ lại một điều (nếu không nhớ được thì cầm quyển Mặc khải về Thánh Thể này theo mà mở ra đọc), rồi dùng nó mà thưa chuyện với Chúa, mà tạ ơn Chúa và hưởng được những ơn ích từ đó.
[** Ví dụ : Sau Rước Lễ, nhớ lại hiệu quả thứ nhất : Chúa phán : Ai ăn uống Thịt Máu Chúa sẽ được có sự sống của chính Thiên Chúa trong mình. Ta sẽ dùng điều ấy nói với Chúa đại ý như sau:
“Vì con đang có Chúa là chính Sự Sống của Thiên Chúa trong mình con, thì con sẽ sống vui vẻ, sống hạnh phúc như Thiên Chúa đang sống hạnh phúc trên Thiên đàng vậy, dù con đang gặp khó khăn thử thách … Con sẽ thấy mình được bình an, tâm hồn luôn thảnh thơi, luôn hân hoan vui sướng, không còn nóng tính, tức giận như trước…. Con sẽ tha thứ cho những người xúc phạm đến con, con sẽ không ganh ghét ai v.v… Ôi Chúa ! Quả thật là con được sống Thiên Đàng ngay trên trần thế này vậy ! ….
Hoặc nói : Có Sự Sống của Chúa trong mình, nhờ mãnh lực của Sự sống Thần Linh ấy, con tin chắc sẽ vượt thắng tội lỗi, dục vọng, đam mê…; sức sống ấy sẽ giúp con mạnh mẽ vững bước không gục ngã trên con đường đời, cũng sẽ không bị đè bẹp dưới gánh nặng gian truân và đau khổ….”]
* * *
- Ai sẽ thực hiện sự hiệp nhất đặc biệt và cụ thể Chúa ở trong ta, ta ở trong Chúa ?
Chúng ta thường nghĩ rằng : cứ lên Rước Lễ, lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa Giêsu thế là xảy ra sự hiệp nhất Chúa trong ta, ta trong Chúa! Đâu có chuyện tự động như thế! Cho dù ngay cả khi chúng ta lên Rước Lễ với lòng tin và mến xứng đáng.
Song là: Phải nhờ Thánh Thần tác động mới thành !
Một tác động vô hình thiêng liêng !
Thánh Giáo Phụ Cyrillô thành Alexandria sẽ dạy cho hiểu điều đó đại ý như sau :
"Thư 1 Gioan đã xác quyết: "Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta, là nhờ bởi Thánh Thần Người ban cho chúng ta" (1 Ga 3.24). "Thật vậy, khi thông ban Thánh Thần cho họ, Chúa Giêsu Con Một Thiên Chúa chuyển vào trong các người lành thánh một tính chất máu mủ ruột thịt (une sorte de parenté) với bản tính của Người. Hay nói cách khác, nhờ lãnh nhận Thánh Thần, những kẻ ấy được thông phần chính bản tính thần linh của Người (2 Pr 1.4) [3] giống như các cành nho thông chia nhựa sống của thân cây nho vậy. (Ga 15.4-5)
"Như thế đã rõ cái chất keo làm cho ta gắn kết hiệp nhất với Chúa Giêsu Kitô chính là Thánh Thần của Người. Và khi ta được liên kết với Người, tức là được tháp vào, gắn vào Người như cành nho với thân cây nho, thì Người ở trong ta, ta ở trong Người. Một khi gắn bó với Người như vậy, Đức Kitô tỏ cho chúng ta thấy qua dụ ngôn cây nho, sự kết hiệp với Người mang lại lợi ích thế nào cho chúng ta (nghĩa là giúp chúng ta nên hoàn thiện, và khiến chúng ta sinh nhiều hoa quả việc tông đồ, và các việc lành phúc đức khác), cũng như gốc nho cung cấp và phân phối nhựa sống của nó cho các cành nho khiến trổ sinh hoa quả dồi dào." (Phỏng theo Bài Kinh Sách, Mùa phục sinh, Tuần V, thứ 3)
@@@@@_BÀI 77_@@@@@
- Những kết quả phát sinh từ “hiệu quả thứ ba” Chúa ở trong ta, ta trong Chúa, đó là :
1) Chúa làm chủ bản thân và cuộc đời ta :
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được việc này, khi ông viết :
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng mình vì tôi.” (Gl 2.20)
Chớ gì kinh nghiệm ấy cũng xảy ra nơi ta : Khi ta Rước Lễ một cách sốt sắng với niềm tin yêu tràn đầy, Chúa Giêsu ngự vào và ở trong ta không phải như là một pho tượng im lìm bất động, song như vị Chúa sống động và hoạt động.
Người phải là Chúa, là Chủ mọi sự trong cuộc đời ta, mọi hoạt động của ta. Ta đang sống đấy : sinh hoạt, làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ, giải trí, vui chơi v.v…thế mà lúc ấy như thể không phải ta sống mà là chính Chúa Giêsu đang sống những sự ấy trong ta, vì thế Thánh Phaolô mới nói : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.”
Nói cụ thể, tất cả những hoạt động của đời sống chúng ta đều chiếu theo tinh thần và cách thức của Chúa mà làm: Chẳng hạn khi cầu nguyện, hay khi làm việc, thì nghĩ xem Chúa đã làm thế nào mà làm theo ; khi vui chơi giải trí, khi ăn uống v.v… cũng vậy !
Hoặc nói cách đơn giản hơn: trước khi làm bất cứ điều gì, ta tự hỏi rằng nếu Chúa có mặt đây, Người sẽ làm thế nào? Như thế, tất cả đời sống ta đều để Chúa làm chủ và điều khiển ! Và lời Thánh Phaolô được thể hiện : “Những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại vì mình.” (2 Cr 5.15)
*
2) Kết quả thứ hai : Không còn sợ hãi sự gì.
Đoạn Tin Mừng Mác-cô 4.35-41 thuật chuyện này :
“Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi !” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền ; có những thuyền khác cùng theo Người.
Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói : “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao ?”
Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển : “Im đi ! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?”
Các ông hoảng sợ và nói với nhau : “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?”
Chúng ta hãy suy nghĩ : Gió bão như thế mà Đức Giêsu cứ ngủ được thì kể cũng lạ, phải chăng Người quá mỏi mệt vì công việc giảng dạy ? Hay phải chăng Người cố tình làm như vậy để có cơ hội dạy các môn đệ một bài học ?
Chúng ta đều biết các tông đồ đa số là những tay chài lưới dầy dạn kinh nghiệm đi biển và sóng gió, thế mà lần này khi sóng bão quá mạnh, thuyền bị nước tràn vào gần chìm, tát ra mấy cũng không xuể, họ hoảng hốt đến nỗi cuối cùng phải kêu cứu với Thầy, thì Người lại trách họ là sao nhát sợ và kém lòng tin ?
Cứ bình thường mà nói, trách mắng các tông đồ như thế thì hơi oan ức cho họ, vì cho dù họ đã nhiều lần thấy Thầy mình làm những phép lạ, chữa lành đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, lại còn có quyền năng trục xuất quỉ ma ra khỏi người ta, nhưng họ đâu có biết Người có quyền lớn đến nỗi “cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”! Các việc chữa lành bệnh hoạn tật nguyền hay trừ quỉ đó, họ thấy Người làm là làm cho những cá nhân, hay cho một số người, còn đây gió bão là việc của trời đất lớn lao vĩ đại, họ đâu có ngờ quyền phép Thầy mình có thể lớn lao đến như vậy. Họ hoảng sợ kêu cứu là phải.
Nhưng Đức Giêsu vẫn không cho là phải. Người cho đó là nhát đảm và thiếu lòng tin vào Người : “Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?”
Người muốn dạy rằng : nếu có Người ở đó, trong thuyền, thì dù có sóng to bão lớn đến đâu cũng không thể nào chìm. Chúa không thể chết chìm ! Chưa tin chắc như thế thì Người bảo họ là “vẫn chưa có lòng tin !”
Bài Tin Mừng ấy thật ra là để dạy chúng ta : Nếu chúng ta có Chúa ở trong ta, như Chúa ở trong thuyền các tông đồ, thuyền không thể chìm, thì ta cũng vậy, Rước Chúa Giêsu vào trong lòng là có Chúa là Chúa Tể trời đất ở trong ta rồi, không còn gì làm ta phải sợ hãi. Phải tin chắc như thế. Tin được như thế mới là “có lòng tin.” Có thể các tông đồ lúc đó chưa tin mạnh vì họ chưa biết Chúa đầy đủ, bằng chứng là họ hỏi : “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?” Còn chúng ta bây giờ biết Người là ai rồi : “Đấng có quyền năng khiến muôn loài muôn vật phải hàng phục mình” (Pl 3.21), chúng ta không được phép sợ hãi nữa, vì tin chắc như “đinh đóng cột” rằng sau khi Rước Lễ có Chúa ở với ta, ở trong ta, ta không còn phải sợ sự gì.
Đúng vậy, ngày nay ta có lý mà càng tin mạnh hơn, bởi lẽ Chúa Giêsu mà ta rước vào lòng bây giờ lớn hơn Đức Giêsu ngày xưa lúc xảy ra câu truyện trên. Nói như vậy có nghĩa là lúc đó Đức Giêsu còn ở trong giai đoạn làm người trần thế, gánh tội lỗi nhân loại trên mình để chịu chết đền tội, vậy mà Người còn có quyền phép bắt sóng bão im lặng, huống chi bây giờ Đức Giêsu, sau Tử nạn và Phục sinh, đã lên ngôi Chúa, vinh hiển và quyền năng phép tắc vô cùng, ngang hàng với Chúa Cha như Thánh thư Philiphê ca tụng :
“Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên mọi danh hiệu.
Như vậy, khi nghe danh Đức Giê-su,
mọi đầu gối phải bái quỳ,
trên trời dưới đất và trong âm phủ,
và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng :
“Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”,
để tôn vinh Thiên Chúa Cha.” (Pl 2.9-11)
Thế mà có những giáo hữu vẫn thường và có khi vẫn hàng ngày lên Rước Chúa, mà luôn luôn sợ hãi những chuyện mê tín dị đoan vu vơ đâu đâu: kiêng kỵ ngày tốt ngày xấu, sợ ngày thứ sáu 13, buôn bán gặp người dữ vía, sinh ra năm nào, cầm tinh con vật gì đó thì tính tình, hay công việc làm ăn không thuận lợi, v.v… và v.v…, tất cả những điều đó do những người lương dân ở chung quanh nói lui nói tới, riết rồi nhập tâm và cũng đâm sợ lây như họ… Thấy cảnh đáng buồn như vậy, ta mới tự hỏi không biết những giáo hữu ấy lên Rước Lễ thì họ có biết là rước ai vào lòng mình, vào đời mình không ? Rước một vị Thiên Chúa toàn năng phép tắc vô lượng vô biên, hay rước một miếng bánh tráng vô hồn ? Rước một người Cha yêu thương ta vô bờ bến và hằng quan phòng chăm nom săn sóc ta (Mt 6.25-34 ; 1Pr 5.7; Tv 23.), hay chỉ là làm chiếu lệ một thủ tục đạo đức ?
Đành rằng trong đời sống, ai ai cũng có những lúc đau khổ, thử thách khi ít khi nhiều, có những lúc đến dồn dập như sóng gió bão bùng : nào bệnh tật, nào thất nghiệp, nào nợ nần, anh chị em ruột thịt tranh giành, vợ chồng giận nhau, con cái hư hỏng, loài người làm khổ, ngược đãi, bắt bớ hay làm hại ta, v.v…Những lúc ấy, chỉ khác một điều là ta, người Công giáo, đi Rước Lễ, nếu ta tin chắc có Chúa ở trong ta như ở trong thuyền các tông đồ, thì nhất định không bị chìm ngập…, sóng sẽ yên, biển sẽ lặng… Tất cả rồi sẽ sáng sủa, sẽ được giải quyết êm đẹp.
Ngay cả ma quỉ, ta cũng không sợ nữa, vì có lời Chúa dạy rằng : “Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra, …
có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra (là Đức Giêsu) giữ gìn người ấy, và Ác thần không đụng đến người ấy được.” (1 Ga 5.18)
Không sợ chết : Các thánh Tử đạo ngày xưa, cũng như các Kitô hữu đang bị bắt bớ vì đạo ngày nay, nhờ Rước Mình Thánh Chúa, được có Chúa trong họ, họ không còn sợ ngục tù, xiềng xích, đòn đánh và ngay cả cái chết… Những lúc ấy, các vị ấy nhớ đến những lời Thánh vịnh này mà ca lên để thêm can đảm :
“Có CHÚA ở cùng tôi, tôi chẳng sợ gì,
hỏi người đời làm chi tôi được ?”
(Tv 118.6)
“Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.”
(Tv 27.3)
“Dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thuỷ triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì.” (Tv 46.4)
“Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.” (Tv 23.4)
Vậy trọng tâm vấn đề của ta là ở chỗ ta có Rước Lễ cho nên không ? Và ta có tin không ?
Rước Mình Thánh Chúa cách thờ ơ, chiếu lệ chẳng khác gì như ăn một miếng bánh đa (bánh tráng), vì thế Đức Giêsu ngự vào lòng ta như một tượng gỗ chẳng làm được gì! Mt 13.58 cho biết : “Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ tại đó (Nadarét), vì họ không tin.”
Còn nếu ta tin phép lạ sẽ xảy ra. Nhớ lại tích cô Mác-ta, làng Bêthania, khi Đức Giêsu đến và bảo mở mồ cậu Ladarô em cô đã chết, cô liền cản : “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” Đức Giê-su bảo : “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?”(Ga 11.39-40). Thấy vinh quang của Thiên Chúa nghĩa là thấy phép lạ xảy ra.
@@@@@_BÀI 78_@@@@@
Có người vấn nạn : “Con làm như các cha dạy, con Rước Lễ, con tin, mà sao chẳng thấy gì ?”
Xin trả lời : Nói rằng tin , nhưng đã tin thật chưa ? Đã tin đủ chưa ? Cũng ví như uống rượu, nhấp một chút cũng gọi là uống, song một chút xíu như thế làm sao say được? Phải cứ uống tiếp, hết chén này đến chén khác, “đủ đô” là sẽ say. Lòng tin của ta cũng thế, mới tin chút đỉnh, chưa đủ đô, làm sao xảy ra kỳ tích được ?
*
3) Kết quả thứ ba : Hiệp nhất giữa các Kitô hữu : [4]
Nhờ thông phần Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta được kết hợp với Thân thể Chúa : "Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa (rồi uống), há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh (rồi ăn), đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?” Và do được kết hợp với Thân thể Chúa như vậy mà chúng ta hợp thành một thân thể với nhau : “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (1Cr 10.16-17). Đấy chính là lời của Thánh Phaolô.
Phải thú nhận rằng đa số Kitô hữu chúng ta, ngay cả những người đạo đức sốt sắng nhất, do đã được dạy dỗ trong một nền đạo đức cá nhân từ hồi xưa, nên đã quen giữ đạo cho mình, lo phần rỗi cho mình, đọc kinh dự Lễ cho mình, Rước Lễ để Chúa ngự vào lòng mình, ban phúc cho mình v.v…, nhưng ít lưu tâm đến sự hiệp nhất, liên kết, giúp đỡ nhau, như Thánh Phaolô nói :
"Không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung." (1 Cr 12.25-26).
Làm sao hiệp nhất nếu không biết yêu thương. Vì yêu thương thì kết hiệp, không yêu thương thì chia rẽ. Vậy xin mời nghe lời khuyên yêu thương tuyệt vời của Thánh Gioan tông đồ:
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa [….]
(và theo gương của) Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ như thế này :
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. […] Anh em thân mến,
nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
chúng ta cũng phải yêu thương nhau.” (1 Ga 4.7-11)
Thiên Chúa là Tình Yêu, toàn cả bản thân Người đâu đâu cũng là tình yêu, vì thế Người là nguồn gốc tất cả mọi tình yêu trên trời, dưới đất. Người đã biểu lộ tình yêu vô bờ bến của Người đối với chúng ta một cách không thể tưởng tượng nổi, vượt tất cả mọi suy đoán của loài người : Đó là
“Sai Con Một đến thế gian… làm của lễ đền tội…để nhờ Người chúng ta được sống.”
Và Thánh thư kết luận : “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta (đến mức tột cùng) như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.”
Tóm lại, nếu thật Thiên Chúa là Cha chúng ta, thì chúng ta là con phải noi gương Cha. “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người (không phân biệt đối xử, không loại trừ ai), Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5.45)
- Các tín hữu trong Hội Thánh tiên khởi ngày xưa đã đạt được điều tưởng chừng như lý tưởng xa vời đó, có sách Công vụ Tông đồ làm chứng :
“Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. […] Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.” (Cv 2.44; 4.34-35);
"Họ nên như chỉ có một tấm lòng một linh hồn" (Cv 4.32).
Còn thực tế nơi giáo hữu ngày nay, cách riêng giáo hữu VN, chúng ta thấy gì ? Có nhiều người cho rằng mình yêu mến Chúa và biểu lộ sự đó ra khắp nơi…, song hãy nhìn vài cách cư xử của họ mà coi : trong nhà thờ dành ngồi chỗ tốt nhất, lúc xếp hàng xưng tội, thì giành vào trước, thậm chí lúc lên Rước Lễ cũng chen nhau, xô đẩy nhau…Có khi vừa bước chân ra khỏi nhà thờ hoặc sau buổi kinh nguyện, thì đã cư xử, nói năng với người lân cận hết sức khiếm nhã. Trong cuộc sống đời thường, thái độ của họ với người trong gia đình hay người hàng xóm cũng rất tệ bạc, nói hành nói xấu, ghen ghét, đố kỵ, cưu mang giận hờn, thiếu yêu thương, thiếu quan tâm dù bằng lời nói hay việc làm. Chưa kể đến biết bao sự tranh chấp, chia rẽ, bè đảng trong giáo xứ, giữa các hội đoàn, và đáng buồn hơn nữa là giữa hàng giáo sĩ, linh mục, tu sĩ …
Như thế, thì thử hỏi những người ấy đi dâng Thánh Lễ và lên Rước Lễ là họ làm chuyện gì vậy ? Câu của Thánh Phaolô dẫn trên : "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể", chẳng có nghĩa lý gì đối với họ sao ?
Thánh Lễ đồng tế trên núi Krizevac, Medjugorje. |
Trước tình trạng đáng buồn ấy, Thánh Phaolô phải ra sức khuyên bảo chúng ta :
"Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại ; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí tạo nên, nhờ mối dây liên kết là sự bình an. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng." (Ep 4.2t)
- Để chúng ta thấy sự Hiệp nhất ấy quan trọng đến chừng nào cho sự sống còn của mình, Hội Thánh đã phải cầu viện đến Chúa Thánh Thần trong Thánh Lễ:
"Chúng con tha thiết nài xin Cha cho chúng con, khi thông phần Mình và Máu thánh Chúa Kitô, được hiệp nhất cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần." (Sách Lễ Rôma, Kinh Nguyện Thánh Thể II).
Hội Thánh đã nêu gương cầu nguyện như vậy, chúng ta cũng bắt chước mà khẩn cầu tha thiết Chúa Thánh Thần, Đấng đã liên kết chúng ta với Chúa Kitô thế nào (trên kia đã nói), cũng xin Thánh Thần ngự xuống trong tâm hồn để duy trì sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu với nhau như vậy,
- a) bởi vì Thánh Thần của Thiên Chúa vốn duy nhất bất khả phân chia, cho nên khi Ngài ngự trong các Kitô hữu cũng làm cho họ được kết hiệp nên một, không chia ly.
- b) và bởi vì Thánh Thần là linh hồn của Thân thể mầu nhiệm, tất nhiên Ngài phải làm cho các Kitô hữu hiệp nhất, giống như linh hồn trong thân thể làm cho tất cả các chi thể hợp nhất với nhau, lo lắng cho nhau, giúp đỡ nhau, cùng chung một chí hướng, một mục đích, vui sướng cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia, "một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ." (1 Cr 12.25-26).
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Chúa nói rằng : “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy.” Mà lời Thầy chí thánh thì dạy chúng con biết bao lần là :
- "Hãy học với Tôi vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng."
- "Hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em !"
- "Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."
Khi làm khổ cho anh em là làm khổ cho chính Chúa vì Chúa đồng hóa mình với họ : “Sao ngươi bắt bớ Ta ? Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ!"
Nhưng Chúa ơi, qua những thử thách, khó khăn, những va chạm hàng ngày, chúng con thành tâm nhận thấy rằng chúng con chưa yêu mến Chúa thật sự, vì chúng con chưa giữ Lời Chúa cho trọn vẹn, mà vẫn còn giữ rất nhiều ý riêng của mình, chưa từ bỏ hy sinh, cũng chưa vui lòng vác thập giá mình hàng ngày mà theo chân Chúa. Kiêu ngạo và một lũ tính mê nết xấu như bạn bè luôn cùng đồng hành với chúng con trong cuộc đời, khó mà vĩnh biệt được, chúng con chưa có thể ‘đoạn tuyệt’ với lũ bạn hư hỏng kia đã làm cho chúng con xa Chúa và xa anh chị em mình.
Giờ đây, tất cả chúng con khẩn cầu Thần Khí Chúa ngự đến với chúng con, đổi mới tâm hồn ích kỷ hẹp hòi của chúng con, ban cho chúng con trái tim bằng thịt thay thế trái tim bằng đá, để biết yêu thương và hiệp nhất với anh chị em mình :
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin Ngài ngự đến,
canh tân đổi mới đời sống chúng con,
Tăng sức linh hồn, bồi thêm lửa mến, soi sáng trí khôn, hiệp nhất muôn lòng.
Chúa hỡi, khứng xin ngự đến, đổ tuôn muôn ơn, phù giúp chúng con. Xin thương soi dẫn nhân tâm,
nương theo Thần Khí bước trong bình an.
*
@@@@@_BÀI 79_@@@@@
4) Kết quả thứ bốn : Làm chứng và Truyền giáo.
Xin mượn lời khen của thầy Mạnh Tử, để đề cao đặc ân của các môn đệ là hằng được ở bên Đức Giêsu:
“Thánh nhân là vị Thầy của trăm đời (thánh nhân bách thế chi sư giã), người ở trăm đời sau, ai nghe cũng phải cảm kích..., huống hồ những người thân cận bên thánh nhân (nhi huống ư thân trích chi giả hồ). Thật như được ở gần bên lửa mà hơ nóng, gần bên sự sáng mà được rạng vậy".
- Lời khen này quả thật rất đúng cho các Tông đồ trước tiên, các ngài đã được hằng ở với Đức Giêsu từ ban đầu :
“Rồi Đức Giêsu lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.” (Mc 3.13-14)
Ở với Chúa Giêsu, được nghe Người dạy dỗ, sau đó các ông được lệnh truyền của Thầy Thánh là phải ra đi loan báo Tin Mừng không chỉ ở Phalêtin mà khắp cùng thế giới :
“Người nói với các ông : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.” (Mc 16.15-16)
Họ phải làm chứng và rao giảng Tin Mừng trước mặt vua chúa, quan quyền ngoại đạo. Sách Công vụ tông đồ thuật lại những lần Thánh Phaolô làm chứng trước mặt ông Tổng trấn Rôma (Cv 24.10-21) ; trước mặt vua Agrippa và những người thân cận (Cv 25.23 - 26.32), lời lẽ của ông hay đến nỗi nhà vua thốt lên : “Chút nữa là ông thuyết phục được Trẫm trở thành Kitô hữu.” (26.28).
Họ phải loan báo, phải tuyên chứng ngay cả trước mặt các thế lực thù nghịch cấm cản :
“Họ (Đại Hội Đồng Do Thái) cho gọi hai ông (Phêrô và Gioan) vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giê-su nữa. Hai ông đáp lại : “Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi : trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không ? Các ông thử xét xem ! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra.” (Cv 4.18-20).
Tai họ đã nghe gì ? Mắt họ đã thấy gì ?
"Chúng tôi là chứng nhân về mọi điều Đức Giêsu đã làm … Người mà họ đã treo trên súc gỗ mà giết đi, nhưng chính Thiên Chúa đã làm cho sống lại… và đã cho hiện tỏ, không phải cho toàn dân nhưng là cho những nhân chứng Thiên Chúa đã chọn trước, tức là chúng tôi, những kẻ đã (được ở với Người), được cùng ăn cùng uống với Người sau khi Người sống lại từ cõi chết. Người đã truyền dạy chúng tôi rao giảng cho dân và đoan chứng…" (Cv 10.39-42)
Thánh Phaolô tuy không được ở bên Đức Giêsu lúc Người sống tại thế, nhưng cũng được thấy Người hiện ra sau phục sinh dạy bảo và chọn làm Tông đồ (Cv 9.1tt), nên ông cũng loan báo Chúa cho người ta :
“Thiên Chúa đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại.” (Gl 1.16)
Ý thức về sứ vụ mình, ông viết một câu rất đanh thép :
“Loan báo Tin Mừng… là điều khẩn thiết giáng xuống trên tôi. Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9.16 ; xem 2 Cr 11.10).
- Lời của thầy Mạnh Tử cũng nói cả cho chúng ta : từ nhỏ, ta cũng đã được học biết về Thầy chí Thánh Giêsu, nghe lời Người giảng dạy qua sách Tin Mừng, nhất là tiếp đón Người vào lòng khi Rước Lễ, được hâm nóng, được chiếu sáng …, thì đương nhiên sẽ phải là sứ đồ làm chứng về Thầy, truyền bá đạo lý của Thầy cho cả trăm đời thiên hạ.
Đó cũng chính là lời Thầy chí thánh dạy chúng ta :
"Anh em là ánh sáng cho thế gian… Người ta không thắp đèn rồi đặt nó dưới thúng, nhưng trên giá đèn để nó soi sáng mọi người trong nhà. cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chói lọi trước mặt người ta, ngõ hầu họ thấy việc làm anh em làm mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5.14-16).
Xin để ý câu : “Người ta không thắp đèn rồi đặt nó dưới thúng, nhưng trên giá đèn để nó soi sáng mọi người trong nhà.” Chúa có ý nhắc nhở: Chính Chúa đã thắp ngọn đèn là chúng ta, nghĩa là, Chúa đã ban ơn cho ta được sống trong đạo Chúa, mà sống trong đạo Chúa là được ánh sáng chân lý Chúa thắp sáng, vậy không được che lấp, song phải soi sáng cho những người còn sống trong tối tăm lầm lạc, tin thờ tà thần, ngẫu tượng… có nguy cơ đi vào cõi chết.
Đáng phải nói mà im là thiếu lòng thành. Sách Nho ngày xưa có một lời dạy rất đúng: “Học theo đạo tiên vương, thuận theo điều lễ nghĩa, gần gũi với người có học, thế mà không ưa nói, không vui nói, thì hẳn không phải kẻ sĩ chí thành” (Tuân Tử, Phi tướng).
Chểnh mảng việc làm chứng và Truyền giáo.
Phải thú nhận, người Công giáo VN quen giữ đạo hơn là truyền đạo. Nguyên nhân của sự chểng mảng ấy là do đâu ?
- a) Là do nghĩ rằng không làm việc truyền giáo thì nào có hệ gì, đi đạo cốt được rỗi linh hồn là đủ ! Chẳng lẽ ta đã quên lời Chúa Giêsu ngăm đe: “Anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi,… nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi”? (Mt 5.13). Anh em là muối cho người đời đang hư thối bởi tội lỗi, thế mà anh em không muối cho họ ! Đó là dấu anh em đã ra nhạt, đã thành vô dụng, vậy chỉ còn việc quăng ra ngoài đường cho người ta giẫm đạp lên mà thôi. Bị giẫm đạp không chỉ nhục nhã, mà còn ngầm báo việc bị Chúa vứt bỏ !
- b) Một nguyên nhân nữa khiến cho người Công giáo VN lơ là việc làm chứng và truyền giáo, đó là do việc dạy đạo đã không truyền cho họ “cái lửa”, nhưng đã cống hiến cho một cái đạo nặng nề : Họ không thấy vui sướng khi sống đạo, thì làm sao có hứng khởi mà truyền cho người khác? Phải làm sao cho người ta sống đạo mà vui mừng chẳng khác gì bắt được kho báu. Chúa Giêsu đã nói rồi : “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì … vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.” (Mt 13.44). Kìa xem một người vừa được trúng số, vui mừng sung sướng nhẩy cẫng lên, và không thể kềm giữ được niềm vui ấy một mình, liền đi khoe với tất cả thân nhân bạn bè !
- c) Cuối cùng là do chúng ta thiếu lòng thương các linh hồn ! Hãy xem Tin Mừng Matthêu kể về Chúa chúng ta : “Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9.36-38). Còn ta, môn đệ Chúa, hằng ngày thấy bao nhiêu người phạm tội và sa hỏa ngục, chẳng lẽ ta không có chút động lòng xót thương hay sao ? Và nếu xót thương thì phải làm gì chứ để cho họ được biết Chúa, bỏ đàng tội lỗi mà được cứu rỗi. Thánh Gioan bảo:
“Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. (1 Ga 3.18).
- Phải làm gì ? Muốn làm chứng cho Chúa Giêsu, muốn truyền giáo cách hăng say đắc lực, trước tiên chúng ta phải theo gương các tông đồ, là “hằng ở” với Chúa, “hằng ở” là kề cận lâu dài trong tình thân mật và yêu thương với Người, nhờ đó ta hiểu Người, hiểu cách thâm sâu cặn kẽ. Kìa xem, ông An-rê nhờ đã “đến và ở lại với Đức Giêsu ngày hôm ấy” (Ga 1.39) mà đã khám phá ra Đức Giêsu là Đấng Mê-sia toàn dân trông đợi mà giới thiệu Người cho em mình là Phêrô và dẫn em đến với Người. Một người ta chỉ gặp thoáng qua trên đường trong chốc lát, ta không thể làm chứng về họ, vì có biết họ thật sự thế nào đâu. Người xưa có câu :
“Họa hổ họa bì nan họa cốt,
Tri nhân tri diện bất tri tâm.”
(Vẽ hổ, chỉ vẽ da bên ngoài, không vẽ được xương cốt bên trong. Biết người, là chỉ biết diện mạo, chứ đâu biết được lòng họ).
Lại nữa, nhờ việc “hằng ở” với Chúa, kề cận lâu dài trong tình thân mật với Người, ta sẽ mến thương Chúa, si mê Chúa, vui sướng và hạnh phúc có Chúa ; mà vì thấy Người đáng mến vô cùng, cho nên khao khát truyền lửa mến ấy cho người khác, với ước vọng cháy bỏng muốn người khác cũng hiểu biết và yêu mến Chúa mình nữa. Cho dẫu vì làm chứng như thế mà bị chế riễu, tẩy chay, ngược đãi, bị tù ngục và cả chết nữa, thì họ cũng cam. Đó là lửa đã được thắp lên trong hồn ta, sẵn sàng đem Tin Mừng đến cho mọi người, như bài thánh ca “Thắp sáng trong con” của Trầm Hương đã hát lên: Thắp sáng lên trong con Tình Yêu Chúa.
Thắp sáng lên trong con tình tuyệt vời.
- Để con hân hoan đem tin yêu đi về muôn lối.
Tựa như mưa tuôn, mưa hồng ân Chúa trên trần đời.
- Để con say mê tim reo vang rộn ràng đi tới.
Niềm tin dâng cao, ôi niềm tin thánh ân tuyệt vời.
Bởi thế, để làm chứng, để truyền giáo, ta phải có kinh nghiệm sống bản thân, trực tiếp, thân gần với Chúa. Kinh nghiệm sống thân mật ấy sẽ cho ta một xác tín sâu xa, mạnh mẽ, và khi làm chứng, cung giọng xác tín ấy, không ai có thể nhầm lẫn được. Nếu không, các lời chứng của ta chỉ là lời nói của con vẹt, nói mà chẳng hiểu mình nói gì.
Nhiều giáo dân ngày nay phê bình một số các vị giảng thuyết, giảng viên giáo lý mắc chứng bệnh nghề nghiệp này : Là linh mục, là giảng viên thì phải giảng thôi ! Đang khi thính giả cảm thấy : những lời nói của các vị ấy, chỉ là những lời nói thuộc lòng, theo sách vở đã học trong nhà trường.
@@@@@_BÀI 80_@@@@@
- Công Đồng Chung Vatican II, Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, số 1 và 2, khẩn thiết kêu mời giáo dân làm chứng cho Chúa, làm việc tông đồ, loan báo Tin Mừng : “Việc tông đồ giáo dân không bao giờ có thể thiếu trong Giáo Hội. Chính Thánh Kinh minh chứng rõ ràng, vào những buổi đầu của Giáo Hội, việc tông đồ này thật hăng say và phong phú biết bao! (x. Cv 11.19-21; 18.26; Rm 16.1-16; Ph 4.3…). Thời đại chúng ta đòi hỏi giáo dân phải nhiệt thành không kém, nhất là hoàn cảnh hiện tại càng đòi hỏi việc tông đồ của họ phải tích cực và sâu rộng hơn”…
Cần sửa đổi tâm tưởng : Lời Công Đồng đã dạy rõ, thế mà có nhiều giáo dân ngày nay vẫn còn nghĩ : Việc tông đồ và truyền giáo là phận sự của Giáo Hội, của các linh mục, [5] tu sĩ… Họ không biết rằng : giáo dân cũng có một việc tông đồ và truyền giáo “trong phạm vi trần thế” mà không ai thay thế được, nhất là trong thế giới tục hóa ngày nay ! Vì sao ?
Hãy nghe Công Đồng nói tiếp : “Vì bản chất riêng biệt của giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời, (đó là môi trường mà Giáo Hội, tu sĩ, linh mục không thể đến hay vào được)… nên giáo dân thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình để rao giảng Tin Mừng và thánh hóa nhân loại, đem tinh thần Tin Mừng thấm nhuần và làm hoàn hảo những việc thuộc phạm vi trần thế, sao cho công việc của họ thuộc lãnh vực này làm chứng tỏ tường cho Đức Kitô và góp phần vào việc cứu độ nhân loại… Họ được chính Thiên Chúa mời gọi, để một khi tràn đầy Thần Khí Đức Kitô, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột.”
THỰC TẬP LÀM CHỨNG VÀ TRUYỀN GIÁO
Nghe theo những điều chúng ta học hỏi trên đây về làm chứng và truyền giáo, coi như chúng ta đã thấm nhuần tinh thần của Chúa, và đã được hơ nóng trong tình mến Chúa, từ đây chúng ta sẵn sàng làm chứng và làm tông đồ truyền giáo trong phạm vi trần thế của chúng ta. Bây giờ chỉ còn phải mạnh dạn dấn thân ra đi, như lời thầy Thánh đã truyền :
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16.15)
"Anh em là ánh sáng cho thế gian… Người ta không thắp đèn rồi đặt nó dưới thúng, nhưng trên giá đèn để nó soi sáng mọi người trong nhà. cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chói lọi trước mặt người ta !”(Mt 5.13t)
------------------------------------------
Vì thấy có nhiều anh chị em rất nhiệt tâm muốn rao truyền Tin Mừng, và nói về Chúa, song lại thú nhận không biết nói thế nào, do đó đâm rụt rè, ngần ngại…, vì vậy để giúp anh chị em (cách riêng của lớp Thánh Kinh) đỡ lúng túng khi phải nói với người ngoài Kitô giáo về Chúa, về Đạo, nên đã dọn sẵn cho anh chị em những điều cần nói trong 5 cuốn sách nhỏ Truyền giáo, cỡ bằng bàn tay và một cuốn lớn hơn, mỗi cuốn dầy hơn kém khoảng 100 trang :
1 - Hạnh Phước con người
2 - Một vấn đề sống chết
3 - Tôi theo đạo Trời
4 - Đại cương giáo lý
5 - Khám phá một nguồn vui
Cuốn lớn : Tìm Dấu Vết Thượng Đế.
Những cuốn sách này rất bình dân, ai đọc cũng hiểu được. Riêng cuốn lớn có lối lập luận hơi cao hơn.
CÁCH THỨC
1/ ĐƯỢC TẶNG SÁCH : Sẽ phát tặng những cuốn sách này cho những anh chị em nào đăng ký và cam đoan sẽ tiếp xúc với từ 3 đến 5 người lương.
2/ KHÔNG ĐI PHÁT SÁCH : Được tặng sách nhưng không phải để anh chị em đi phát sách ấy cho họ, như thế không phải là làm việc truyền giáo.
3/ TIẾP XÚC : Muốn làm việc truyền giáo thì anh chị em phải đọc trước từng cuốn nhỏ ấy, sau đó cho họ mượn hay trao tặng nếu cần. Và khi họ đọc xong, anh chị em sẽ tiếp xúc với họ, và nói chuyện với họ :
“Bạn có thích không ?”, “Điều gì làm bạn thích nhất ?”; “Có điều gì chưa hiểu?”, “Có gì thắc mắc ?”, “Bạn có muốn theo Chúa không ?”, “Bạn có muốn nhận Chúa Giêsu làm chủ đời mình không ?” v.v…
Vì đã đọc sách ấy trước, anh chị em sẽ nói chuyện được với họ, có thể giải nghĩa hay giải đáp thắc mắc cho họ. Không có sự tiếp xúc này, không phải là truyền giáo.
4/ HỌP THÀNH TỔ : Hoạt động Loan Báo Tin Mừng theo tính cách cá nhân đã là điều tốt rồi, song khuyên anh chị em nên tìm nhau để tự động họp thành từng tổ nhỏ từ 3 đến 5 người hoặc do ở gần nhà, gần xóm, hoặc do cùng chí hướng hay thân tình…, mục đích để trợ giúp nhau, nâng đỡ nhau, trao đổi học hỏi kinh nghiệm của nhau v.v…, mà thi hành việc tông đồ truyền giáo cách tốt hơn. Chẳng phải khi Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Người cứ sai hai người chứ không sai từng cá nhân một ? (Lc 10.1,9,11)
- Khi đã thi hành những việc nói trên, là phần của ta, ta an tâm và vui mừng vì đã làm xong nhiệm vụ làm chứng và truyền giáo Chúa dạy, còn kết quả thế nào là phần của Chúa !
@@@@@_BÀI 81_@@@@@
Muốn cho công việc truyền giáo đạt được hiệu quả tốt, có một việc nữa chúng ta cần làm, đó là “cầu nguyện chữa lành” đi kèm với việc nói về Chúa. Tại sao ?
Tại vì chính Chúa Giêsu đã làm như thế : từ trời Người đem xuống một phương pháp cứu độ mà chúng ta phải học đòi ! Đưa mắt nhìn vào Tin Mừng Thánh Matthêu, thì thấy ông toát yếu cách tuyệt diệu hoạt động của Chúa Giêsu như sau:
“Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân….. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền : những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt ; và Người đã chữa họ..” (Mt 4.23-24)
Giải thích :
Chúa Giêsu là “Ngôi Lời và cũng là Thiên Chúa” (Ga 1.1), là Đấng mà Thánh Phaolô gọi là “sự Khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1.24), Đấng Thượng trí Khôn ngoan vô lường vô hạn, mà Thánh kinh tuyên xưng :
“Trời cao hơn đất chừng nào
thì đường lối của Ta
cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta
cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55.9)
Thế mà khi từ trời xuống thế để cứu độ nhân loại, Người chỉ sử dụng một phương pháp gồm 2 điểm này để thi hành sứ vụ :
Một là giảng dạy, rao giảng Tin Mừng Nước Trời ;
Hai là chữa lành những kẻ bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ quỷ ma cho những kẻ bị ám trong dân…,
Chẳng lẽ chúng ta cho mình khôn ngoan hơn Chúa, khi làm cách khác để truyền giáo ? Xem ra cả ở thời đại khoa học tân tiến ngày nay, Chúa Giêsu vẫn không muốn chúng ta thay đổi đường lối truyền đạo ấy, chỉ vì phương pháp Người dùng vẫn rất hiệu nghiệm, và chẳng có gì người ta có thể nghĩ ra tốt hơn để thay thế cho nó.
- Có những người chủ trương rằng điều quan trọng nhất là loan truyền Lời Chúa, còn việc chữa lành là không cần thiết.
Nhưng kinh nghiệm cho biết : nếu chỉ nói lời Chúa cho người ta nghe, hay cho họ đọc sách viết về Chúa, về đạo mà thôi (như chúng ta làm trên đây) thì chưa đủ, vì dân chúng còn muốn nghiệm thấy hiệu lực của Lời Chúa. Ví dụ : chúng ta nói với họ rằng : Thiên Chúa yêu thương họ. Nghe rồi họ sẽ tự hỏi : Tôi có thấy Chúa yêu thương thế nào đâu ? Họ sẽ kể ra các khốn khổ của họ : nào là bệnh tật, hoạn nạn, nghèo đói, túng thiếu, nợ nần, v.v… Chúa thương sao Người để cho gặp cảnh khổ như vậy mà không thấy Người cứu giúp ?
Giá mà lúc ấy, ta một mình, hay tốt hơn họp nhau vài người, hay cả một cộng đoàn, mà đặt tay cầu nguyện cho họ được khỏi hay được bớt những sự khốn khó ấy, tức khắc dân chúng sẽ nhìn thấy dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa tỏ bày lộ ra trước mắt. Lúc ấy họ sẽ mở lòng ra đón nhận sứ điệp cứu rỗi, và nhờ Ơn Thánh trợ giúp, họ chấp nhận Chúa Giêsu Kitô làm Cứu Chúa và Chúa Tể của đời mình…
Lý do thật dễ hiểu, một khi đã nghiệm được nơi bản thân họ quyền năng chữa lành và giải thoát của Chúa, lúc ấy họ sẽ mở lòng ra nghe và tin lời Chúa. Thánh Lêô Cả Giáo Chủ dẫn giải : “Những người bình dân ít học, thường rất chậm tin vào những gì họ không thấy, và khó hi vọng những gì họ không biết. Vậy để trí khôn họ đón nhận những lời giáo huấn thần linh, thì trí khôn ấy phải được kích thích bởi những ơn ích phần xác và những phép lạ họ thấy rõ ràng. Khi cảm nghiệm nơi bản thân một quyền lực lớn lao như thế ban ơn cho họ rồi, họ sẽ tin rằng những lời giảng dạy cũng sẽ đem lại ơn cứu độ cho họ.” (Bài Kinh Sách, Mùa Thường Niên, Chúa nhật 22, thứ 5).
Cha Êmilianô Tardif cũng viết : “Các phép lạ chữa lành làm chứng cho thấy rằng vị Thiên Chúa mà chúng ta loan báo (cho họ) đang hành động thực sự. … Thành ra các phép lạ và những việc chữa lành hiến cho ta cơ may tuyệt vời để bày tỏ hoạt động của Thiên Chúa, chứ không phải chỉ nói về một Thiên Chúa mà chẳng ai thấy và cũng chẳng thấy Người làm gì cả” (Trích sách: Đức Yêsu là Đấng Thiên sai, tr.150).
Chính Chúa Giêsu đã biết và thực hành điều đó: Người làm những phép lạ chữa bệnh, xua trừ tà ma v.v… những cái này lôi cuốn đoàn lũ dân chúng đến với Người, và thế là Người rao truyền Tin Mừng cứu rỗi cho họ. Chữa lành thể xác cốt để đưa đến chữa lành tâm hồn, biến những chữa lành thể xác bên ngoài, thành thuốc chữa bệnh tâm hồn bên trong.
- Có người nói lên nỗi e ngại của mình : “Tôi không có đặc sủng chữa lành, đặt tay cầu nguyện mà nhỡ họ không được khỏi, thì sẽ làm trò cười cho thiên hạ ?”
Xin trả lời : Không nên e ngại vì : 1) Trước hết, không ai bảo chúng ta đặt tay là họ sẽ được khỏi bệnh, phép lạ ấy chỉ có Chúa Giêsu làm được bằng quyền năng của Ngài. Phần chúng ta, chỉ đặt tay để cầu nguyện cho họ, còn Chúa sẽ chữa lành họ nếu đó là thánh ý Chúa. Mà sao Chúa lại không chữa lành, khi Người thấy người ta có lòng tin, vì Người thường nói : “Tin sao thì được như vậy” (Mt 9.29), hay “Lòng tin của con đã chữa lành con” (Mc 5.34). Để hiểu, mời nghe cha Tardif kể câu truyện của mình như sau:
“Năm 1973, vì quá lao lực, tôi lâm bệnh lao phổi ác tính nặng,… ở ngưỡng cửa cái chết.… Lúc đang trong bệnh viện để chữa chạy, tôi được một cuộc viếng thăm đặc biệt [….] 5 giáo dân thuộc nhóm cầu nguyện Canh Tân Đặc sủng. Ở bên xứ sở nơi tôi phục vụ… tôi thường chế nhạo họ… Thế mà bây giờ những người này đến đề nghị cầu nguyện cho tôi. Với tư cách là linh mục tôi nghĩ rằng từ chối đề nghị của họ không là một gương sáng, vì tôi vẫn thường giảng khuyên người ta cầu nguyện cho nhau. Nhưng thật thà mà nói, tôi để họ cầu nguyện cho mình là vì lịch sự hơn vì tin. Tôi không thể nào tin được một lời cầu nguyện suông có thể mang lại sức khỏe. Còn họ thì nói với tôi đầy xác tín:
“Chúng con làm những gì mà Phúc Âm nói: ‘Nhân Danh Ta, họ sẽ đặt tay trên bệnh nhân và bệnh nhân đó sẽ được chữa lành’. Vì thế chúng con sẽ cầu nguyện, và Chúa sẽ chữa cha lành.”
Tức thì họ đến sát ghế tôi đang ngồi, đặt tay trên tôi. Tôi chưa bao giờ thấy một việc như thế cả, cho nên việc đó làm tôi bực mình. Ngồi dưới bàn tay của họ, tôi thấy mình kỳ cục quá… Nhưng, lạ thật trong khi họ cầu nguyện, tôi cảm thấy một sức nóng ran trong phổi, tôi tưởng chừng lại lên cơn đau và tôi sẽ chết ngay. Nhưng chính đó là sức nóng tình yêu của Chúa Giêsu đang chạm đến tôi và chữa lành hai buồng phổi bệnh hoạn của tôi… Ba hay bốn hôm sau, tôi được hoàn toàn bình phục khỏi cơn bệnh nặng hầu như tuyệt vọng. Chúa đã chữa lành tôi, dù lòng tin của tôi lúc ấy quá bé nhỏ, còn nhỏ hơn hạt cải. Nhưng Thiên Chúa quá vĩ đại, Người không xá kể gì đến sự bé nhỏ của tôi. Thiên Chúa chúng ta là thế ! Vì nếu Người đối xử theo công trạng của ta, thì Người đâu phải là Thiên Chúa!”
Cha Tardif kết luận câu chuyện:
“Tôi cảm nghiệm được nơi bản thân một bài học căn bản đầu tiên cho tác vụ chữa lành của tôi sau này, [6] là Chúa chữa chúng ta theo lòng tin chúng ta hiện có. Chỉ thế thôi. Người không đòi hỏi gì hơn”
(Trích sách : Chúa Giêsu đang sống, tr.1-5).
Chúng ta vừa nghe mấy giáo dân trên đây nói với cha Tardif : “Chúng con làm những gì mà Phúc Âm nói: ‘Nhân Danh Ta, họ sẽ đặt tay trên bệnh nhân và bệnh nhân đó sẽ được chữa lành’. Vì thế chúng con sẽ cầu nguyện, và Chúa sẽ chữa lành cho cha.” Họ nói : Phúc Âm dạy làm như vậy, chứ không phải do ai trong loài người bảo làm, nói khác đi, chính Chúa Giêsu đã dạy làm như vậy!
2) Nên biết Chúa Giêsu ban những quyền năng ấy không chỉ cho 12 Tông đồ mà còn cho các môn đệ khác nữa:
“Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác và sai các ông từng hai người một đi trước… Người bảo các ông :… Hãy chữa những người đau yếu…Nhóm bảy mươi hai trở về, hớn hở nói : “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” (Lc 10.1-2,9,17).
3) Vị Thánh Sử Máccô còn cho biết là Chúa Giêsu ban các quyền ấy cho hết mọi kẻ tin:
“Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”(Mc 16.17-18).
Chúng ta càng được thêm xác tín và phấn khởi để thi hành công việc ấy, khi biết rằng Chúa Giêsu không để mặc chúng ta hoạt động một mình. Về trời rồi, Ngài vẫn ở cùng chúng ta :
“Này Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế !” (Mt 28.20).
Và cùng hoạt động :
“Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16.20)
Thực Hành : Khi đặt tay cầu nguyện giải thoát [7] cho người ta, xin đề nghị tạm dùng công thức dưới đây, với hết cả lòng tin chúng ta hiện có, và hết lòng yêu thương họ :
“Lạy Thiên Chúa toàn năng và từ bi nhân hậu, Cha đã thương chúng con đến nỗi sai Con Một xuống thế chịu chết đền tội chúng con, và đã cho Ngài sống lại để ban sự sống cho chúng con.
Vậy nhân danh cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu, xin Cha ban quyền năng và vinh quang Chúa Thánh Thần xuống trên người này…, để xua trừ tà ma khuấy khuất, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, và giải trừ mọi sự khốn khó trong ngoài của họ, và cho họ thêm tin, cậy và mến Cha. Chúng con xin Cha ơn ấy nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Mẹ chúng con. - Amen”.
@@@@@_BÀI 82_@@@@@
HIỆU QUẢ THỨ TƯ :
SỐNG NHỜ CHÚA NHƯ CHÍNH
CHÚA ĐÃ SỐNG NHỜ CHÚA CHA. (c.57)
Tin Mừng theo Thánh Gio-an chất chứa những mầu nhiệm tuyệt vời, những điều thuộc cõi thiên giới siêu nhiên… và đã được chính Ngôi Lời từ trời xuống làm người tỏ bày cho nhân loại (Ga 1.18). Dầu vậy, vì tâm trí loài người có giới hạn, các điều trong Tin Mừng vẫn cần đến sự soi sáng của Thánh Thần Thiên Chúa, để làm sáng tỏ những chân lý mà loài người tự tài trí mình không thể thấu hiểu được :
“Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, … thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng ? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài … chẳng gửi Thần khí thánh ?” (Kn 9.16-17 ; Xem thêm 1 Cr 2.10-11)
Chúa Giêsu cũng nói với các tông đồ : “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức mang nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” (Ga 16.12-13)
Rất nhiều điều mà chỉ khi hạ mình khiêm nhường mà cầu xin Thần Khí Sự Thật đến chỉ dạy, đi đôi với sự khổ công học hỏi, nghiên cứu trong thời gian lâu dài, các nhà thần học – và cả chúng ta – mới có thể nhận ra được phần nào những ẩn ý cao sâu trong đó. Vậy, trước khi đi tiếp, chúng ta hãy dừng lại một phút để cầu xin ! < …. >
Một trong những điều cao sâu mầu nhiệm ấy là mặc khải của Đức Giêsu về Bánh Sự Sống, mà Thiên Chúa Cha từ trời ban xuống. Điều mặc khải cao siêu và lạ lùng này đã gây biết bao nhiêu tranh cãi từ thuở ấy cho tới bây giờ…, đến nỗi ngay cả những môn đệ đi theo Đức Giêsu cũng không hiểu, và cho là chướng tai, nên đã bỏ không theo Người nữa (Ga 6.60-66). Ngày nay cũng vậy, vẫn có nhiều người không tin… Phần chúng ta, nhờ ơn Chúa giúp, đã nỗ lực học hỏi và suy gẫm mà hiểu và tin được đôi chút (xem lại từ Bài 1).
Giờ đây, ta cùng nhau học hỏi mấy Lời cuối cùng của Diễn từ Bánh Sự Sống của Chúa, vốn cũng là Hiệu Quả thứ tư phát sinh từ việc ăn uống Mình Máu Thánh Chúa :
"Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ sống nhờ Tôi như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." (Ga 6.57-58)
Để học hỏi, chúng ta chia những Lời cuối cùng này thành 2 Tiểu đoạn và một Lời kết :
Tiểu đoạn 1 : Như Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào. (6.57a)
Tiểu đoạn 2 : Kẻ ăn Tôi cũng sẽ sống nhờ Tôi như vậy. (6.57b).
Lời kết. (6.58)
*
Tiểu đoạn 1 :
"NHƯ TÔI SỐNG NHỜ CHÚA CHA…" (6.57a)
Thật lạ lùng và khó hiểu khi Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa, lại phát biểu: "Tôi sống nhờ Chúa Cha." Vốn là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa sao lại phải sống nhờ Chúa Cha ? Chẳng phải Người cũng là Thiên Chúa tự hữu, hằng hữu sao ? Và nếu quả thật Chúa Giêsu phải sống nhờ Chúa Cha, là nhờ sự gì và như thế nào ?
Theo lịch sử loài người, Chúa Giêsu hiện diện ở trần gian này sau ông Ápraham khoảng 1800 năm (18 thế kỷ). Vì thế, trước con mắt người đời, Chúa Giêsu chỉ là con cháu xa xôi của Tổ phụ, thế mà Chúa dám tuyên bố với người Do Thái : "Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy Ngày của Tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ !" (Ga 8.56)
Nghe vậy người Do Thái chất vấn Chúa :
- "Ông chưa được 50 tuổi mà đã thấy ông Ápraham!"
Không hề nao núng, Người khẳng định :
- "Thật, Tôi bảo thật các ông : trước khi có ông Ápraham, thì Tôi, Tôi Hằng Hữu!" (Ga 8.57) (nghĩa là : Tôi đã có rồi).
Người Do Thái không chỉ cảm thấy khó hiểu lời của Chúa Giêsu, mà còn cho là lời lộng ngôn phạm thượng vì dám tự coi mình bằng Thiên Chúa, nên toan ném đá Người. Họ hiểu lầm như vậy bởi vì họ không biết Chúa Giêsu có hai bản tính: một là thiên tính, hai là nhân tính : Người vừa là Thiên Chúa vừa là con người :
Với tư cách là Thiên Chúa, Chúa Giêsu là Đấng Hằng Hữu, Người luôn luôn đã có, vẫn có, và sẽ có mãi mãi, vô thủy vô chung : “Ta là Alpha và Omega (là Đầu và là Cuối). Ta là Đấng Hằng Sống” (Kh 1.17). Bởi đó trước khi có ông Ápraham thì đã có Người rồi. Người là Đấng Tự Hữu, nghĩa là Người tự có không cần nhờ đến ai.
Nhưng khi Chúa xuống trần để lo việc cứu độ nhân loại, Người đảm nhận một nhân tính, nói cách nôm na là khi Người mặc xác phàm (Ga 1.14), Người phải nhờ một người phụ nữ là Đức Trinh Nữ Maria thụ thai và sinh Người ra (Gl 4.4), mang lấy thân phận người trần ; mà đã là người trần, tức là một tạo vật, thì phải nhờ Thiên Chúa là Nguồn Sự Sống mới sống được, như lời Thánh Phaolô nói với cư dân thành Athêna, một dân tộc văn minh nhất thời đó: "Thiên Chúa ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự.”…“Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu." (Cv 17.25,28 ; xem thêm Tv 139.13; Gióp 10.8-12). Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng không ngoại lệ, cũng phải sống nhờ Thiên Chúa là Nguồn Sự Sống như vậy.
Những bằng chứng Thánh Kinh sau đây sẽ cho thấy, Chúa Giêsu, với cương vị Đấng Thiên Sai, đã phải sống nhờ Thiên Chúa trong mọi sự, mọi nơi, mọi lúc như thế nào :
1- Ngay lúc đầu thai trong lòng mẹ, Đức Giêsu phải nhờ quyền năng của Thiên Chúa là Thánh Thần tác động:
- "Sứ thần nói (với cô Maria) : "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô, vì thế, trẻ (Giêsu) sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa." (Lc 1.35)
2- Trước khi bắt đầu thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu được Thần Khí lấy hình dáng chim câu ngự xuống trên Người, tấn phong làm Đấng Thiên Sai:
- "Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng thể xác tựa chim bồ câu. Và có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con." (Lc 3.21-22; Ga 1.32-33).
3- Sau đó, để chuẩn bị thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu được Thần Khí hướng dẫn đi vào sa mạc ăn chay, tĩnh tâm cầu nguyện :
“Bấy giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, … Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày" (Mt 4.1)
4- Thời sứ vụ công khai, để thực hiện sứ mạng Chúa Cha giao phó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, làm phép lạ, trục xuất ma quỉ, chữa lành người bệnh hoạn tật nguyền…, Chúa Giêsu được :
- "Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha; cho người mù biết họ được sáng mắt; trả lại tự do cho người bị áp bức; công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa." (Lc 4.18-19)
- "Thiên Chúa xức dầu cho Người bằng Thánh Thần và quyền năng. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế " (Cv 10.38)
5- Chúa Giêsu cầu nguyện cũng nhờ Thánh Thần :
"Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha." (Lc 10.21)
6- Chúa Giêsu luôn luôn “liên lạc” với trời cao qua cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là khi Người phải quyết định việc hệ trọng như việc tuyển chọn 12 Tông đồ để tiếp nối sự nghiệp cứu thế giới của Người :
"Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông đồ" (Lc 6.12-13).
Việc tuyển chọn ấy đã được thực hiện cũng là nhờ tác động của Thánh Thần :
"Trước ngày được rước lên trời, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần."(Cv 1.2)
7- Nhờ đâu mà Chúa Giêsu có can đảm vâng theo thánh ý Cha bằng lòng chịu tử nạn, bởi vì theo tính tự nhiên nhân loại, Người cũng cảm thấy sợ hãi và muốn trốn tránh cái chết kinh khủng thập giá :
"Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết…." (Dt 5.7)
Cụ thể, ở vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã khẩn nguyện :
"Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này." (tức là cái chết bị đóng đinh trên thập giá).
Nhưng ngay tức thì, Người nói : "Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha." (Mt 26.39)
Vậy nếu Chúa Giêsu đã có thể vâng phục Ý Chúa Cha, mà hiến dâng thân mình chịu chết khổ hình thập giá làm Của Lễ Đền Tội cho nhân loại, thật sự là nhờ sức mạnh của Thánh Thần :
"Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa." (Dt 9.14)
8- Cuối cùng, sau khi đã chịu đóng đinh trên thập giá mà chết, Thiên Chúa Cha đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng nhờ bởi Thần Khí của Người :
“Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi […] Người đã bị giết chết về thân xác, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.” (1 Pr 3.18)
“Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ làm cho thân xác phải chết của anh em được sống, nhờ Thần Khí của Người đang ngự trong anh em.” (Rm 8.11)
Tóm lại, toàn cả đời sống Chúa Giêsu từ đầu đến cuối, đã phải sống nhờ Thiên Chúa, hay chính xác hơn nhờ Thánh Thần/Thần Khí, là quyền năng của Thiên Chúa, kể từ lúc thụ thai, khi lớn lên, trên con đường thực hiện sứ mạng Đấng Thiên Sai rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho loài người, lúc phải quyết định hy sinh chịu chết khổ hình thập giá để đền tội nhân loại, cho tới khi từ cõi chết sống lại vinh hiển để ban sự sống Thiên Chúa cho họ.
@@@@@_BÀI 83_@@@@@
Vì : Không có Thần Khí mọi sự đều suy vong !
Đúng vậy, qua kinh nghiệm bản thân mình trong cuộc đời làm người dưới thế, luôn đã phải cần đến Thần Khí mới có thể sống và thi hành trọn vẹn Chương trình theo Thánh Ý Chúa Cha, nên Chúa Giêsu biết chắc rằng, các môn đệ của Người (các Tông đồ và chúng ta), không thể nào sống trọn vẹn đời môn đệ chân chính, và nối tiếp sự nghiệp Rao truyền Tin Mừng, nếu không nhờ Thần Khí. Vì thế, sau Phục Sinh, Chúa Giêsu cấp tốc lãnh nhận Thần Khí từ Thiên Chúa Cha mà ban xuống cho các Tông đồ ngay chiều ngày phục sinh :
"Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở,… Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông :… “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20.19-22)
Và sau đó 50 ngày, trong ngày Lễ Ngũ Tuần Người tuôn đổ Thánh Thần xuống một cách trọng thể (Cv 2.32-33):
“Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 2.1-4)
Kể từ đó, nhờ nhận lãnh được Thần Khí là quyền lực của Thiên Chúa (Lc 24.49), các Tông đồ đã trở nên con người khác xưa, những con người mới, can đảm mở toang cánh cửa sợ hãi, hiên ngang ra đi Rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng lấy chính mạng sống mình làm chứng cho một niềm tin sáng ngời. Đó là một niềm tin vào Đấng Chịu Đóng Đinh như một Tên Tử Tội, nhưng là một Tên Tử Tội lạ lùng, đã bằng lòng chịu chết để đền tội của cả nhân loại, và chuộc lại tất cả bằng Giá Máu của chính mình !
Xét như thế, nếu phải nói rằng : Tất cả Công trình Cứu Chuộc của Chúa Giêsu : Xuống thế làm người ; rao giảng Tin Mừng Nước Trời, chịu cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh, đều đã nhờ quyền lực của Thần Khí mà thực hiện được, thì cũng phải nói rằng : muốn duy trì công trình đó thì cũng phải nhờ quyền lực của Thần khí. Vì lẽ đó, có thể nói rằng : trọn cả cuộc đời Chúa Giêsu – cách riêng cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người – cũng chỉ nhắm một mục đích là làm sao trao ban Thần Khí ! Bởi lẽ nếu không có Thần khí, công trình cứu chuộc của Người đã dầy công tạo lập, sẽ sụp đổ tan tành.
Bài học của lịch sử dân Israen trong Cựu Ước vẫn còn đó để cho nhân loại thấy : công trình vĩ đại Thiên Chúa cứu độ họ, rốt cuộc đã bị tiêu vong như thế nào :
Sau khi đã được Thiên Chúa ra tay dùng những phép lạ thần kỳ để cứu thoát khỏi làm nô lệ người Ai Cập, dân Israen được Chúa ban Lề Luật để họ sống xứng đáng làm dân thánh của Người, rồi còn được Chúa trợ lực đánh tan bao nhiêu địch thù hùng cường mà vào chiếm Đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Nhưng dầu vậy, họ không giữ nổi Lề luật của Thiên Chúa truyền, đã phạm đủ thứ tội lỗi nhất là tội thờ tà thần (Đnl 30.15-20), vì thế đã bội tín với giao ước (Gr 31.31-32), đến nỗi Chúa nổi giận và trừng phạt họ bị chiến tranh nhà tan cửa nát, quốc gia tiêu vong, ngay cả đền thờ Thiên Chúa ngự cũng bị phá hủy, dân chúng bị đi lưu đày và làm nô lệ cho các cường quốc…như ngôn sứ Đanien khóc lóc thú nhận :
“Ôi, lạy Chúa Thượng, Thiên Chúa cao cả và đáng sợ, … chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài.
“Chúng con đã không nghe lời các tôi tớ Chúa là các ngôn sứ. Các ngài đã nhân danh Chúa mà nói với vua chúa, quan quyền, với cha ông chúng con và toàn dân trong xứ. Lạy Chúa Thượng, Chúa là Đấng Công Chính; còn chúng con thì đáng phải hổ mặt hổ mày như ngày hôm nay - chúng con là … toàn thể Ít-ra-en, những người ở gần cũng như ở xa, trong mọi xứ Ngài đã đuổi đến vì tội bất trung đã phạm chống lại Ngài.[…]
“Bấy giờ lời nguyền rủa và lời thề ghi trong luật Mô-sê, tôi trung của Thiên Chúa, đã trút xuống chúng con vì chúng con đã đắc tội với Ngài. Ngài thực hiện những lời Ngài đã răn đe chúng con … khi giáng xuống chúng con tại Giê-ru-sa-lem một đại hoạ chưa hề xảy ra dưới gầm trời. […]
“Thế mà chúng con vẫn không chịu lìa bỏ lỗi lầm để trở lại và chú tâm suy niệm về lòng thành tín của ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa chúng con, hầu làm cho nét mặt của Ngài dịu lại. ĐỨC CHÚA …. đã giáng tai hoạ xuống trên chúng con, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng con, là Đấng công minh chính trực trong mọi việc Ngài làm, và chúng con đã không nghe tiếng Ngài.” (Đn 9.4-14).
Tất cả những tai họa đó xảy đến, chỉ vì tuy họ có Lề Luật nhưng không tuân giữ, mà không tuân giữ được vì không có Thần Khí của Chúa trợ lực !
Sau kinh nghiệm đau thương ấy, Thiên Chúa sẽ làm một giao ước mới, ở đấy Người hứa sẽ ban Thần Khí nhờ đó dân chúng sẽ có sức mà giữ lề luật của Người :
“Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới […] Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.” (Gr 31.31-33)
“Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt Thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính Thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.” (Ed 36.26-27)
Và Thần Khí đã hứa ấy sẽ được ban bởi Chúa Giêsu Tử nạn và Phục sinh :
“Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi (chịu chết) thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ (là Chúa Thánh Thần) sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Ga 16.7)
“Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống : đó là điều anh em đang thấy đang nghe.” (Cv 2.32-33)
SUY NGHĨ VÀ CẦU NGUYỆN
Qua mấy đoạn Thánh Kinh trên, chúng ta nhận thấy vai trò hết sức cần thiết và quan trọng của Thần Khí (cũng gọi là Thánh Thần hay Đấng Phù Trợ) cho các Tông đồ, cho Hội Thánh, cho mỗi người chúng ta và cho cả thế giới !
Đó thật là Ân Huệ hết sức lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại chúng ta.
Giả như Chúa Giêsu có chết đi mà không sống lại và không ban Thần Khí, thì các Tông đồ không có can đảm ra đi, lướt thắng gian nan, chống đối, tàn xử, tù ngục và cả cái chết nữa để loan báo Tin Mừng Chúa Kitô… Và như thế tức là Hội Thánh sẽ không tồn tại, còn phần chúng ta vẫn sống trong ngoại đạo tội lỗi và trong cuộc đời cũ nát, nhát đảm, sợ sệt… như trước. Thế gian này cũng chẳng được thay đổi gì nên tốt đẹp hơn. Cái chết của Chúa Giêsu thành ra vô ích. Công trình cứu chuộc vô cùng cực nhọc, đau đớn của Người tan tành mây khói !
Xét như vậy mới thấy, quả thật chúng ta đã rất dại dột khi chúng ta lãng quên hay lơ là với Chúa Thánh Thần.
Thử xét lại xem, trong cuộc đời mình, ta đã thành khẩn, hết lòng tôn kính và chạy đến kêu cầu Ngài được mấy lần ? Phải, chúng ta có đọc hay hát Kinh Đức Chúa Thánh Thần đầu giờ Kinh sáng Kinh tối, đầu những việc đạo đức…, nhưng là đọc và hát theo thói quen “như thủ tục đầu tiên” thế thôi, chứ có để lòng để trí đâu, có khẩn khoản tha thiết nài van đâu ? Một năm có một ngày đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, thì ta cũng đi dự như bao ngày lễ khác theo luật buộc. Vì thế, cuộc đời chúng ta không tốt đẹp, không mấy xứng đáng là Kitô hữu, nhiều gương xấu, nhiều đam mê, nhiều tội lỗi, và có lẽ người ta thường trách cứ đây biết đâu chẳng rất đúng cho ta : “Có đạo, mà sống như người ngoại đạo.”
Mà làm sao sống cho xứng là người có đạo, xứng là môn đệ chân chính và là tông đồ của Chúa Giêsu, nếu không nhờ “ơn soi sáng” và “ơn sức mạnh” của Chúa Thánh Thần? Ngay Chúa Giêsu, như ta đã xem trên, dẫu là Ngôi Lời tạo thành trời đất (Ga 1.1), là Đấng Cứu Độ thế giới, thế mà suốt cả đời mình, Người đều phải nhờ Thánh Thần trong mọi sự, thì ta là ai mà có thể sống tốt không cần nhờ Thánh Thần ?
Bây giờ bắt đầu lại vẫn chưa muộn !
@@@@@_BÀI 84_@@@@@
Bây giờ bắt đầu lại vẫn chưa muộn !
Vậy việc đầu tiên là thành tâm cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Đành rằng, Chúa Giêsu đã tuôn đổ Thánh Thần xuống như đoạn Thánh Kinh trên đã nói, nhưng ban là một chuyện còn có nhận được hay không là chuyện khác. Mưa thì tưới xuống cùng khắp mọi nơi, còn người ta có hứng hay không mới là quan trọng ! Nếu đem chum to, bể chứa thì lãnh được nhiều, thau chậu thì lãnh được ít, còn nếu chỉ đem chiếc lọ nhỏ như lọ dầu gió xanh bé xíu thì chẳng được mấy tí.
Vậy ta phải mở lòng ra mà cầu nguyện để lãnh nhận được Thánh Thần. Mấy thánh ca sau đây giúp nguyện cầu thêm sốt sắng, vì ca hát là cầu nguyện hai lần :
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, canh tân đổi mới đời sống chúng con. Tăng sức linh hồn, bồi thêm lửa mến, soi sáng nhân tâm, hiệp nhất muôn lòng.
- Chúa hỡi, khấng xin ngự đến, đổ tuôn muôn ơn, phù giúp chúng con. Xin thương soi dẫn nhân tâm, nương theo Thần Khí bước trong bình an.”
(Lm. Thành Tâm)
“Lạy Chúa, xin ban xuống trên chúng con, Thần Trí tác tạo của Chúa, Người đổi mới tâm can, đổi mới muôn lòng.
- Nguyện Chúa ban cho chúng con chính Thần lực dìu dắt giữa trần gian.
- Người sẽ ghi trong trái tim chính Lề luật tình mến Chúa truyền ban.
- Người đốt lên trong chúng con ánh lửa hồng bừng cháy của niềm tin…..”
***
Để đến đây mới nêu lên thắc mắc và một câu hỏi :
1/ Thắc mắc : Ở đầu Tiểu đoạn 1 nghe Chúa Giêsu nói “Tôi sống nhờ Chúa Cha …”, đến khi trên đây đưa ra những câu Thánh Kinh để minh chứng thì lại là những câu nói Người sống nhờ Thần Khí, như thế phải chăng có sự lạc đề ?
- Giải đáp : Thoạt xem có vẻ lạc đề, song nếu xét kỹ thì không. Xin vui lòng nghe giải thích : Trong Tin Mừng Gioan 4.24, khi giảng giải cho người phụ nữ Samari, Đức Giêsu tuyên bố : “Thiên Chúa là Thần Khí, (vì thế những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.”) :
Chúa Cha là Thiên Chúa,
mà Thiên Chúa là Thần Khí,
vậy nói : sống nhờ Chúa Cha hay nói : sống nhờ Thần Khí thì cũng như nhau. Không hề lạc đề.
2/ Bây giờ lại hỏi : Mà Sống nhờ Thần Khí là sống nhờ cái gì ?
Xin trả lời : Xin nhớ lời Đức Giêsu tuyên bố trên đây : “Thiên Chúa là Thần Khí”, lời tuyên bố ấy không có ý nói Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần, Ngôi thứ Ba, song "định nghĩa “Thần khí” (pneuma) là bản tính thần linh của Thiên Chúa” [8], cũng như khi nói Thiên Chúa là Sự Thật (Alêtheia), là Sự Sáng (Phôs), là Tình yêu (Agapê) vậy.
Ở 2 Cr 3.17t cũng nói : “Chúa là “Thần Khí”, phải hiểu Thần khí là Thực tại cánh-chung tuyệt đối. Thực Tại ấy là tất cả mọi sự : là Thần tính, là Thánh thiện, là Khôn ngoan, là Vinh quang (Rm 6.4; 2 Cr 3.8,18), là Sức mạnh (Lc 1.35; 4.14; Cv 10.38), là Sự Sống, là Nguồn Sống (Ga 6.63; 2 Cr 3.6; Gl 6.8)…
Tóm lại, nói rằng Thiên Chúa là Thần Khí có nghĩa là nói Thiên Chúa là tất cả mọi sự nói trên, gói gọn vào một câu : là Sức Sống ! [9]
Bây giờ đáp lại câu hỏi trên : “Sống nhờ Thần Khí là sống nhờ cái gì ?”, xin trả lời là : “Sống nhờ Thần tính, sự Thánh thiện, sự Khôn ngoan, Vinh quang, Sức mạnh, v.v…của Thiên Chúa, tắt một lời, nhờ Sức Sống của Thiên Chúa.”
Sau đây, bằng những đoạn văn thật huy hoàng, Thánh Kinh minh chứng Thần Khí là Sức Sống của Thiên Chúa và Người ban Sức Sống ấy cho muôn loài như thế nào :
1.- Thuở Sáng Thế, khi Thiên Chúa khởi sự sáng tạo trời đất, lúc ấy chưa có vũ trụ, chỉ có cõi uông mang, hư không trống rỗng, vô hình tượng, chính Thần Khí-Sức Sống “bay lượn” như thể bao phủ (giống như gà mẹ ấp trứng), để làm nảy sinh sự sống của muôn loài, muôn vật :
"Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước." (St 1.1-2)
2.- Sau khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và muôn loài muôn vật, cuối cùng Người tạo dựng loài người : “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2.7). “Thổi sinh khí” là một cách nói tượng hình ám chỉ việc Thiên Chúa thổi hơi sống (hay : hơi thở sự sống) của mình (“halène de vie”, BJ2 và TOB) vào trong con người, nhờ đó họ trở thành “sinh vật” (hay đúng hơn: “nhân vật”), tức là thành con người, có sự sống nhân loại : có linh hồn bất tử, có trí thông minh và tự do, khác biệt với loài vật.
Có sự khác biệt ấy là bởi vì loài người được “tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa bất tử” (St 1.26 ; Kn 2.23), vì thế được ban quyền thay mặt Thiên Chúa làm bá chủ mọi loài mọi vật đã được Người sáng tạo (St 1.26,28). Dầu vậy, loài người tự bản chất vẫn là một sinh vật phức tạp vừa có xác có hồn, do đó đã nảy sinh nhiều giằng co xâu xé, căng thẳng và mâu thuẫn: vì tinh thần thì khát vọng vô biên, nhiều nhu cầu, nhiều ước vọng, nhưng thể xác thì chậm chạp, yếu nhược. (Chúa Giêsu đã xác nhận điều ấy, Mt 26.41). Bởi đó thân phận con người rất chênh vênh, mong manh không chóng thì chầy sẽ vấp ngã ... Và quả thật việc sa ngã ấy đã xảy ra. Hai ông bà nguyên tổ chúng ta đã sa ngã, phạm tội và truyền lại cho con cháu cái di sản tội lỗi (St 3.1-19 ; Rm 5.12).
Từ đó, loài người như bị trượt dốc, càng có khuynh hướng thiên về các sự dữ, các điều xấu xa… trong đó có tội vô ơn bội nghĩa với Đấng đã tạo dựng nên mình, đã ban cho mình sự sống và hạnh phúc, mà quay lưng lại với Người, đi thờ các tà thần hay các ngẫu tượng hư vô giả trá, để mong cầu những lợi ích vật chất tạm bợ. Họ quên rằng khi thờ tà thần là không những họ đã phạm tội bất trung, một trọng tội nghịch với Thiên Chúa, bởi vi phạm điều răn thứ nhất: Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, mà còn là tội dẫn đưa đến bóng đen của cái chết đời đời, là kề cổ vào lưỡi hái của Tử Thần Hỏa Ngục.
3.- Nhưng thật lạ lùng, mặc cho bội phản, mặc cho vô ơn của con người, mà dân Do Thái là điển hình, [10] Thiên Chúa vẫn không bỏ con người lâm vào tử lộ, song vẫn yêu thương, và âm thầm ban cho loài người Thần Khí của Người, để họ quay về đường sống :
"Quả vậy, lạy Đức Chúa, (Ngài cho) Thần khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài muôn vật (chứ không chỉ ở trong người Kitô hữu). Vì thế những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa". (Kn 12.1-2).
Thần Khí khi ấy chỉ như một ơn huệ thiêng liêng, nên Thiên Chúa chưa bằng lòng, một ngày kia, Người sẽ còn ban đích thân Thần Khí của Người xuống cho nhân loại.
@@@@@_BÀI 85_@@@@@
Nhưng trước ngày đó, Thiên Chúa phải sai các tiên tri dùng các biểu tượng để mô tả cho họ thấy ơn huệ này vĩ đại và phong phú đến chừng nào :
a.- Biểu tượng Dòng nước thanh sạch để thanh tẩy mọi vết nhơ và mọi tà thần, ngẫu tượng, đem lại sự đổi mới tinh khôi cho loài người :
"Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần." (Ed 36.25)
b.- Biểu tượng Trái tim bằng thịt, là ban một tấm lòng tinh khiết và mềm mại tràn đầy tình yêu thương, ngoan ngoãn vâng theo luật Chúa, thay thế cho trái tim trước đấy bằng đá cứng cỏi vô tín, bất tuân lệnh Chúa, kết khối hận thù, ghen ghét, tị hiềm, trụy lạc …:
"Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt Thần Khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. " (Ed 36.26)
c.- Biểu tượng Thần Khí. Không những sẽ ban Thần Khí mới, mà còn xác định là chính "Thần Khí của Thiên Chúa”, được đặt vào lòng con người :
"Chính Thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành." (Ed 36.27).
Chỉ khi Thần Khí ấy được đặt vào lòng con người, thì họ mới có thể tuân giữ các Lề luật của Thiên Chúa, đi theo các đường lối của Người ! Chẳng khác gì hồi sinh họ từ cõi chết, cứu họ thoát ra khỏi ngôi mồ của "lối sống xấu xa và hành vi bất hảo" (Ed 36.31) mà biểu tượng dưới đây diễn tả.
đ.- Biểu tượng Thần Khí hồi sinh xương khô : đó là đoạn Êdêkien 37. Một đoạn tiên tri diễn tả Thần Khí là Sự Sống một cách huy hoàng hơn hết. Thiên Chúa đem ngôn sứ đặt ở giữa một cánh đồng đầy xương khô không thể nào còn hi vọng sống lại, thế mà Thần Khí Thiên Chúa đã làm hồi sinh các xương khô ấy.
Bắt đầu Thiên Chúa sai ngôn sứ tuyên sấm của Thiên Chúa trên chúng…Tức thì xương cốt xích lại gần nhau, tụ họp lại, gân cốt, da thịt khởi sự mọc lên… Nhưng ở nơi chúng chưa có Thần Khí cho nên chưa sống.
"Người lại bảo tôi: "Tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với Thần Khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh." Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên : Đó là cả một đạo quân lớn đông vô kể." (Ed 37.9-10)
"Bấy giờ Người phán với tôi: Hỡi con người, các xương đó là toàn thể nhà Itraen. Này chúng vẫn nói: "Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng chúng tôi đã tiêu tan!.." Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, nói với chúng: Đức Chúa phán: "Hỡi dân Ta, Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngươi…Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh." (Ed 37.11-14)
e.- Biểu tượng Dòng sông lai láng mênh mông, từ đền thờ chảy ra. Phalêtin là xứ sở phần nhiều gồm đồi núi, ở ven các sa mạc đồng khô cỏ cháy, cho nên có nước là sống. Thiên Chúa cho tiên tri Êdêkien thấy thị kiến sau đây, để dùng hình bóng mà tiên báo cho biết việc Thiên Chúa sẽ ban Thần Khí như một dòng sông lênh láng đem lại sức sống phong phú vô tận cho con người :
- "Người ấy (là thiên thần) dẫn tôi trở lại phía cửa Đền Thờ, và này: có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông… Nước từ phía dưới bên phải Đền Thờ chảy xuống phía nam bàn thờ.
Rồi người ấy dẫn tôi đi qua nước: nước ngập đến mắt cá chân"… (cứ càng đi thêm nữa thì) nước ngập đến đầu gối… đến ngang lưng …và thành một con sông, tôi không thể đi qua mà chỉ bơi mới được thôi." (Ed 47.1-5)
- "Người ấy bảo tôi: "Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng A-ra-ba, rồi đổ ra biển Chết và làm cho nước biển hóa lành. Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống.
Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống. Sẽ có nhiều ngư phủ sinh sống ở trên bờ. Từ Ên-Ghe-đi cho tới Ên Éc-la-gim sẽ toàn là bãi phơi lưới. Cá ở đây cũng nhiều và đủ loại như cá ở Biển Lớn." (Ed 47.8-10)
- "Nhưng đầm lầy của nó sẽ không hóa ra lành mà chỉ dùng để lấy muối. Trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết: mỗi tháng các cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ thánh điện. Trái dùng làm lương thực còn lá để làm thuốc." (Ed 47.11-12).
Dòng nước êm đềm, thơ mộng, âm thầm ấy lại có sức mạnh vô cùng, chuyển sự sống lên từng ngọn lá xanh non, những loài hoa nở nụ cười tròn xoe trong nắng, rồi ra quả chín mọng mỗi tháng một lần làm dịu cơn đói khát ; còn lá chữa lành những tật bệnh cho loài người …; trong nước loài cá sinh sống vui vẻ, thong dong cùng với các loài sinh vật khác…
“Dòng nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ” rồi dần dần trở thành một con sông, báo trước Máu và Nước vọt ra từ cạnh sườn Đức Giêsu bị đâm thâu trên Thập giá (Ga 19.34), làm Nguồn Mạch Sự Sống thần linh cho nhân loại !
Cuối cùng, Tin Mừng Gioan cho biết tất cả những biểu tượng hình bóng báo trước ấy về Thần khí, sẽ thành hiện thực lúc Chúa Giêsu được tôn vinh :
“Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng; : “Ai khát, hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống ! Như Thánh kinh đã nói : Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước nguồn sống.” Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, Thần Khí sẽ được ban khi Đức Giê-su được tôn vinh.” (Ga 7.37-39)
@@@@@_BÀI 86_@@@@@
Tiểu đoạn 2
"KẺ ĂN TÔI, CŨNG SẼ SỐNG NHỜ TÔI NHƯ VẬY." (6.57b)
Trước khi đi tiếp, ta hãy ôn lại Tiểu đoạn 1 :
Đức Giêsu tuyên bố : Như Tôi sống nhờ Chúa Cha, vốn là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Thần Khí (Ga 4.24), cho nên khi Người nói Người sống nhờ Chúa Cha thì chẳng khác gì nói sống nhờ Thần Khí. Quả thế, qua những câu Thánh Kinh đã trưng dẫn trên đây, thuật sơ lược đời sống của Đức Giêsu, ta được biết rằng : khởi sự từ khi đầu thai trong lòng Mẹ là Đức Maria, bắt đầu cuộc sống phàm nhân, cho tới khi chịu Tử Nạn và được Phục Sinh, Đức Giêsu đều sống nhờ Thần Khí.
Mà Thần Khí, qua bằng chứng Thánh Kinh (tr.426t), là Thực tại cánh-chung tuyệt đối, là Thần tính, Thánh thiện, Khôn ngoan, Vinh quang, Sức mạnh, Sự Sống…, tóm gọn vào một chữ : là Sức Sống của Thiên Chúa, cho nên khi nói : sống nhờ Thần Khí phải hiểu là sống nhờ Sức Sống của Thiên Chúa vậy.
*
- Đến đây, Đức Giêsu nói tiếp :
"Kẻ ăn Tôi cũng sẽ sống nhờ Tôi như vậy" (Ga 6.57b).
Chúa Giêsu nói : "Kẻ ăn Tôi…", Người không cần nói : "ăn Thịt uống Máu Tôi" nữa, mà nói gọn trong một chữ "ăn Tôi", để cho thấy là ăn Thịt uống Máu Chúa Giêsu cũng là ăn uống hay Rước lấy chính Chúa Giêsu phục sinh vinh hiển, toàn vẹn cả thần tính lẫn nhân tính đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha trên trời vậy !
Chúng ta thường lên Rước Lễ một cách ơ thờ, theo thói quen, nếu hỏi thì cũng nói là lên Rước Chúa, nhưng là một vị Chúa mơ hồ, xa xôi… Không ! Hôm nay được học biết đó là ta Rước lấy Chúa Giêsu sống động, oai nghi vinh hiển đang ngự bên hữu Chúa Cha trên trời.
Xin nhắm mắt lại, dùng trí tưởng tượng mà hình dung xem Chúa đang ở trên trời và vinh hiển dường nào… Rồi cũng hãy đọc Khải huyền chương 4+5 : để thấy toàn thể mọi loài trên trời dưới đất chúc tụng tôn vinh Người đến thế nào... Chính vị đó mà chúng ta Rước lấy mỗi ngày, ẩn mình dưới hình bánh ! Hạnh phúc chưa !
Tiếp theo câu “Kẻ ăn tôi”, Chúa nói : “thì cũng sẽ sống nhờ Tôi như vậy” tức là sống nhờ Thần khí Thiên Chúa từ lòng Tôi - sau khi sống lại và được tôn vinh - tuôn trào ra :
“Ai khát, hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống ! Như Thánh kinh đã nói : Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước nguồn sống.” (Ý) Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, Thần Khí sẽ được ban khi Đức Giê-su được tôn vinh.” (Ga 7.38-39)
- Việc ban đích thân Thần khí đã xảy ra cách long trọng và hữu hình ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2.1-11), Th. Phêrô làm chứng:
"Chính Đức Giê-su đó, (sau khi chịu chết), Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi (là các Tông đồ) xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên (tôn vinh Người), trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe" (Cv 2.32-33).
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu được Chúa Cha trao ban cho tràn đầy Thánh Thần/Thần Khí, để tuôn đổ xuống cho Hội Thánh, cho loài người và toàn thể vũ trụ, cho họ được sống nhờ Thần khí là Sức sống của Thiên Chúa.
*
Ngày nay, việc tuôn đổ Thần Khí ấy xảy ra ở đâu ?
Chúa Giêsu tuôn đổ bằng nhiều cách, ngày nay Chúa ban cách riêng qua các Bí tích, nhất là qua Bí tích Thánh Thể! Vậy có thể nói rằng : khi ta rước Chúa, ăn uống Thịt Máu Chúa, ta rút lấy từ Thịt Máu Chúa Thần Khí là Sức Sống của Thiên Chúa.
Việc này dễ hiểu, cũng như ta ăn uống thực phẩm thì rút được từ các thực phẩm ấy chất nuôi sống thân thể mình, thì khi “Ăn uống Thịt Máu Chúa Giêsu” cũng vậy, ta rút từ Thịt Máu Chúa Thần khí – là Sức Sống của Thiên Chúa – mà nuôi hồn mình. Như vậy đã thể hiện lời Chúa Giêsu hứa : “Ai ăn Tôi cũng sống nhờ Tôi !”
Như có lần đã nói, Chúa Giêsu cũng ban Thần khí là Sức Sống thần linh ấy cho ai tin và cầu xin, khổ nỗi ta không biết lòng tin của ta đã mạnh đủ chưa, và không biết lời cầu xin của ta đã thành khẩn chưa mà chắc lãnh được Sức Sống ấy ? Chẳng ai đo được mình đã tin bao nhiêu… và cầu xin thành tâm đến mức nào ? Còn khi “ăn Chúa”, Rước Mình Thánh Chúa, là việc cụ thể, xác thực không chút mơ hồ, thì ta cầm chắc lãnh được Thần khí-Sức Sống đang có trong Thân Mình vinh hiển của Chúa Giêsu tuôn trào sang cho mình.
Kết luận : Thế là lời Chúa Giêsu phán hứa ở Gioan 6.57: “Như… Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ sống nhờ Tôi tức là sống nhờ Thần khí của Tôi như vậy” nay đã được thực hiện. Dầu vậy, tới đây, chỉ nói sống nhờ Thần khí cách chung chung, sau này (tr.451tt) sẽ đi vào chi tiết để thấy Thần Khí phát huy sự sống và hoạt động nơi chúng ta rộng rãi, mạnh mẽ, lớn lao như thế nào, qua ơn Thánh hóa, qua các đặc sủng, các ơn huệ, và trổ sinh các hoa trái tuyệt vời làm sao.
***
- Tại sao loài người cần lãnh nhận Sức Sống Thiên Chúa từ Chúa Giêsu ?
Xin trả lời : Thiên Chúa biết loài người với bản tính mỏng dòn yếu đuối, lại còn bị di lụy của tội tổ tông, dễ nghiêng chiều về sự xấu, nên khó chống đỡ những cơn cám dỗ và những thử thách cam go trong cuộc đời. Ai trong chúng ta lại chẳng có kinh nghiệm về chuyện ấy : bao lần bị cám dỗ… thì hầu như bấy nhiêu lần sa ngã ! Cũng có đọc Kinh Lạy Cha đấy, trong đó có lời xin : “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ !” nhưng đọc chỉ là đọc theo thói quen, thuộc lòng, không thành tâm khẩn cầu với tất cả “con tim”, do đó chẳng nên cơm cháo gì… Biết thế cho nên Thiên Chúa làm cho Chúa Giêsu trở nên Bánh Hằng Sống để ban Thần Khí không những là Sức Sống mà còn là Quyền Năng của Thiên Chúa [11] cho chúng ta, mỗi khi chúng ta thành tâm và sốt sắng lên rước Mình Máu Thánh Chúa, ngõ hầu chúng ta có thêm sức mạnh mà đứng vững, sống còn và đắc thắng trong cuộc chiến đấu với thế gian, xác thịt và ma quỉ :
"Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em giết chết những hành vi của thân xác (tội lỗi), thì anh em sẽ được sống." (Rm 8.13)
Không những được sống phần hồn, mà cả phần xác nữa:
- "Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em ..., thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ làm cho thân xác phải chết của anh em được sống, (nhờ ai?) nhờ Thần Khí của Người đang ngự trong anh em." (Rm 8.11)
Chưa hết, giống như thân cây nho chuyển nhựa sống cho cành nho, nhờ đó cành nho phát triển và sinh ra những chùm nho ngon ngọt, bổ dưỡng, thì Chúa Giêsu cũng “chuyển Thần Khí Sức Sống Thiên Chúa” cho ta, khi ta Rước Lễ, để ta sinh hoa kết trái, tức là các việc lành phúc đức và, theo Tin Mừng Gioan, các thành quả của việc tông đồ :
"Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa quả, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy… Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa quả, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được." (Ga 15.4-5)
SUY NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN
Rước Lễ là cách tuyệt hảo và cụ thể nhất để lãnh được Thần Khí Sức Sống của Thiên Chúa vào trong ta mà sống, hoạt động và sinh nhiều hoa trái, như Chúa Giêsu đã nói, thế mà chúng ta đã Rước Lễ hàng ngàn vạn lần kể từ lần Rước Lễ vỡ lòng cho đến bây giờ, mà đời ta đã trổ sinh được nhiều hoa thơm trái ngọt cho Chúa chưa ? Hay hầu hết từ nhỏ đến từng này tuổi, đời ta chỉ trổ sinh ra những tội lỗi, tràn đầy tính mê nết xấu, làm buồn cho Chúa cũng như đau khổ cho người thân ? Phải chăng Chúa cũng than phiền về ta, như đã than phiền về dân Israen trong đoạn tiên tri Isaia này :
"Tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ.
đã ra tay cuốc đất nhặt đá, đem trồng giống nho quý,
giữa vườn lại xây một tháp canh,
rồi khoét bồn đạp nho.
Tôi những mong nó sinh trái ngon ngọt,
thế mà nó lại sinh nho dại chua lè.
Chẳng có gì làm được cho vườn nho của Tôi,
mà Tôi đã chẳng làm ?
Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại ?" (Is 5.1-4)
Lạy Chúa Giêsu, từ nhỏ tới nay, vì không được học hiểu về mầu nhiệm Mình Máu thánh Chúa cho kỹ càng, nên chúng con đã Rước Lễ cách thờ ơ chiếu lệ, do đó chúng con không sống xứng đáng là Kitô hữu, không sống đúng địa vị con cái Chúa Cha, chẳng sinh ra hoa thơm trái ngọt như lòng Chúa mong ước. Xin Chúa thứ tha, chúng con xin thật tâm hối cải.
Vậy từ nay một khi đã được học hỏi cẩn thận, chúng con sẽ Rước Lễ cách ý thức và sốt sắng hơn. Và nhất là sau khi Rước Chúa, chúng con sẽ ở lại với Chúa, để tạ ơn, để dâng thời gian cho Chúa thanh tẩy tội lỗi và chữa lành các tính mê nết xấu của chúng con.
Hơn nữa, nhờ Thần Khí Sức Sống của Chúa như nhựa sống, chúng con sẽ trổ sinh hoa thơm trái ngọt, việc lành và nhân đức làm chứng cho Nước Trời. Amen.
@@@@@_BÀI 87_@@@@@
Những lời báo trước về việc ban Thần Khí Sức Sống
Khi ban một ơn huệ trọng đại như thế, không thể nào làm đột ngột được, vì loài người sẽ không hiểu và sẽ không đánh giá đúng mức giá trị của ơn huệ ấy. Bởi vậy, Chúa phải dùng nhiều cách để mô tả và loan báo trước :
- Báo trước : Thiên Chúa báo trước cho ta việc ban Thần Khí Sức Sống của Thiên Chúa, bằng cách sử dụng hình ảnh Dòng Nước mà tiên tri Êdêkien chương 47 mô tả (mời xem lại tr.430tt), với nét độc đáo là dòng nước ấy chảy ra từ bên hông đền thờ.
Nhưng là đền thờ nào ?
Ngôn sứ chỉ nói đền thờ, và người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ Giêrusalem. Nhưng vì ngôn sứ cũng là một vị tiên tri, nên ông báo trước về một Đền Thờ lạ lùng sau này : Đền Thờ ấy ứng nghiệm vào Thân Mình Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã công bố một cách kín đáo về điều đó, khi Người trả lời cho người Do Thái:
"Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, Tôi sẽ xây dựng lại."
Người Do Thái (tưởng là Người ám chỉ đền thờ gỗ đá Giêrusalem, nên họ) mới nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong (được đến đây), thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính Thân Thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Thánh Kinh và lời Đức Giêsu đã nói." (Ga 2.18-22)
- Ở đoạn Tin Mừng nói trên, tuy Chúa Giêsu nhận mình là Đền thờ, song vẫn chưa nói Nước Nguồn Sống là Thần Khí từ Đền Thờ - Thân Mình Người chảy ra. Mãi cho đến một hôm, Chúa Giêsu lên dự Lễ Lều ở Thánh Đô Giêrusalem, thấy giáo sĩ và dân chúng Do Thái đi kiệu rước nước cầu mưa từ suối Si-lô-am lên Đền thờ, nhân dịp ấy Người mới loan báo cho biết điều đó :
"37-38 Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giêsu đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng:
"Ai khát, hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống! Như Thánh Kinh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước nguồn sống."
39 "Điều ấy Đức Giêsu nói về Thần Khí mà các kẻ tin vào Người sẽ lãnh lấy, vì (bấy giờ) Thần Khí chưa có, bởi Đức Giêsu chưa được tôn vinh." (Ga 7.37-39)
-----------------------
** Vấn đề bản văn : C.39 trích dẫn trên đây sử dụng bản dịch của cha Giuse N.T.Thuấn : "vì Thần Khí chưa có, bởi Đức Yêsu chưa được tôn vinh", như thế là dịch sát bản gốc tiếng Hy-lạp. Nhưng vài người ký lục thời xưa và một vài dịch giả thời nay, sợ độc giả hiểu lầm là Thần Khí chưa hiện hữu, cho nên khi sao chép hay dịch thuật đã sửa đổi thành: "bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh", hay “Thần Khí chưa được trao ban, vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh”, hay “Thần Khí sẽ được ban khi Đức Giêsu được tôn vinh.”
--------------------------------
Khi nghe câu giải thích ấy của Thánh Gioan : “vì (bấy giờ) Thần Khí chưa có…” (Ga 7.39), trong chúng ta có người có thể thắc mắc:
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa thật mà sao lại bảo là chưa có Thần Khí ?
Nhân dịp này, ta tạm dừng lại một chút để cắt nghĩa :
Cuộc đời Đức Giêsu chia ra 2 giai đoạn :
Giai đoạn 1, Nhập thể và mang tội lỗi loài người ;
Giai đoạn 2, Phục sinh và ban Thần khí Nguồn Sự sống.
(Nhớ lại Ba Vòng tròn trên kia tr.312tt)
Giai đoạn 1 : Vẫn biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thụ thai bởi phép Thánh Thần, và Thiên Chúa đã cho Thần Khí lấy hình dáng chim bồ câu đỗ xuống và lưu lại trên Người, lúc Người chịu phép Rửa của Gioan Tẩy Giả ở sông Gióc-đan (Mc 1.9-11 ; Ga 1.32-33), và Thiên Chúa đã ban cho Người Thần Khí vô ngần vô hạn (Ga 3.34), tuy nhiên vẫn phải nói là Chúa Giêsu chưa có Thần Khí, vì sao ?
1) Vì lúc ấy đang mặc xác người phàm, coi như Người đã từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, trút bỏ hết mọi vinh quang của một vị Thiên Chúa, cam chịu thân phận tôi đòi, như thánh Thư Philíphê viết :
“Đức Giê-su Ki-tô bản thân vốn là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hủy mình ra không,
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế…” (2.6-7)
2) Người còn mang lấy tội lỗi của loài người vào thân mình, như Thư Thánh Phêrô xác quyết:
- "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên (đóng đinh trên) cây thập giá…. Nhờ Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành." (1 Pr 2.24)
Thánh Phaolô còn nói mạnh mẽ hơn:
- "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành (hiện thân của) tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người." (2 Cr 5.21).
3) Trong tình trạng mang trong mình đầy dẫy tội lỗi nhân loại như vậy, cho dù cá nhân Người không hề phạm tội nào (Ga 8.46; 1 Pr 2.22), thì trước Nhan Thiên Chúa Chí Thánh, Người vẫn bị coi như kẻ tội lỗi, xa cách Thiên Chúa đến mức Thánh Phaolô dám nói:
- "Vì chúng ta, chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ!" (Gl 3.13).
Và cũng vì vậy mà khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, tai nghe những lời kẻ nghịch thóa mạ và thách thức: "Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền ! Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn ! Vì hắn đã nói :‘Ta là Con Thiên Chúa !’” (Mt 27.42-43), thì dường như Người cảm thấy mình bị Thiên Chúa Cha ruồng bỏ không đến cứu giúp, cho nên Người đã kêu than lên Cha trong giây phút cực kỳ đau thương đó :
- “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15.34)
Từ những điều nói trên, ta thấy rằng : Vốn dĩ là Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa Giêsu kết hợp với Chúa Cha (Ngôi Nhất) và Chúa Thánh Thần (Ngôi Ba) một cách bản thể đến nỗi đồng một bản thể : “Tôi và Chúa Cha (và Chúa Thánh Thần) là một” (Ga 10.30) mà thuật ngữ thần học gọi là “Tam vị nhất thể”. Nhưng cũng đừng quên rằng Chúa Giêsu của chúng ta đã xuống thế làm người, và đang ở trong tình trạng thảm thương mô tả trên đây, thì phải nói là Người chưa có Thần Khí, theo nghĩa chưa có tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa để ban ra cho nhân loại, tuy vẫn phải nói rằng : Người đã có Thần Khí nơi mình, nhưng là có cho riêng Người để chu toàn sứ vụ Thiên Sai. Hiểu được như thế, sẽ chẳng thấy có gì là mâu thuẫn giữa một đàng biết Người đã có Thần khí, và đàng khác lại nói Người chưa có Thần khí.
[1] Mạn phép đổi thứ tự các câu Thánh kinh trên đây, để làm nổi bật các ý chính.
[2] Về vấn đề chữa lành hay biến đổi, thì ở trên kia tr.298tt, chúng ta bàn về tác động biến đổi của Mình Máu Thánh Chúa, còn ở đây, chúng ta đề cập đến cách thức và thái độ của chúng ta đón nhận tác động chữa lành và biến đổi ấy thế nào.
[3] Mời đọc lại tr.102tt những điều đã nói hết sức rõ ràng về đạo lý được mang bản tính Thiên Chúa trong mình ta. Điều này khiến các Giáo Phụ dám nói rất bạo : "Thiên Chúa làm người để người được trở nên Thiên Chúa" (“Dieu fait homme pourque l’homme devienne Dieu”)
[4] Đây không bàn đến vấn đề lớn lao Hiệp Nhất giữa các Giáo Hội hay các Giáo phái ly khai, thường gọi là vấn đề Đại Kết.
[5] Đáng buồn là nhiều linh mục ngày nay, vì quá lo cho nhóm con chiên tốt lành trong giáo xứ, mà bỏ lơ việc đi tìm con chiên lạc, nhất là hiện nay chiên lạc không chỉ có một con như trong Tin Mừng nói (Mt 18-12), song có khi còn nhiều hơn chiên tốt lành gấp mấy chục lần. Chưa kể còn có những chiên không thuộc ràn này (Ga 10.16) cần phải đưa về để chỉ có một đàn chiên và một người chăn chiên.
Cũng phải công nhận nhiều giáo xứ ở VN bây giờ quá đông giáo hữu, có khi tới 3000-5000 và hơn nữa, thì công việc mục vụ quả là quá tải, các linh mục coi xứ không còn hơi sức lo việc nào nữa. Trong trường hợp này, các linh mục nên lo đào tạo cho có những nhóm giáo dân làm tông đồ truyền giáo thay thế cho mình.
[6] Sau khi được khỏi bệnh cách lạ lùng kể trên, cha Tardif đã đi dự mấy khóa Canh Tân Đặc sủng, và từ đó cha được Thiên Chúa ban cho đặc sủng chữa lành, và cha đã đi đến rất nhiều quốc gia trên thế giới, vừa rao giảng vừa chữa lành. Dân chúng đến nghe giảng và xin ơn chữa lành có khi đông tới sáu bảy chục ngàn người, đến nỗi có lần phải tổ chức buổi họp tại sân vận động.
[7] Xin nhớ đây là lời “cầu nguyện giải thoát” (prayer of deliverance), chứ giáo dân không được phép làm việc trừ quỉ chính thức (exorcism) nếu không được Đức Giám mục sở tại chỉ định.
[8] Xác quyết trên đây dựa theo ý kiến các nhà chú giải Công giáo như F.M.Braun, R.E.Brown, TOB, Y.Thuấn, và cách riêng nhà chú giải Tin Lành tên tuổi, ông C.H. Dodd. Mời xem chú giải câu này trong cuốn ĐỌC TIN MỪNG THEO YOAN, Tập II, tr.334tt
[9] Vì Chúa Thánh Thần (Spiritus) có đặc tính là thông ban Sự sống (động từ Latinh : spirare = hà hơi thở, mà hơi thở là sự sống, hết thở là hết sống) nên người ta dùng từ “Thần Khí” mà gọi Ngài một cách thích hợp, cũng như gọi Chúa Cha một cách thích hợp là Đấng Tạo thành ; và gọi Chúa Con là Đấng Cứu chuộc vậy.
[10] Lịch sử bất trung bất tín, vô ơn bội nghĩa của dân này sẽ như một điển hình, một gương mẫu, sẽ được diễn đi diễn lại trong lịch sử loài người…
[11] Tv 104.29t; 139.7; Lc 1.35; 24.49; Ga 6.63; Cv 1.8 v.v… muốn biết sâu rộng hơn, mời đọc quyển ĐỨC YÊSU PHỤC SINH, 2 Tập, do HMTuấn phóng tác, Tập I từ trang 171tt.