MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ *** BÀI III: THẦN LƯƠNG KỲ DIỆU *** PHẦN III: BÀI 88-101 *** Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR
07 Tháng Sáu 2021
MẶC KHẢI VỀ THÁNH THỂ
BÀI III: THẦN LƯƠNG KỲ DIỆU
PHẦN III: BÀI 88-101
@@@@@_BÀI 88_@@@@@
- Khi nào Chúa Giêsu có Thần Khí để ban ra cho nhân loại ?
Thưa : Khi đến Giai đoạn 2. Mà theo Tin Mừng Thánh Gioan, đó là khi Người ra đi :
“Thầy nói thật với anh em : Thầy ra đi (chịu chết) thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ (= Thần Khí) sẽ không đến với anh em ; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Ga 16.7)
Sự ra đi này đâu phải là một chuyến du lịch thưởng ngoạn, song là cả một chén mật đắng khôn tả, là nhận lấy cái hôn bội phản của Giu-đa, là nhuốc nha, bêu rếu, là đòn vọt, là một bản án tử hình nặng nề, là khổ hình vác thập giá cho dài thêm nỗi sỉ nhục, là đinh đóng vào xương thịt với muôn vàn đau đớn… Sự ra đi cay đắng, thống khổ đến nỗi Người đã phải lo buồn bồi hồi hấp hối đổ mồ hôi máu ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Người phải ra đi thôi, không còn cách nào khác, vì chỉ duy nhất Con Một Thiên Chúa mặc xác làm người mới có năng lực siêu phàm gánh vác tội lỗi nặng nề của toàn thể nhân loại vào mình, hiến thân chịu chết để giải thoát loài người khỏi cái chết đời đời trong biển lửa, và để ban Thần Khí Nguồn Sự Sống, và là Đấng Phù Trợ cho họ.
Tóm lại, chỉ khi Đức Giêsu đã vâng lời Chúa Cha uống cạn chén đắng, ra đi chịu chết trên thập giá, để diệt trừ tội lỗi: vâng phục đến chết như thế là vâng phục tuyệt đối không còn thể nào vâng phục hơn được nữa, vì thế Chúa Cha hết mực hài lòng, nên đã cho Người sống lại, siêu tôn Người (Pl 2.6-11), làm cho "ở nơi Người, ngay thân thể Người, hiện diện tất cả sự viên mãn của Thần Tính…" (Cl 2.9), bởi đó Người đã trở nên thập toàn, và thành nguồn cứu độ cho nhân loại (Dt 2.10 ; 5.8-9).
‘Sự viên mãn của Thần Tính’ nói lên sự toàn vẹn Tính Thiên Chúa có ở nơi Chúa Giêsu, tức là Người được trở thành hoàn toàn như Thiên Chúa, Người có tất cả những gì Thiên Chúa có : Thần Khí, Sự Sống, Thánh Thiện, Vinh Quang, Quyền Năng, v.v… Những gì thuộc về Thiên Chúa bây giờ cũng trở thành sở hữu của Người:
"Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy." (Ga 16.15)
Và phải biết rằng : Người có tất cả những sự ấy ngay trong thân thể phục sinh của Người.
Chính vì Chúa Giêsu được có ngay nơi thân thể Người sung mãn Thần Tính, tràn đầy Thần Khí là sự Thánh Thiện, Quyền năng, Vinh quang, Sức Sống, v.v…, cho nên từ lúc đó, mới nói được rằng Người “có” Thần Khí đầy tràn trong Người và có thể ban Thần Khí cuồn cuộn chảy ra như những dòng sông tràn ngập cả nhân loại (Ga 7.38-39). Hay nói một cách khác, lúc đó Chúa Giêsu ban Thần Khí Sự Thật và Sự Sống (và cũng là Đấng Phù Trợ) cho mọi người một cách phong phú mạnh mẽ, lúc thì như dòng sông nước mênh mông, bao la (x. Ed 47.1-12), lúc thì mãnh liệt như cuồng phong, lúc thì rực sáng hình lưỡi lửa (Cv 2.1-4) (xem hình), và ban cho tất cả mọi tín hữu được Ơn Thứ Tha, Ơn Cứu Độ, Sự Sống Mới như lời Người đã long trọng phán hứa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin ngàn vạn lần đội ơn Chúa, trọn cuộc đời chúng con khấu đầu tạ ơn Chúa và hát lên :
“Biết lấy gì cảm mến, biết lấy chi báo đền hồng ân Chúa cao vời Chúa đã làm cho con.”
Chỉ vì ích lợi cho chúng con, chỉ vì yêu chúng con mà Chúa đành phải ra đi, chịu biết bao đau đớn, khổ nhục từ tâm trí đến thân xác và ngay cả cái chết nữa để có thể ban Thần Khí cho chúng con.
Ôi, giờ đây chúng con mới hiểu được Thần Khí Chúa thật là quan trọng và quí giá đến như thế nào, vì đó chính là Sức Sống của Thiên Chúa ! Khi Chúa Thánh Thần ngự xuống thì có Ngài là ta có tất cả mọi sự. Chẳng phải Kinh Thánh đã nói : Thần khí Thiên Chúa đổi mới tất cả mặt địa cầu sao ? Khi Ngài ngự xuống thì mọi sự đều được biến đổi.
Vì thế, chúng con xin dâng lên Chúa Thánh Thần lời nguyện xin tha thiết :
Lạy Chúa Thánh Thần, Ngài là sức mạnh như cuồng phong, là rực sáng như hình lưỡi lửa, xin Ngài ngự đến trên chúng con, ban cho chúng con can đảm như các Tông đồ, không e dè ngần ngại dấn bước ra đi trên mọi nẻo đường trần thế loan báo Tin Mừng Chúa Cứu độ.
Ngài là dòng sông sự sống bắt nguồn từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ là Thân Thể phục sinh của Chúa Kitô, xin hãy đem đến cho chúng con Sức Sống mới của Thiên Chúa.
Ngài là dòng nước thanh sạch, thánh thiêng, xin tẩy rửa chúng con khỏi mọi ô uế và tà thần, ngẫu tượng.
Xin thổi vào hồn chúng con Thần Khí Mới giúp chúng con hồi sinh những cuộc đời cũ nát đầy những đam mê tội lỗi theo tính xác thịt.
Xin đổi trái tim bằng đá cứng cỏi chúng con thành trái tim bằng thịt mềm mại thật sự, một tấm lòng tinh khiết và tràn đầy tình yêu thương thay thế cho trái tim chai đá của hận thù, bội bạc, vô tín, tị hiềm…
Và xin cho ngọn lửa linh thiêng của Ngài nhóm lên tình yêu nồng nàn trong những trái tim mùa đông lạnh lẽo của chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến trong trái tim chúng con mãi mãi. Xin ngự xuống trên chúng con, ban cho chúng con được bình an ấp ủ trong đôi cánh bồ câu thần thánh của Ngài. Amen.
@@@@@_BÀI 89_@@@@@
- Lúc thực hiện việc ban Thần khí :
Sau khi báo trước, rồi loan báo ở Đền Thờ Giêrusalem ngày lễ Lều, nay đã đến thời điểm Chúa Giêsu thực hiện lời hứa là ban Thánh Thần /Thần Khí Sức Sống. Nhưng bởi vì Thần Khí là Đấng Linh Thiêng vô hình, nên việc ban Ngài xuống phải sử dụng những dấu chỉ, hình ảnh hay biểu tượng hữu hình cụ thể bên ngoài thấy được để biểu lộ :
- Ban qua biểu tượng :
Biểu tượng 1 : “Trao ban Thần Khí lúc sinh thì.”
"Khi đã nếm giấm rồi, Đức Giêsu nói : 'Đã hoàn tất'. Đoạn gục đầu xuống, Người phó thác Thần Khí" (Ga 19.30).
Thay vì nói cách thông thường như các Tin Mừng Nhất Lãm : Đức Giêsu ‘tắt thở’, ‘trút linh hồn’, duy mình Thánh Gioan đặc biệt lại viết một câu hết sức độc đáo : “Người phó thác Thần Khí”! Qua lời đó vị Thánh sử muốn cho hiểu là chính lúc Đức Giêsu kết thúc cuộc hiến tế hy sinh, Chúa Cha chấp nhận Của Lễ Thân Mình Người, nên Cha tôn vinh Người ngay tức khắc và ban cho Người được tràn đầy Thần Khí ; thế là qua “hơi thở thần thánh” của Người trút ra, Người trao ban Thần Khí cho Hội thánh, cho các tín hữu.
Biểu tượng 2 : "Trào Máu và Nước"
"Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, Máu cùng Nước chảy ra." (Ga 19.32-34).
Việc Máu và Nước chảy ra đó thật là sự kiện rất hệ trọng cho đức tin, đến nỗi vị Thánh Sử phải nhấn mạnh, và còn xác quyết rằng ông đã xem thấy, cho nên ông có thể làm chứng :
"Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin." (Ga 19.35)
Thật vậy, Nước là biểu tượng về Thần Khí được nói đến qua các đoạn tiên tri kể trên kia, cùng với Máu biểu tượng về các Bí tích, tuôn ra từ Trái Tim Chúa Giêsu như thác nguồn thương xót ban Ơn Tha Thứ, Ơn Cứu Độ vào lúc người lính vô cảm, vô tình không một chút xót xa, nhẫn tâm lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn Người.
** (Nhớ 2 luồng ánh sáng đỏ và xanh nhạt nơi Ảnh lòng Chúa Thương xót của Nữ thánh Faustina)Ban qua dấu chỉ : - Dấu chỉ “Thổi hơi”
Trải qua những ngày khổ hình Tử Nạn, là đến ngày Phục Sinh vinh hiển rực rỡ, và chính vào buổi chiều ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu phục sinh từ trong vinh quang Chúa Cha, đã đến đứng giữa các ông, và "Nói với các ông :
"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20.21-23)
Ý tưởng sâu xa của việc ‘thổi hơi’ ban Thánh Thần này sẽ được sáng tỏ, khi chúng ta nhớ đến việc Thiên Chúa ‘thổi hơi’ ban sinh khí cho ông Ađam ở sách Sáng Thế 2.7: ở đó là một động tác ban sự sống tự nhiên cho con người trong cuộc tạo dựng thứ nhất : “Con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật” (1 Cr 15.45a). Nhưng cuộc tạo dựng thừ nhất ấy đã bị đổ vỡ vì tội. Đến thời gian sau Tử nạn và Phục sinh này, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng dùng lại động tác "thổi hơi" ấy, làm dấu chỉ ban Thánh Thần Sức Sống Thần Linh siêu nhiên cho nhân loại đã chết vì tội lỗi trong cuộc tạo dựng thứ hai : “Còn Ađam cuối cùng là Thần khí ban sự sống” (1 Cr 15.45b), ngõ hầu tái tạo họ khỏi sự chết mà được Sự Sống Đời Đời.
- Dấu chỉ Cuồng phong và Lưỡi Lửa :
Việc “thổi hơi” ban Thánh Thần vẫn còn có vẻ thần học trừu tượng, chưa cụ thể, mà loài người thì cần những hành động cụ thể bên ngoài thấy được, nghe được, chạm đến được. Biết loài người phàm hèn, yếu đuối, không quen sống với các sự vô hình, khó tin vào những gì mình không thấy, nên Chúa Giêsu sẽ cho các Tông Đồ chứng kiến rõ ràng việc đổ tràn Thánh Thần cách mãnh liệt như cuồng phong, và nóng nảy như những lưỡi lửa từ trời đỗ xuống trên từng người, để một khi đã “tai nghe, mắt thấy” những sự ấy, các ông tin tưởng vững vàng mà mạnh mẽ rao giảng, làm chứng cho Chúa trên bước đường loan báo Tin Mừng về sau này trong suốt cuộc đời của mình : "Phần chúng Tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng Tôi không thể không nói ra." (Cv 4.20)
Để chuẩn bị cho nhân loại đón nhận ơn ban Thần khí vô cùng trọng đại, Thiên Chúa đã phải để bao thời gian và nhờ các ngôn sứ dùng bao hình bóng mà báo trước, thì giờ đây gần đến lúc thực hiện cách uy linh lẫy lừng chính việc ban vĩ đại ấy lẽ nào Chúa Giêsu lại không căn dặn các Tông đồ của mình chuẩn bị chu đáo tâm hồn mình ?
"Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần" (= được dìm vào chìm ngập trong Chúa Thánh Thần) (Cv 1.4)
Trong sách Công vụ chỉ thấy Chúa Giêsu nói "ở lại Giêrusalem mà chờ đợi", không thấy bảo phải cầu nguyện, Nhưng các Tông đồ đã hiểu ý Chúa, để đón nhận một ơn trọng đại như vậy, không thể nào chỉ ngồi chờ đợi suông, giết thời giờ bằng chuyện gẫu hay tiêu khiển giải trí…, nhưng “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.” (Cv 1.14)
Quang cảnh ấy là một bài học cho chúng ta: Muốn lãnh được đại ơn Thánh Thần, cần siêng năng, sốt sắng cầu nguyện liên lỉ và bền chí. Nhất là xin Đức Mẹ đến bên ta như xưa đã ở bên các Tông đồ để cùng cầu nguyện và cầu bầu cho ta trước tòa Chúa. Ngày nay hình như chúng ta đã lơ là, và các linh mục cũng ít nhắc nhở việc cầu nguyện dọn mình quan trọng ấy, chẳng trách được tại sao Chúa Thánh Thần không tác động mãnh liệt trong thời đại ta, cũng như nơi bản thân ta như thời xưa ấy !? “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó …; Người lấy làm lạ vì họ không tin.” (Mc 6.5-6)
Vậy sau khi các Tông đồ đã ở lại Giêrusalem và chuyên cần cầu nguyện thì:
"Đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một."
"Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho." (Cv 2.1-4).
***
Toát yếu những điều bàn giải ở trên, chúng ta có thể kết luận: Bất cứ ai lấy lòng tin tưởng, yêu mến, khiêm nhường mà "ăn Chúa" tức là ăn Bánh Hằng Sống Giêsu khi Rước Lễ, thì cũng như Chúa Giêsu đã sống nhờ Chúa Cha, tức là nhờ Thần Khí là Sức sống của Chúa Cha thế nào, thì người Rước Lễ cũng sẽ được sống nhờ Chúa Giêsu, tức là nhờ Thần Khí là Sức Sống Thiên Chúa có sẵn trong Mình Máu Thánh của Chúa Giêsu như vậy.
"Ai ăn Tôi", (ăn Bánh Hằng Sống Giêsu), thì "sẽ được sống nhờ Tôi (tức nhờ Thần Khí là Sức Sống của Thiên Chúa có nơi Tôi), nhưng chúng ta mới chỉ nghe nói lãnh được Thần Khí là Sức Sống của Thiên Chúa một cách chung chung. Nay chúng ta muốn đi vào chi tiết cụ thể hơn, để xem :
@@@@@_BÀI 90_@@@@@
THẦN KHÍ CỦA CHÚA THÔNG CHIA CỤ THỂ NHỮNG GÌ CHO ĐỜI SỐNG TA VÀ HOẠT ĐỘNG THẾ NÀO TRONG TA ?
Xin trả lời : Khi chúng ta tin và lãnh ba Bí tích nhập đạo (là Thánh Tẩy, Thêm sức, Thánh Thể), thì ngoài Ân sủng chính yếu – mà giáo lý và thần học gọi là ơn Thánh Sủng hay ơn Thánh Hóa – để ban Sự Sống Thiên Chúa cho ta, và tái sinh chúng ta làm con cái Thiên Chúa (Ga 3.3,5; 1 Cr 6.11; 1 Tm 3.5), Thần Khí còn thông chia cho loài người :
A - những đặc sủng,
B - những ân huệ,
C - và trổ sinh những hoa quả của Ngài.
Quả thật loài người được Thiên Chúa yêu thương quá đỗi (Ga 3.16 ; 13.1t), cho dù họ đã nhiều phen bất tuân, phản bội với Người. Người như Người Cha mà Tin Mừng Luca 15.11-24 mô tả, rất mực độ lượng, vô cùng nhân từ, sẵn lòng bỏ qua những lỗi lầm của đàn con ngây dại thường vấp ngã, để rồi khi chúng ăn năn hối cải, trở về như đứa con hoang đàng mà Đức Giêsu kể trong dụ ngôn, Người lại mở rộng vòng tay ôm lấy, và quảng đại ban cho chúng những quà tặng quí giá khôn lường, để giúp chúng mạnh mẽ hơn và sống phong phú tốt đẹp hơn…
Những quà tặng quí giá ấy, trong dụ ngôn là : “cho mặc áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân, làm thịt con bê béo để mở tiệc ăn mừng” (Lc 15,22-23), còn chúng ta có thể hiểu là ám chỉ về các đặc sủng, các ơn huệ và hoa quả của Thần Khí mà Chúa Cha ban cho con cái của Người. Vậy chúng ta hãy lần lượt cứu xét :
4 "Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. 5 Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách (song đều là) vì ích chung.
8 Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy ; người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày.
9 Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin ; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh.
10 Người thì được ơn làm phép lạ,
người thì được ơn nói tiên tri ;
kẻ thì được ơn phân định Thần khí ;
kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ ;
kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ.
11 Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người."
(1 Cr 12.4-11; cũng xem 1 Cr 14., và Ep 4.7-13)
THI HÀNH CÁC ĐẶC SỦNG HAY ĐOÀN SỦNG CỦA THẦN KHÍ
Thuở ban đầu của Hội Thánh, các Tông đồ dùng việc “đặt tay” để thông truyền Thánh Thần (mà họ đã nhận được ngày lễ Ngũ Tuần tức là Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống), chẳng hạn hai tông đồ Phêrô và Gioan đặt tay trên tín hữu tân tòng ở Samari :
“Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ, họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.” (Cv 8.14-17) ;
Và tông đồ Phao-lô đặt tay trên nhóm môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả khoảng hơn mười người ở Êphêsô :
“Nghe (ông Phaolô) nói thế, họ chịu phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu. Khi ông Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri.” (Cv 19.5-7).
Ta vừa nghe Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri : nghĩa là khi Thánh Thần ngự xuống thường có những đặc sủng phi thường kèm theo. Các đặc sủng phi thường như thế thường xảy ra trong các cộng đoàn của Hội Thánh sơ khai (Cv 10.44-46 ; 1 Cr 12.4-11; 14. ; Gl 3.5 ; Ep 4.7-13).
Ngày nay việc “đặt tay” ấy được thi hành trong Bí tích Thêm sức, và theo Giáo lý của Hội Thánh, Chúa Giêsu ban Thánh Thần và các ân huệ cho tín hữu khi họ lãnh Bí tích này.
Trong nghi lễ ấy, Đ.G.Mục đặt hai tay trên đầu (những) người thụ lãnh mà cầu nguyện rằng :
"Lạy Thiên Chúa Toàn năng, là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con, Chúa đã tái sinh (các) tôi tớ Chúa đây bởi nước và Thánh Thần khi giải thoát họ khỏi tội lỗi, thì lạy Chúa, xin hãy ban Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi đến trong (những) người này (để phù trợ và hướng dẫn họ). Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức. Xin ban cho (những) người này đầy ơn kính sợ Chúa. [1] (Chúng con xin Chúa các ơn ấy) nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.”
- Thưa : Amen.
Sau đó Đ.G.Mục nhúng ngón tay cái vào Dầu thánh rồi ghi hình thập giá trên trán từng thụ nhân và nói :
“T…., con hãy nhận lấy ấn tín ơn Chúa Thánh Thần.”
(Trích bản văn “Nghi Thức Bí tích Thêm Sức”, Ủy ban Giám mục về Phụng vụ, Sài gòn, 1973, tr.27).
Khi nghe nói đến các “đặc sủng”, chúng ta thường chú trọng nhiều đến khía cạnh kỳ diệu của các đặc sủng ấy, (nói những tiếng lạ ; phép lạ chữa bệnh …[2]), nhưng thật ra các đặc sủng là những điều vốn đã bàng bạc trong đời sống Kitô giáo, mà những Kitô hữu nào sống theo Thánh Thần hướng dẫn và chi phối (Rm 8.5-9; Gl 5.16-25), đều cảm nhận hay thực hiện được ít nhiều, cách này hay cách khác…
Đàng khác, các đặc sủng của Thánh Thần không phải lúc nào cũng xảy ra y như hồi đầu Hội Thánh (mà sách Công vụ cũng như các thư Thánh Phaolô cho biết), Thiên Chúa ban các đặc sủng này tùy theo nhu cầu của mỗi Giáo Hội : chẳng hạn các cộng đoàn đơn sơ và nghèo khó thì nhận được nhiều ơn để chữa lành bệnh hoạn tật nguyền hơn, vì họ thiếu thốn những phương tiện chữa trị thông thường, nên Thiên Chúa ra tay hành động giữa họ nhiều hơn. Các nhóm cầu nguyện nhận được ơn nói tiếng lạ, vì ơn ấy giúp họ tin tưởng vào Thiên Chúa và kiên trì ca tụng Người. Ta thấy ơn nói tiên tri và ơn dò thấu các bí mật lòng người biểu lộ ở những nơi người ta có lòng kính sợ Thiên Chúa, và xác tín Người là Đấng Chí Công. Trái lại trong giới trí thức hay dùng lý luận, thì người ngôn sứ thường nổi bật với ơn giảng dạy và soi sáng đức tin, nhờ đó cộng đoàn cũng như cá nhân nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động nơi nhiều tín hữu ; có thể họ không nói các tiếng lạ, không được ơn chữa bệnh, nhưng họ hành động dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, và làm nảy sinh những hoa quả của Thần khí (Gl 5.22-24), như vậy họ là những nhân chứng đích thực của Chúa Giêsu. (Theo Sách “Lời Chúa cho mọi người”, tr.1886, cước chú)
ƯỚC MONG SAO chúng ta, thay vì nghi ngờ, rụt rè, e ngại, trái lại sẽ hớn hở đón nhận và thực hành, song một cách thận trọng và khôn ngoan, những đặc sủng hay đoàn sủng phi thường hay bình thường đó của Chúa Thánh Thần "tùy theo mức độ Đức Kitô ban cho…", nhờ đó chúng ta “sẽ đủ khả năng làm được nhiều việc xây dựng, canh tân và phát triển cộng đoàn Hội Thánh” hoàn vũ, cộng đoàn Giáo xứ hay những cộng đoàn và đoàn thể nhỏ bé khác... (Xem Công Đồng Vat. II, Hiến Chế Giáo Hội “Ánh sáng muôn dân”, số 12). Mà khi xây dựng cộng đoàn thì đồng thời chúng ta cũng làm thăng tiến chính bản thân của mình.
Chẳng hạn như chúng ta có thể được đặc sủng khôn ngoan để giảng dạy, làm giáo lý viên, hay viết sách, phổ biến bài vở trên các phương tiện truyền thông, để trình bày chân lý hay những điều đạo lý cho người khác được am hiểu thêm về Chúa…Ngày nay, không kể rất nhiều giáo dân viết sách, dịch sách đạo, giáo lý và thần học, và phổ biến trên mạng Internet v.v..., người ta còn thấy ở nhiều nơi trên thế giới có những giáo dân, ngay cả nữ giáo dân và nữ tu làm giáo sư thần học, giám đốc chủng viện, giảng thuyết tĩnh tâm cho linh mục, tu sĩ, chủng sinh …
Hoặc chúng ta có thể được đặc sủng làm ngôn sứ, theo nghĩa là được ơn soi sáng để đưa ý kiến hoặc chỉ dẫn cho Hội Thánh hoàn vũ, hay cho Giáo Hội và cộng đoàn địa phương biết thánh Ý Thiên Chúa, mà hành động trong những hoàn cảnh phức tạp hay mới lạ bất ngờ…
Hoặc ta được đặc sủng tông đồ hăng say đi loan báo Tin Mừng cho người lương dân, nơi đô thị phồn hoa hay làng thôn nhỏ bé, ngay cả chốn thâm sơn cùng cốc, tại xứ sở mình hay tại những nước ngoại quốc xa xôi, để cho họ biết sự thật mà được cứu rỗi, hoặc đem họ vào Đạo Chúa.
Có khi ta còn được đặc sủng làm phép lạ, chữa bệnh tật nhờ đó làm cho người ta cảm nhận được Tình Yêu của Thiên Chúa (tr.405tt), mà tin Người hay trở lại với Người…
Hoặc được đặc sủng làm công việc phục vụ giáo xứ hay giáo hữu anh chị em mình, cũng như người ngoài, đặc biệt trong những việc từ thiện bác ái, chia sẻ… chẳng hạn cho những người khó nghèo, neo đơn, cô quả, tật bệnh, bị gạt ra ngoài lề xã hội như bệnh nhân phung hủi, Sida, HIV, v.v…; hay những trẻ em mồ côi, lang thang hè phố, bụi đời, "vì – có lời Chúa Giêsu nói – cho thì có phúc hơn là nhận." (Cv 20.35).
Chúng ta cứ ra sức làm việc trong Hội Thánh với tất cả khả năng mình. Dù chúng ta thấy mình bé nhỏ và thấp kém, bất năng bất tài. Chỉ cần dâng cho Hội Thánh và Chúa Giêsu những việc làm tầm thường, những bông hoa nho nhỏ thế cũng đẹp lòng Chúa rồi.
@@@@@_BÀI 91_@@@@@
B – NHỮNG ƠN HUỆ CỦA THẦN KHÍ
Nguồn gốc các ơn huệ này
được tìm thấy ở lời tiên tri Isaia xưa báo rằng :
“Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,
từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non (ám chỉ về Đức Giêsu).
Thần Khí ĐỨC CHÚA sẽ ngự trên vị này :
thần khí khôn ngoan và minh mẫn,
thần khí mưu lược và dũng mãnh,
thần khí hiểu biết và kính sợ ĐỨC CHÚA.” (Is 11.1-2).
Đang khi lời tiên tri của ngôn sứ Isaia gán những ơn huệ này cho Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai (tiếng Do Thái : Mêssia, nghĩa là được xức dầu và sai đến bởi trời để cứu nhân độ thế), thì truyền thống Hội Thánh coi các ơn huệ này được dàn trải trên tất cả các tín hữu, khi họ lãnh Bí tích Thanh Tẩy và nhất là Bí tích Thêm sức trên kia đã thuật, (xem Sách Giáo lý Công giáo, số 1303). Điều đó là tất nhiên vì nếu Đức Giêsu, Đấng Mêssia, là Đầu của Thân Thể mầu nhiệm (tức chúng ta, những kẻ tin), thì không thể nào Đầu có mà lại không tuôn trào xuống cho Thân Thể. (Rm 12.4tt; 1 Cr 12.27tt; Ep 4.7-11)
Và quả thật, Chúa Giêsu phục sinh đã lên trời và từ trời đã tuôn đổ Thánh Thần và các ân huệ của Người xuống trên môn đệ:
“Có lời Kinh Thánh nói : “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù ; Người đã ban ân huệ cho loài người.”
Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất ? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn.
Và chính Người đã ban ơn…(cho người ta đảm nhiệm những việc phục vụ Hội Thánh)… cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô.” (Ep 4.8-13)
Trong bài giảng tiên khởi sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Thánh Phêrô cũng làm chứng về điều ấy :
“Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống : đó là điều anh em đang thấy đang nghe.” (Cv 2.32-33).
Để lãnh nhận Chúa Thánh Thần và các ơn huệ của Ngài, ta tưởng chỉ có nhờ cầu nguyện và hai Bí tích Rửa tội và Thêm sức nói trên, mà quên rằng, khi ta Rước Lễ, ăn uống Mình Máu thánh Chúa Giêsu, thì cũng lãnh được như vậy, vì có lời Chúa Giêsu hứa rằng :
“Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy.” (Ga 6.57)
Mà ta đã học trên kia mà biết rằng : khi ta “ăn Chúa” thì được sống nhờ Chúa, mà sống nhờ Chúa là sống nhờ Thần Khí của Chúa, hay nói khác đi : lãnh được Thần Khí / Thánh Thần và các đặc sủng cùng các ơn huệ của Thánh Thần chất chứa trong Mình Máu Thánh Chúa.
*
Ý Nghĩa của các ơn huệ ấy :
Đây là những ơn huệ thiêng liêng, siêu nhiên do Thánh Thần thông ban, không phải những ơn nhất thời người ta cầu khấn khi gặp sự gì cần kíp, nhưng là những ơn có mặt thường xuyên nơi những người vẫn giữ mình sống trong ơn nghĩa với Chúa. Và nhờ thế, các ơn ấy tác động giúp họ nhanh chóng nghe theo những sự soi sáng của Thánh Thần, thi hành các nhân đức, và đạt sự thánh thiện.
Các Thiên thần, mỗi vị tượng trưng một ân huệ Thánh Thần, hào quang trên đầu ghi tên ân huệ ấy, và nơi tay cầm một vật biểu tượng gợi ý về ơn ấy.
|
Thánh Thần là Đấng ban mọi ơn thiêng liêng; Ngài đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria được đầy ơn phúc và mọi nhân đức, để Người xứng đáng làm Mẹ Chúa Ngôi Hai xuống thế làm người đầu thai trong dạ Mẹ, thì nay Ngài lại ban cho các tín hữu, nhất là những ai ăn Bánh Hằng Sống Giêsu, được đón nhận bảy ơn huệ của Ngài :
Ơn Khôn Ngoan,
Ơn Thông Hiểu,
Ơn Chỉ Bảo (Lo Liệu),
Ơn Sức Mạnh,
Ơn Suy Biết,
Ơn Đạo Đức,
Ơn Kính Sợ Thiên Chúa.
*
1.- Thứ nhất là Ơn Khôn Ngoan (Latinh : sapientia)
Ơn này giúp tâm hồn chúng ta tách ra khỏi thế giới vật chất xa hoa phù phiếm, để chỉ biết ‘ái mộ những sự trên trời’. Ái mộ những sự trên trời không phải là yêu chuộng những gì có ở trên trời, trên Thiên Đàng, chẳng hạn như vẻ đẹp, sáng láng, vinh quang, sự bất tử, hạnh phúc, v.v… vì ta đâu đã được lên đó để thấy mà yêu chuộng. Nhưng là yêu chuộng những sự gì thuộc về trên trời, thuộc về Thiên Đàng, mà thuộc về Thiên Đàng tức là thuộc về Thiên Chúa, song có cái hay là những sự ấy nay đã được Người ban xuống cho ta qua Chúa Giêsu, trong Hội Thánh : Ví dụ ơn được có Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con thật sự của Người (1 Ga 3.1) ; hoặc được Chúa Giêsu yêu chúng ta đến nỗi đã chịu chết trên thập giá để đền tội chúng ta ; rồi ơn có Lời Chúa là ánh sáng soi đường cho ta khỏi lạc vào đêm tối ; và được phép Thánh Thể, là thần lương nuôi sống ta mỗi ngày; v.v…
Đó là ‘những sự trên trời’, song nay đã được ban xuống cho ta, mà ta phải ái mộ.
Vì yêu chuộng các sự đó, ta không còn quá để tâm để trí tìm kiếm những sự thế gian vốn thường là tạm bợ và chóng qua, như Thánh Phaolô khuyên bảo :
"Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, (tức là trên trời) nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới." (Cl 3.1-2) “Quả vậy, những sự vật hữu hình (của hạ giới) thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình (thuộc thượng giới) mới tồn tại vĩnh viễn.” (2 Cr 4.18)
Ở chỗ khác, thánh nhân còn thúc giục thực hiện một sự cởi bỏ mọi ràng buộc triệt để hơn nữa, đến mức hầu như thoát tục, vì ông tưởng Chúa sắp tái lâm rồi :
“Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này : thời gian như co rút lại. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có ; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc ; ai vui mừng, như chẳng mừng vui ; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả ; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang qua đi.”(1 Cr 7.29-31).
Những tâm hồn thanh thoát, luôn chỉ tìm kiếm Thiên Chúa như thế, họ như chim bay bổng trong không khí, như cá tung tăng lượn lờ dưới làn nước trong, họ như đắm mình trong mối quan hệ sâu xa, thân mật với Thiên Chúa cách ngọt ngào, dịu dàng khôn tả. Nhiều tín hữu tưởng lầm là sự chiêm niệm này chỉ dành để cho những ai sống ẩn dật, hay tu hành trong những dòng kín, lánh xa hồng trần và những lo toan sự đời. Chính vì hiểu lầm tai hại đó, mà biết bao tâm hồn bị chận đứng lại trong đà vươn lên Thiên Chúa. Kìa xem, bà Thánh Têrêsa Cả thành Avila là một người hoạt động phi thường, đã từng bôn ba khắp mọi nơi trong nước, dầy công lập mười mấy nhà dòng Kín, song lại là một tâm hồn chiêm niệm cao sâu, tâm hồn bà như mất hút trong Thiên Chúa. Rút từ kinh nghiệm của mình, bà đã viết và để lại cho Giáo Hội những cuốn sách dạy về sự chiêm niệm cao sâu, vươn lên tới đỉnh trọn lành, vì thế sau khi qua đời, bà đã được Giáo Hội không những tuyên thánh, mà còn phong lên bậc tiến sĩ Hội Thánh tức là thánh sư dạy về con đường trọn lành!
Yêu những sự trên trời, không phải bảo ta ghét trần gian này đâu, đúng hơn ơn Khôn ngoan giúp ta biết yêu trần gian như là tạo vật của Thiên Chúa, sử dụng nó theo ý Chúa muốn, vì Thánh kinh cho biết Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt đẹp (St 1.31; Kn 1.14), cho dù sau tội của nguyên tổ, nó đã bị suy thoái, nhưng vẫn mong chờ được giải thoát và vào hưởng vinh quang muôn đời với ta (Rm 8.19-21)
Trong đời sống thực tế, ơn Khôn Ngoan này hướng dẫn các hành động của con người đi theo đường lối của Thiên Chúa. Nhờ có ơn này, người ta sẽ nhìn và đánh giá mọi sự - vui cũng như buồn, lạc thú hay khổ đau, thành công hay thất bại v.v… - theo quan điểm của Thiên Chúa, và biết chấp nhận tất cả với thái độ bình thản. Thành ra mọi sự, cho dù những sự tệ hại nhất, cũng được họ coi như có giá trị siêu nhiên, khác hẳn với sự khôn ngoan phàm tục của thế trần, chẳng hạn thế gian coi cảnh nghèo khó, hay cơn bách hại… là họa, thì họ coi là phúc. Và như thế ơn Khôn Ngoan sẽ đưa người ta đạt tới tình mến hoàn hảo.
Có ơn này, thì một tâm hồn nhỏ hèn, kém tài trí vẫn có thể sở hữu một sự thông hiểu sâu xa về các điều siêu nhiên. Lấy ví dụ Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một nữ tu Dòng Kín, chị không được học lớp thần học nào, vậy mà chị được Chúa Thánh Thần ban cho một sự thông biết khôn ngoan những sự trên trời và đường lối của Thiên Chúa một cách cực kỳ sâu sắc, và chị đã ghi lại cách riêng trong cuốn “Truyện một linh hồn”. Vì thế mà sau khi qua đời, chị đã được Giáo Hội tuyên thánh, và tuy còn rất trẻ mới 24 tuổi đời, cũng được tặng phong Tiến sĩ Hội Thánh như Mẹ Têrêsa lập Dòng.
@@@@@_BÀI 92_@@@@@
2.- Thứ hai là Ơn Thông Hiểu (intellectus)
Nhận được ơn này, những người trần mắt thịt chúng ta sẽ có khả năng, trong một mức độ nào đó, hiểu biết sâu xa những chân lý và ngay cả những Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, mà ta không thể hiểu được bằng trí năng tự nhiên, tuy vốn là những chân lý và mầu nhiệm mà ta đã nhận tin.
Ơn này không làm ta trở nên những nhà thông thái, song làm cho ta trở nên thông minh để hiểu biết giá trị mà sống đức tin, đức cậy, đức mến và việc cầu nguyện; hiểu biết và sống với Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần ; sống với tha nhân, với các tạo vật của Thiên Chúa. Như thế một cách nào, lòng nhân hậu của Chúa Thánh Thần đã cho ta nếm trước, ngay từ đời này, hạnh phúc Thiên Đàng đời sau.
Ơn này không phải là một sự soi sáng thoáng qua, nhưng thường xuyên và theo mức cần thiết cho cuộc đời chúng ta. Nhờ đó, trong một đời sống bận rộn trăm công nghìn việc, với biết bao bổn phận phải chu toàn, và giữa những thử thách, nhưng vì được Chúa Thánh Thần ban ơn huệ này, tâm hồn ta vẫn có thể sống thân mật với Thiên Chúa, miễn là ta biết trở nên nhỏ bé, đơn sơ, vì Chúa Giêsu đã nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều (mầu nhiệm) này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11.25)
Ơn này không thay thế đức tin, song đưa đức tin đến mức hoàn hảo, đến nỗi Thánh Tôma Aquinô tiến sĩ nói rằng : “Ở đời này, khi con mắt tâm hồn được tinh luyện bởi ơn thông hiểu, người ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa một cách nào đó.” (Tổng luận thần học II-II, câu hỏi 69, tiết 2, mục 3). Đúng như Chúa Giêsu đã nói : “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.” (Mt 5.8)
Cũng nhờ ơn Thông Hiểu này, chúng ta khám phá ý nghĩa tàng ẩn của những lời, những biểu tượng và hình bóng của Thánh Kinh, ví dụ : tích ông Môsê đập tảng đá làm nước phun ra cho dân Israen đi trong hoang địa khỏi chết khát, thì Thánh Phaolô được ơn nhìn thấy tảng đá ấy chính là Chúa Kitô đi theo họ (1 Cr 10.4). Tâm hồn sẽ nếm được hương vị ngọt ngào của những lời Chúa Giêsu đã ghi chép trong sách Tin Mừng. Những lời thần linh này, linh hồn nghe như chính Chúa Kitô vinh hiển từ trời nói cho mình một cách sống động, chứ không phải lời của một cuốn sách.
Ơn này bộc lộ trước mắt tâm hồn những thực tại thiêng liêng tàng ẩn dưới những lớp vỏ bề ngoài, chẳng hạn xuyên qua lớp nghi thức khô khan của Thánh Lễ, nhìn thấy cách siêu nhiên song rất thật Chúa Giêsu đang dâng mình làm của lễ lên trước Thánh Nhan Chúa Cha ; cũng như nhận thức được ý nghĩa sâu xa thâm trầm của các Bí tích, các nghi lễ Phụng vụ thánh.
Ơn này cũng làm cho nhìn thấy bàn tay Chúa hành động trong đời sống của chính bản thân chúng ta, khiến cho ta hiểu đường lối của Thiên Chúa điều khiển đời sống mình thật là kỳ diệu, và tràn đầy tình thương xót, cho dù những đường lối ấy nhiều khi làm cho ta đau đớn tan nát cõi lòng, hoặc dẫn ta đi trên những ngõ quanh co ta không ngờ tới, ví dụ qua những biến cố đau thương (như đau khổ, bệnh tật, mất người thân v.v…). Ta liền hiểu ra ngay rằng nếu để cho ta tự mình điều khiển đời sống, ta sẽ hụt mất mục đích đời mình. Nhưng nay đã được hiểu rõ, ta vui hưởng bình an, lòng không ngớt dâng lên Thiên Chúa Cha đầy tình thương và Đấng Cúu Chuộc đáng mến những lời cảm tạ tri ân.
Chướng ngại lớn nhất cho ơn huệ thiêng liêng này là sự hiếu động, sự bồn chồn lo âu trăm công ngàn việc, luôn vội vã, không biết nghỉ ngơi, không biết thinh lặng và cầm trí chút nào, luôn “ruột để ngoài da”, ấy là chưa kể đến chuyện ham vui chơi, ham trò chuyện, và làm những chuyện vô bổ khác… Nhất là lại nuôi dưỡng trong trí lòng những ý tưởng bất chính, những hình ảnh xấu xa hay thiếu trong sạch.
3.- Thứ ba là Ơn Chỉ Bảo (consilium)
Dịch là Ơn Chỉ Bảo (đàng lành) thì có lẽ chính xác hơn là Ơn Lo Liệu. Ơn này cho chúng ta được sự tinh khôn siêu nhiên, nó cho ta khả năng thấy và chọn lựa cái gì đúng, cái gì sai, cái gì tốt, cái gì xấu, và giữa biết bao sự hoài nghi và không rõ rệt của cuộc đời, biết chọn những cái gì tốt mà làm, những cái gì đem đến vinh quang cho Thiên Chúa, mưu ích cho Hội Thánh và cho phần rỗi bản thân và tha nhân…
Ơn Chỉ Bảo giúp ta biết tìm kiếm, xét đoán, chọn lựa và đón nhận những điều hay lẽ phải, nhất là từ Thiên Chúa, để giúp ta tiến tới trong đường thánh đức, và tránh xa những điều xấu, ví dụ nó giúp ta tự hỏi: “Việc này có đưa tôi tới sự thánh thiện không ?” ; “Việc nọ có dẫn tôi tới Thiên Đàng không?” Nói tóm, tìm kiếm đâu là đường lối và thánh Ý Thiên Chúa, vì có lời phán rằng : “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55.8).
Qua ơn huệ này, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn ta, hoặc chỉ cho biết con đường nào phải đi, hay sẽ nói cho ta biết phải chọn điều gì giữa bao nhiêu điều phải quyết định hay chọn lựa : “Ai có tai thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.” (Kh 2.7)
Như thế, ơn này rõ ràng có liên hệ với nhân đức khôn ngoan, tuy nhiên đang khi nhân đức khôn ngoan này hoạt động nhờ lý trí được soi sáng bởi đức tin, thì ơn Chỉ Bảo hoạt động dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, khiến nhiều khi một hành động được Chúa Thánh Thần soi dẫn cho mà làm, nhưng lý trí không thể cắt nghĩa được tại sao, ví dụ việc cha Maximilianô Kolbê hy sinh mạng sống cho một người khác được thoát chết, thì lý trí tự nhiên vốn chủ trương bảo toàn mạng sống sẽ không thể nào hiểu được.
Ơn Chỉ Bảo còn hiến những lời chỉ dẫn hay những giải đáp cho những hoàn cảnh khó khăn và bất ngờ của ta, và nếu chức vụ hay tình bác ái đòi hỏi, cũng giúp ta hiến những lời khuyên bảo hay hướng dẫn cho cả người khác nữa, cách riêng trong những vấn đề cứu rỗi và nên thánh. Biết bao nhiêu cạm bẫy, ta sẽ tránh thoát ! Biết bao ảo tưởng sẽ bị xóa tan ! Biết bao điều chân thật huy hoàng, Thần khí sẽ giúp ta khám phá !
Chướng ngại lớn nhất đối với ơn huệ này là sự tự đắc, tự mãn, nghĩ mình khôn ngoan đủ, không cần ai khuyên bảo, góp ý, vì coi quan điểm của mình là đúng nhất. Vì thế phải dùng lời này của Thánh Vịnh mà nguyện xin :
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119.105)
@@@@@_BÀI 93_@@@@@
4.- Thứ tư là Ơn Sức Mạnh (fortitudo).
Khi nhận được Sức Mạnh từ trời cao, chúng ta có can đảm vượt qua mọi chướng ngại và khó khăn, chịu đựng đau khổ và cực nhọc xảy tới lúc phải tuân giữ luật Chúa, lúc thi hành các bổn phận người Kitô hữu ; và có sức mạnh lướt thắng các tấn công của kẻ thù ; tránh mọi cám dỗ của thế gian và mưu ma chước quỉ hằng rình chực sập bẫy các linh hồn.
Ơn ấy ban cho ta bền chí kiên trung trong đời sống đạo đức; thi hành cho đến cùng những gì ta phải làm chứ không bỏ cuộc ; chu toàn chức vụ hay nghĩa vụ của đấng bậc mình : chẳng hạn một giáo viên hay giáo sư, sẽ được ơn sức mạnh để giảng dạy cho tốt ; học sinh hay sinh viên sẽ được ơn để học hành chăm chỉ ; vợ chồng, để sống đạo nghĩa phu thê cho tròn ; người góa chồng hay góa vợ, để biết sống hoàn cảnh mới cô đơn và khó khăn của mình ; v.v…
Và ơn này cũng sẽ giúp ta làm chủ các dục vọng, không sống theo những thúc đẩy của bản năng, thắng những xu hướng xấu của xác thịt mình, khiến ta sẽ tránh được biết bao ân hận day rứt vì đã làm những việc lỗi lầm… đưa đến những hậu quả đắng cay, nghiệt ngã…
Ơn Sức Mạnh làm cho ta kiên nhẫn chịu đau khổ, bệnh hoạn, tật nguyền, nâng đỡ ta trong những lúc thất bại, vui lòng chấp nhận những thử thách của đời sống, chẳng hạn khi bị mất người thân yêu do cái chết xảy đến hay do bị phụ bạc, song biết coi những đau khổ, thử thách đó như những quà tặng của Thiên Chúa.
Ơn ấy làm ta lướt thắng sự thờ ơ trong việc phục vụ Thiên Chúa, và nhất là ban cho ta có khả năng thực hành các nhân đức một cách anh hùng. Chẳng phải Sức Mạnh thần linh đã làm cho Kitô hữu có thể “ghét mạng sống mình ở đời này” như Chúa Giêsu đòi hỏi (Ga 12.25) ? Và có thể : “đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho ; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.” (5.39-42).
Th.Phaolô mô tả ơn Sức Mạnh thần linh ấy :
“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? […] Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng : cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8.35-39)
Đặc biệt, Ơn Sức Mạnh đây khiến các tín hữu thà chết chẳng thà bỏ đạo hay chối Chúa : “Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn. Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù ; họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm ; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ. Thế gian chẳng xứng với họ ! Họ đi lang thang trong hoang địa, trên núi đồi, trong hang hốc và hầm hố...” (Dt 11.35-38)
Ơn Sức Mạnh cách riêng giúp ta dạn dĩ làm chứng cho Chúa, hăng hái bước đi lo việc tông đồ truyền giáo… và nếu cần, dám hy sinh mạng sống đổ máu mình ra, giống như các thánh Tông đồ ngày xưa, sau khi được Chúa Thánh Thần Hiện Xuống ban sức mạnh cho vậy (Cv 1.8).
Ngày nay, ơn Sức Mạnh giúp ta can đảm không vì nể mà dám phản đối những ai chủ trương sai lầm, gieo rắc tà thuyết hay tệ nạn xã hội, dù có thể vì thế bị mất quyền lợi hay mất tiếng tăm, nhớ lời Th. Phaolô tuyên bố : “Nếu tôi còn muốn làm đẹp lòng người đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Ki-tô.” (Gl 1.10).
5.- Thứ năm là Ơn Suy biết (scientia)
Nhờ ơn huệ này của Chúa Thánh Thần hướng dẫn, trí khôn nhân loại có khả năng suy xét đúng đắn những chân lý đức tin, phê phán đúng mức về những sự vật trần thế, và biết chúng có liên hệ gì với sự thánh thiện và với cuộc sống đời đời. Nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, ta mới nhận thấy sự trống rỗng hay tạm bợ mau qua của những vật thụ tạo, nhờ vậy, ta sẽ biết sử dụng các sự vật thụ tạo cách đúng đắn và thánh thiện ; thay vì coi những sự vật ấy là những chướng ngại, ta lại sử dụng chúng như những khí cụ giúp kết hiệp với Thiên Chúa.
Ơn Suy Biết cho phép ta nhìn mọi hoàn cảnh của đời ta một cách như Thiên Chúa nhìn. Nhờ ơn này, ta có thể biết được Thiên Chúa nhắm mục đích gì trong đời ta, và Người đặt ta trong những hoàn cảnh riêng biệt vì lý do nào. Ơn Suy Biết mà Chúa Thánh Thần ban cho ta rất thực tế. Cụ thể là biết chính xác cái gì mình phải làm ở đây, giờ này, để Thiên Chúa được vui lòng. Biết điều gì Thiên Chúa đòi hỏi và điều gì Người ghét bỏ, biết tìm kiếm cái gì và chạy trốn cái gì.
Không có ơn huệ này, tầm nhìn của ta sẽ có nguy cơ lệch lạc, vì bóng tối che mờ trí khôn ta. Những bóng tối ấy từ đâu đến ?
- Từ bản chất suy đồi của bản thân ta.
- Từ những thành kiến cũng như những tư tưởng phàm tục của thế gian xúc xiểm, dễ làm lung lạc những đầu óc ngay thẳng song thiếu kinh nghiệm.
- Từ tác động lén lút song quỷ quyệt của Satan là Trùm bóng tối và lường gạt.
Ơn huệ này giúp cho đức tin được có thêm ánh sáng để biết tránh những sai lầm ; được soi sáng và giải tỏa những hoài nghi để sự thật được tỏ rõ, và được thấy rằng thế gian đang ở trong tối tăm và vướng mắc vào những sai lầm thảm hại, đã lôi cuốn biết bao nhiêu tâm hồn vào trong lầm lạc của nó.
Thánh Phaolô ám chỉ ơn huệ này khi viết :
“Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng ; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối…” (Ep 5.8-11)
Ơn Suy Biết ấy phát sinh những hiệu quả có giá trị rất lớn cho việc thánh hóa linh hồn : nào sự biết nhìn vào tình trạng tâm linh của linh hồn, nào khả năng phân biệt đâu là những soi sáng của ơn Chúa, đâu là những thôi thúc của ma quỉ; được lòng dứt khỏi mọi quyến luyến những sự vật chất, biết hối hận vì đã để cho những sự vật ấy cản bước tiến đến Thiên Chúa.
Cuối cùng, ơn ấy ban cho người ta một cảm thức đức tin (sensus fidei), nghĩa là một sự bén nhậy gần như một bản năng thần linh để cảm thấy điều gì đó có phù hợp với đức tin và luân lý của đạo hay không, mặc dù người đó chưa từng trải qua một trường lớp thần học nào.
Lấy ví dụ : trước một cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria, khi nhìn thấy biết bao kết quả tốt lành như là : hàng triệu người hối cải ăn năn, cải thiện đời sống, còn người lành thêm đạo đức thánh thiện, hăng hái làm việc tông đồ truyền bá đức tin, rồi hàng hàng lớp lớp các bạn trẻ nam nữ từ bỏ các hứa hẹn của tương lai để theo đuổi ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ v.v…, thì người có cảm thức đức tin bén nhậy nhận thấy đúng như Chúa Giêsu dạy : “Xem quả biết cây, cây xấu không thể sinh quả tốt” (Mt 7.18,20), liền nhìn nhận tính cách siêu nhiên từ trời của sự kiện hiện ra ấy ngay, thay vì thái độ lừng khừng, nhút nhát, thụ động, chỉ biết đợi khi nào Hội Thánh công nhận thì cúi đầu vâng lời chấp nhận. Đã hẳn việc nhìn nhận nói đây chỉ là chuyện riêng tư của cá nhân, không hề dám đi trước phán quyết của giáo huấn quyền Hội Thánh.
@@@@@_BÀI 94_@@@@@
6.- Thứ sáu là Ơn Đạo Đức (pietas)
Ơn này giúp cho chúng ta biết tôn thờ và tin tưởng thâm sâu vào Thiên Chúa là Cha chúng ta như đứa con thảo, và tôn kính mến yêu các thánh, trên hết là Đức Trinh Nữ Maria, Thân Mẫu Chúa Giêsu. Ơn này còn giúp chúng ta liên hệ với mọi người như con cái của cùng một Cha chung, chịu đựng những tính nết xấu của họ, dễ dàng tha thứ những lỗi lầm, sỉ nhục và xúc phạm họ làm cho mình ; rồi cũng khiến chúng ta có tấm lòng thương yêu và bác ái đối với tha nhân, cách riêng những người nghèo khó và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội…
Lòng tôn thờ và tin tưởng Thiên Chúa ở đây là một tâm tình vừa rất đơn sơ, hồn nhiên, vừa cụ thể, chẳng khác chi đứa trẻ chạy đến với ba má nó cách tự nhiên, không câu nệ, không đắn đo, không tính toán…Tài tình của Chúa Thánh Thần là làm chúng ta trở nên đơn sơ với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mách bảo :
“Thầy bảo thật anh em : nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” (Mt 18.3-4)
Nhưng để được thế, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải khám phá ra tình phụ tử tuyệt vời của Thiên Chúa [3] nhờ đọc và học hỏi Thánh kinh, đặc biệt nhờ Chúa Giêsu Thầy thánh của chúng ta mặc khải ra cho ta, như chính Người đã hứa : “Cha Tôi đã giao phó mọi sự cho Tôi. Và không ai biết rõ người Con, ngoài Chúa Cha ; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, ngoài người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” (Mt 11.27)
Một khi đã khám phá được và cảm nghiệm được tình Cha của Thiên Chúa, thì niềm tin yêu, tôn thờ sẽ hồn nhiên bộc phát. Chính trong lúc cầu nguyện mà tâm tình ấy biểu lộ ra rõ nét nhất, bởi vì lúc đó chính Thần khí Chúa Giêsu – Thần khí đã làm chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa – sẽ khiến ta kêu lên : “Áb-ba ! Cha ơi !” (Rm 8.15).
Ơn Đạo Đức khiến tâm hồn ta nhạy cảm với những gì liên can đến danh dự Thiên Chúa, cách riêng nó làm ta thống hối những tội lỗi đã xúc phạm đến Thiên Chúa, đau đớn vì thấy Thiên Chúa tốt lành đã khứng chịu đựng những xấu xa của ta ; nhất là khi suy gẫm thấy lòng thương xót vô bờ bến của Chúa Cứu Chuộc, đã chịu bao đau đớn nhục nhã vì phần rỗi của ta, do đó ta ra sức đền tạ những sỉ nhục xúc phạm đến Chúa, và ra công đem các linh hồn tội lỗi trở về với Chúa.
Ơn huệ này làm cho chúng ta chấp nhận trong vui vẻ và yêu mến thánh Ý Thiên Chúa trong cuộc đời ta, hăng hái thi hành tất cả bổn phận liên quan đến việc phụng sự Thiên Chúa, chẳng hạn như thích đọc và học Lời Chúa, cẩn thận thực hành Lời Chúa truyền dạy ; vâng phục lời Mẹ Hội Thánh thay mặt Chúa dạy dỗ ta ; sốt sắng tham dự phụng vụ, lãnh các Bí Tích ; chuyên cần kinh nguyện ; vui vẻ hy sinh hãm mình ; siêng năng làm việc thiện.
Như thế, ơn Đạo Đức hoàn thiện nhân đức công bình, theo nghĩa là nó cho ta khả năng chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa, không vì bị bắt buộc phải làm do đức công bình đòi hỏi (nghĩa là Người là Tạo Hóa đã dựng nên ta, ta phải trả ơn), hay vì lệnh truyền, song vì tình yêu Cha trên trời ; cũng như khi đối với đồng loại, ta chu toàn nghĩa vụ yêu thương không chỉ vì điều răn bó buộc.
Vì thế, kẻ thù nguy hiểm nhất phá hoại ơn huệ này là sự sợ hãi Chúa, không tin Chúa là Cha yêu thương, chỉ coi Chúa như ông quan tòa sẵn sàng kết án xử phạt ta, hoặc cho rằng Thiên Chúa vẫn còn ghi nhớ những tội lỗi quá khứ của ta, hoặc sẽ trừng phạt vì ta làm sai chuyện nọ, hỏng chuyện kia, hay vì ta lười biếng không đọc kinh, đi Lễ v.v…
7.- Thứ bảy là Ơn Kính Sợ Thiên Chúa (timor Domini).
Ơn này nhiều khi bị hiểu lầm do chữ “sợ” gây ra. Sợ tức là khiếp hãi những gì gây đau khổ hay thiệt hại cho mình, ví dụ sợ rắn cắn, sợ tai nạn, sợ thất nghiệp v.v…Trên mặt tôn giáo, ơn Kính Sợ đây không phải cái sợ đó, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân hậu không hề làm hại ai. Cũng không phải sự sợ có tính cách nô lệ, chỉ phụng sự Thiên Chúa để khỏi bị Thiên Chúa trừng phạt, bằng những hình phạt tạm thời ở đời này, hay hình phạt đời đời trong Hỏa ngục.
Quan hệ chân chính của chúng ta với Thiên Chúa đặt trên cơ sở tình yêu chứ không trên sợ hãi. Bởi vậy, ơn Kính Sợ đây là lòng kính yêu tôn trọng của người con thảo đối với Cha mình, khiến họ thi hành thánh Ý Thiên Chúa, và tránh phạm tội vì yêu mến Thiên Chúa trọn tốt trọn lành, và đáng yêu mến trên hết mọi sự, cho nên ơn này không bóp nghẹt tình yêu, trái lại nó gạt bỏ những chướng ngại cản trở tình yêu phát triển. Cũng như khi hai người yêu nhau, thì luôn lo lắng để ý xem nhỡ có làm điều gì mất lòng nhau để tránh xa, mà bảo vệ tình yêu được vẹn toàn.
Bởi vậy, Ơn này giúp chúng ta biết tôn kính Chúa trên hết mọi sự, nhìn nhận tình trạng thụ tạo của mình và sự lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, và làm cho chúng ta sợ hãi lánh xa tất cả những gì xúc phạm tới Người, giữ mình thanh sạch không phạm tội làm mất lòng Cha Trên Trời, và không bao giờ muốn lìa xa Thiên Chúa đáng mến. Thiên Chúa thì thánh thiện và đầy Lòng Thương Xót, nhưng Người cũng là Đấng Công minh Chính trực, do đó thái độ của ta trước nhan Người là vừa kính vừa sợ : trước là kính Chúa, sau là sợ xúc phạm đến Người. Phải, chỉ có một sự sợ hãi, đó là sợ phạm tội, vì tội xúc phạm đến Chúa và sẽ đưa ta sa Hỏa ngục.
Ơn Kính Sợ có thể được coi như nền tảng của tòa nhà thiêng liêng, không có ơn này, chẳng có sự tốt lành nào sẽ trổ sinh và phát triển, tất cả sẽ sụp đổ tan tành : “Ai không bền lòng kính sợ Đức Chúa, cửa nhà người đó sẽ sớm bị sụp đổ”. (Hc 27.3).
Ơn Kính Sợ đến hỗ trợ cho nhân đức tiết độ, khiến ta biết cách sử dụng mọi sự vật một cách khôn ngoan và điều độ, không đi quá trớn, đặc biệt trong những thú vui giác quan. Nhân đức tiết độ sẽ kết hợp với lý trí mà kiểm soát các dục vọng, song nếu chỉ dừng lại ở đó là chưa hoàn hảo, phải nhờ ơn Kính Sợ đến trợ giúp, ta mới nhận thức được sự thánh thiện của Thiên Chúa mà đem lòng tôn trọng, để từ đó, trong tư thế là tạo vật, ta sẽ sống tiết độ, trong hành động cũng như trong các ham muốn, ngõ hầu đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Xin lấy ví dụ : đức thanh tịnh là một nhân đức của tiết độ, nó làm người ta tôn trọng sự tốt đẹp của tính dục của mình, sự thánh thiện của hôn nhân và của tình yêu vợ chồng (như chính Thiên Chúa đã truyền dạy, St 1.27-28; Ep 5.21-33). Nhưng chỉ dừng tại đó là chưa hoàn hảo, nó phải được thúc đẩy bởi ơn Kính Sợ mà nỗ lực sống đời thanh tịnh trong sạch, chỉ vì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên những điều tốt lành ấy, và sống như thế, họ đem đến vinh quang cho Thiên Chúa và ngợi khen Người.
Chướng ngại chính cản trở Ơn Kính Sợ là đánh mất hay chưa có ý thức về sự cao cả siêu việt tuyệt đối của Thiên Chúa. Nhiều người tín hữu ngày nay, do nhiễm tinh thần dân chủ, tự do, tự lập đang thống trị thế giới, họ cho rằng kính sợ Thiên Chúa làm mất giá trị của con người, làm mất phẩm giá cao quí của họ…
Có một số người khác lấy cớ là Chúa Giêsu đã đến thay đổi bộ mặt của Thiên Chúa, làm cho Thiên Chúa bây giờ trở nên dễ tính, không còn khắt khe đáng sợ như thời Cựu Ước nữa, thế là họ coi Thiên Chúa như một “đồng chí” của họ, riết rồi đâm ra coi thường Thiên Chúa, lờn quen không còn kính tôn Người cho xứng đáng. Thường thấy nhiều người vào nhà thờ nơi có Mình Thánh Chúa ngự trong nhà chầu, mà điệu bộ thì nghênh ngang, đi đi lại lại, nhâng nhâng nháo nháo, cười nói thoải mái, không còn chút tôn kính gì ; người khác thì dự việc cầu nguyện, nhưng hai tay chắp sau lưng, coi như trên đầu trên cổ chẳng có ai đáng họ kính nể… Hiểm họa ấy, chúng ta chỉ được cứu chữa khỏi, khi hạ mình xuống cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn Kính sợ mà thôi.
Lời nguyện xin bảy ơn Chúa Thánh Thần
(Sáng tác của Thánh Anphongsô Ligori)
Lạy Chúa Thánh Thần, là Chúa hay an ủi, con thờ lạy Chúa là Thiên Chúa thật của con, cùng thờ lạy Chúa Cha, và Chúa Con. Con chúc tụng Chúa, hợp với các lời chúc tụng của thần thánh trên trời dưới đất hằng dâng lên Chúa.
Con xin hiến dâng trái tim con cho Chúa, và dâng lên Chúa những lời cảm tạ tri ân nồng nhiệt nhất, vì tất cả những ơn huệ Chúa đã ban xuống và còn không ngừng ban xuống cho trần gian.
Là Tác giả tất cả những ơn huệ siêu nhiên, Chúa đã đổ tràn đầy tâm hồn Đức Maria hồng phúc, Mẹ Thiên Chúa, vô vàn những hồng ân, vậy con cũng xin Chúa viếng thăm con với Ân Sủng và Tình Yêu của Chúa, và xin Chúa ban cho con :
- Ơn Kính Sợ, để cầm giữ con không bao giờ còn sa ngã lại trong những lỗi lầm quá khứ, mà bao lần con đã xin Chúa thứ tha.
- Ơn Đạo Đức, để từ nay trở đi con có thể phụng sự Chúa cách tận tình hơn, để con nghe theo các sự soi sáng thánh thiện của Chúa cách nhanh chóng hơn, tuân giữ các huấn lệnh thần linh của Chúa cách trọn vẹn hơn.
- Ơn Suy Biết, để con hiểu tường tận những điều của Thiên Chúa trên trời, và nhờ những sự chỉ dẫn thánh thiêng của Chúa, con sẽ vững bước không bao giờ lạc lối trên con đường cứu độ đời đời.
- Ơn Sức Mạnh, để con can đảm vượt thắng tất cả những tấn công của ma quỉ, tất cả những hiểm nguy của thế gian bày đặt làm cho linh hồn con vấp ngã mất phúc cứu độ.
- Ơn Lo Liệu, để con biết chọn lựa những gì giúp con tiến bộ trên đàng thiêng liêng, và khám phá tất cả những cạm bẫy và mưu mô cám dỗ của Ác Thần.
- Ơn Thông Hiểu, để con cảm nhận được các mầu nhiệm thần linh và, nhờ chiêm ngắm những sự trên trời, con không còn nghĩ tưởng hay lưu luyến những xa hoa phù phiếm của thế gian xấu xa này nữa.
- Ơn Khôn Ngoan, để con có khả năng điều khiển tất cả hành động của con, mà hướng chúng về Thiên Chúa là cứu cánh đời con, ngõ hầu sau khi đã yêu mến và phụng sự Chúa cho phải đạo ở đời này, con được hạnh phúc hưởng Nhan Chúa muôn kiếp ở đời sau.
@@@@@_BÀI 95_@@@@@
C - NHỮNG HOA QUẢ CỦA THẦN KHÍ
Một khi ăn Bánh Hằng Sống Giêsu, để sống nhờ Thần Khí của Người, chúng ta sẽ "bước đi theo Thần Khí, không còn làm những điều thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa" (Gl 5.16), mà gây ra những việc tội lỗi như : “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy…” (Gl 5.19.21); nhưng "đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê" (Gl 5.24), ngõ hầu nhờ sức Thần Khí mà trổ sinh những hoa trái của Thần Khí vô cùng tốt đẹp là
“bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa và tiết độ.” (Gl 5.22-23).
Những hoa trái tốt đẹp này của Thần khí đã được tiên báo kín đáo bởi ngôn sứ Êdêkien 47 về dòng nước (tượng trưng cho Thần khí) từ đền thờ (là Chúa Giêsu phục sinh) chảy ra thành con sông lớn, khiến cho “Trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết : mỗi tháng các cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ thánh điện. Trái dùng làm lương thực còn lá để làm thuốc.” (Ed 47.12).
Nhờ dòng nước Thần khí chảy ra từ đền thờ Giêsu tưới đậm mà tâm hồn tín hữu luôn tươi tốt, mạnh mẽ, không hề sa sút tàn tạ, và nhất là không như cây vả (hình ảnh tượng trưng dân Israen bất trung) bị Chúa Giêsu chúc dữ vì chỉ trổ toàn lá mà không sinh ra quả: “Trông thấy cây vả ở bên đường, Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Người nói: “Từ nay, không bao giờ mày có trái nữa !” Cây vả chết khô ngay lập tức.” (Mt 21.19; xem thêm Lc 13:6tt); còn đây thì trái lại, nhờ dòng nước Thần khí tưới gội thấm nhuần, tín hữu được phong phú đến độ không chỉ trổ sinh hoa trái các nhân đức theo mùa, mà là mỗi tháng ! Còn lá thì không phải vô dụng, nhưng để làm thuốc, và sách Khải huyền (22.2) còn viết rõ thêm : “làm thuốc chữa lành các dân ngoại” (chữa bệnh vô tín và thờ ngẫu tượng của họ).
Vì không sinh ra những hoa quả ấy trong đời mình, biết bao người Kitô hữu sống trong khô cằn, chán nản, đau khổ, thất vọng não nề … Bao nhiêu gia đình đáng lẽ là tổ ấm lại trở thành địa ngục…Xã hội tràn ngập những tệ nạn, đồi trụy, sa đọa làm băng hoại các thế hệ người trẻ… Thế giới đầy dẫy những hận thù, khủng bố, chiến tranh…
--o0¡0o—
- Vậy muốn cho việc Rước Mình Máu Thánh Chúa phát sinh tất cả những hiệu quả tốt đẹp kể trên, phải làm gì ?
Có nhiều người than thở : Tại sao tôi Rước Lễ bao nhiêu năm mà chẳng thấy hiệu quả gì ? Nào đâu 4 hiệu quả Chúa Giêsu hứa ban cho ai ăn Thịt uống Máu Chúa (đã học trong Bài 3 này [4]), cũng như những đặc sủng và ân huệ Thần Khí vô cùng quí báu, và những hoa quả tốt lành thánh thiện như đã trình bày trên đây ?? Xin thưa : Tại vì có lẽ đã quên không thực hành hai điều quan trọng này:
1/ Giữ Giao Ước
2/ Tha thiết cầu xin.
Điều 1/ GIỮ GIAO ƯỚC
Giao Ước là một vấn đề quan trọng vào bậc nhất nhì trong đạo Chúa, nhưng lại rất ít khi được đề cập hay giảng dạy.
Chúng ta nên dành chút thời giờ để tìm hiểu.
Không sai ! Vấn đề Giao ước có tầm quan trọng vào bậc nhất nhì trong Đạo Chúa, chẳng thế mà trong việc chóp đỉnh của sứ mạng Chúa Giêsu – là đổ Máu ra Chuộc tội thế gian trong cái chết trên thập giá – thì hôm trước, khi lập Phép Thánh Thể để tưởng niệm muôn đời việc ấy, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng đó là một Giao Ước :
"Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em." (Lc 22.20) "và cho muôn người được tha tội." (Mt 26.28)
Nói đến Giao Ước là phải hiểu có hai bên ký kết với nhau, bên A và bên B mà chúng ta thường thấy trong các hợp đồng giao dịch buôn bán hằng ngày. Chúng ta mạn phép đem áp dụng vào Giao Ước của Thiên Chúa :
Thiên Chúa (bên A) cam kết trong Máu Đức Giêsu là sẽ tha tội cho loài người, sẽ phù trợ, sẽ ban mọi phúc lành…;
Phần loài người (bên B) cũng buộc phải giữ các điều khoản Thiên Chúa đưa ra.
Giao Ước Mới và vĩnh cửu do Chúa Giêsu thiết lập, mô phỏng theo Giao Ước xưa Thiên Chúa đã ký kết với dân Israen ở núi Sinai, vậy chúng ta hãy nhắc lại Giao ước xưa để hiểu Giao ước nay :
3“Ông Mô-sê xuống (núi) thuật lại cho dân mọi lời của ĐỨC CHÚA và mọi điều luật (được Chúa ghi trên hai bia đá). Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời ĐỨC CHÚA đã phán, chúng Tôi sẽ thi hành.”... 4 Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá (tiêu biểu) cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. 5 Rồi ông sai các thanh niên (vì hồi đó chưa thiết lập hàng tư tế) trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế ĐỨC CHÚA.
6 Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ (biểu tượng về Thiên Chúa). 7 Ông lấy cuốn sách giao ước (ghi chép các Lời Chúa, cách riêng 10 Điều Răn) đọc cho dân nghe. Họ thưa : “Tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã phán, chúng Tôi sẽ thi hành và tuân theo.” 8 Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói : “Đây là máu giao ước ĐỨC CHÚA đã lập với anh em, dựa trên những lời này.” (Xh 24.3-8)
Giải thích :
Qua đoạn Thánh Kinh trên, thấy đây là Giao Ước song phương, có hai bên ký kết, với những điều khoản bó buộc :
Bên Thiên Chúa hứa sẽ là Thần của họ với phận sự phù hộ, bảo vệ và ban phúc cho họ :
“Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa. Các ngươi sẽ biết rằng Ta, ĐỨC CHÚA, là Thiên Chúa các ngươi, Đấng cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập.” (Xh 6.7 ; Lv 26.27; v.v…)
Còn bên dân Israen muốn được hưởng các lời đoan hứa của Chúa mình, phải thề hứa giữ các điều răn và luật lệ Người truyền :
“Điều Ta truyền cho chúng là : Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc.” (Gr 7.23)
Dân hứa : “Tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã phán, chúng Tôi sẽ thi hành và tuân theo.” (Xh 24.7)
Và lúc ký kết, ông Môsê đứng ra làm như người trung gian, ông lấy máu rảy lên bàn thờ, biểu tượng về Thiên Chúa, và sau đó lấy nửa phần máu kia rảy lên dân chúng mà tuyên bố :
“Đây là máu giao ước ĐỨC CHÚA đã lập với anh em, dựa trên những lời này.”
Ngày nay việc ký kết thì dùng chữ ký viết trên bản hợp đồng, thời đó (cách đây khoảng 30 thế kỷ) chưa phát minh ra giấy mực, thì ký kết là bằng máu súc vật hay máu mình, vì vậy ta thường nghe người ta nói : “uống máu ăn thề”, mỗi người trong nhóm trích ngón tay cho chảy vài giọt máu vào một bát nước hay rượu, rồi chung nhau lần lượt uống, với ý nghĩa là nếu ai vi phạm giao ước hay hợp đồng, thì phải bị chết đổ máu ra như vậy.
Trong giao ước xưa, giữa các điều khoản Thiên Chúa truyền dạy, điều răn thứ nhất này quan trọng nhất :
"Hãy nghe, hỡi Israen, Giavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Giavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi…
Các ngươi sẽ không đi theo thần khác, thần của các dân ở chung quanh các ngươi, vì Giavê Thiên Chúa của các ngươi là Thiên Chúa ghen tuông, khí nộ của Người sẽ bừng lên phạt ngươi, và Người sẽ tru diệt ngươi khỏi mặt đất…
(Trái lại) các ngươi sẽ giữ chín chắn các lệnh truyền… các luật điều Người đã truyền dạy ngươi… ngõ hầu phúc đến cho ngươi" (Đnl 6.4-5,14-18).
Loài người mang xác thịt vật chất nên không quen sống với thế giới vô hình, do đó họ rất khó trung thành thờ phượng một vị Thiên Chúa vô hình, siêu việt, họ luôn bị cám dỗ tạc ra những hình tượng của những vật có sức mạnh mẽ phi thường như sư tử, bò mộng, thuồng luồng, giao long, con rồng v.v…, hoặc những hình tượng của những nhân vật anh hùng liệt nữ kiệt xuất, rồi tôn phong làm thần, làm chúa…
Để làm gì ? Thưa : Tiếng là để thờ song thực chất là để cầu được những điều họ mong ước. Ngày nay chúng ta vẫn thấy diễn ra như thế nơi các đền miếu….
Tích thờ con bò vàng đã được ghi chép trong Thánh Kinh là một thí dụ điển hình. (Xh 32.)
@@@@@_BÀI 96_@@@@@
- Thề thốt, đoan hứa là một chuyện, giữ lời thề hứa là một chuyện khác, vì thế không lâu sau, dân Israen đã sớm quên lời thề hứa (mời đọc đoạn sách Thủ Lãnh 2.11tt). Rồi những thời sau đó, dù được các tiên tri Chúa sai đến nhắc nhủ, khuyên bảo và ngay cả loan báo những hình phạt …, họ cũng chẳng thèm đếm xỉa, cứ liên tiếp vi phạm các điều kết ước càng ngày càng nặng nề, cách riêng điều luật quan trọng nhất đã nêu trên : Họ thờ đủ mọi thứ tà thần của dân ngoại bang, khiến Thiên Chúa nổi cơn ghen tuông – tức là một cách nói theo kiểu loài người, có ý bảo Thiên Chúa không bằng lòng vì dân chúng đã không chung thủy thờ một Chúa, như “gái chính chuyên chỉ có một chồng” – và Thiên Chúa đã bừng bừng thịnh nộ đánh phạt họ khủng khiếp : nước mất, nhà tan, đền thờ bị triệt hạ, và từ vua quan chí thứ dân phải đi lưu đày và làm nô lệ…
Những sự kiện này các sách Thánh ghi chép đầy đủ, không thể thuật lại hết ở đây. Chỉ mời nghe một đoạn sách Đệ Nhị Luật, trong đó ông Môsê cảnh báo dân Israen :
“Giữa anh em, đừng có người nào, nam hay nữ, đừng có dòng họ hay chi tộc nào hôm nay trở lòng với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, mà đi phụng thờ các thần của những dân tộc ấy. […]
Nếu kẻ nào làm thế thì …. bấy giờ cơn giận và lòng ghen tương của ĐỨC CHÚA sẽ bốc lên phạt người ấy, tất cả lời thề nguyền (đã ghi) chép trong sách này sẽ đổ xuống trên nó, và ĐỨC CHÚA sẽ xoá tên nó không còn dấu vết trong thiên hạ. ĐỨC CHÚA sẽ tách nó ra khỏi mọi chi tộc Ít-ra-en, cho nó phải mang hoạ, chiếu theo mọi lời thề nguyền của giao ước (đã ghi) chép trong sách Luật này.
Khi thấy các vết thương của miền đất này và những bệnh tật ĐỨC CHÚA giáng xuống trên đó, thì thế hệ tương lai, tức là con cái anh em đứng lên sau anh em, và người nước ngoài đến từ một miền đất xa xôi, sẽ nói : ‘Cả miền đất chỉ là diêm sinh, muối và lửa, không ai gieo vãi, không chi nảy chồi, không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn phá ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim, những thành mà ĐỨC CHÚA đã phá đổ trong cơn thịnh nộ và lôi đình của Người.’ Và mọi dân tộc sẽ nói : ‘Vì sao ĐỨC CHÚA đã xử như thế với miền đất này ? Vì sao cơn thịnh nộ lớn lao này đã bừng cháy ?’ - Người ta sẽ trả lời : ‘Ấy là vì họ bỏ Giao Ước của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông họ, Giao Ước Người đã lập với họ, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập." (Đnl 29.17-24)
Đọc những câu Thánh Kinh trên không phải để hù dọa, nhưng cốt ý cho thấy Thiên Chúa, tuy vốn rất mực yêu thương và từ tâm, nhưng cũng là Đấng công bằng chính trực vô cùng, Người thưởng phạt công minh, kẻ có tội, kẻ bất trung bị phạt, kẻ có công, kẻ trung thành được thưởng.
*
Bây giờ chúng ta đã hiểu : Chính vì dân Israen đã bất trung, nên Thiên Chúa dự trù một Giao Ước Mới :
“Này sẽ đến những ngày Ta kết (…) một Giao Ước mới, không phải như Giao Ước Ta đã kết với cha ông chúng…chúng đã hủy bỏ Giao Ước của Ta mặc dù Ta là Chúa tể của chúng. Vì này là Giao Ước Ta sẽ kết với Israen sau những ngày ấy, Ta sẽ đặt luật Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim chúng, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.” (Gr 31.31-33)
Đó là Thiên Chúa báo trước về Giao Ước mới và vĩnh cửu, mà Thiên Chúa sẽ sai Chúa Giêsu đến trần gian để thiết lập, khi Đức Giêsu phó mình chịu tế sát trên thập giá, lấy chính Máu của Người đổ ra mà ký kết.
Và Sách Tin Mừng Luca đã ghi lại việc Đức Giêsu lập Giao Ước mới ấy như sau :
Hôm trước ngày chịu tử nạn, trong bữa Tiệc Ly "Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến (hiến tế của) Thầy." Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là Giao Ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em"… "và cho muôn người được tha tội." (Lc 22.19-20; Mt 26.28)
Phía Thiên Chúa, vốn là Đấng rất mực trung tín, Người luôn giữ đúng lời cam kết sẽ tha tội và ban các phúc lộc cho loài người chúng ta.
Phía loài người, khi chúng ta chịu phép Rửa Tội, chính là lúc ta ký kết giao ước với Chúa.
Vậy thử nhớ lại xem ta đã thề hứa và cam kết những gì? Từ bỏ Satan và mọi việc quyến rũ của nó, và một lòng tin Chúa và giữ các lề luật Chúa truyền. Vậy trong cuộc đời, chúng ta có giữ các điều khoản Giao Ước đã ký kết khi ấy không ?
Không cần nói đến việc từ bỏ Satan, chỉ lưu ý việc tin Chúa và giữ các lề luật Chúa truyền, thì thấy tất cả đã được ghi chép trong sách Thánh Kinh ! Cách riêng điều khoản quan trọng nhất này mà Đức Giêsu nhắc lại trong Tin Mừng :
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22.37-40).
Ở đây để sang một bên điều răn thứ hai là yêu tha nhân, để nhấn mạnh cách riêng đến giới răn trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa, vì thấy rất nhiều người tín hữu Công giáo – cách riêng giới phụ nữ – thường hay yếu lòng mà vi phạm bởi tin vơ thờ quấy, mê tín dị đoan :
Họ vẫn đi nhà thờ, vẫn đọc kinh, có người còn dự Lễ, Rước Lễ hằng ngày, vào hội đoàn này, đoàn thể kia… Nhưng khi gặp nghịch cảnh, như thất nghiệp, đau ốm bệnh tật, tai nạn, khổ sở, gia đình lộn xộn v.v…, cầu xin Chúa và Đức Mẹ một hồi không thấy (hay chưa thấy) được nhậm lời, họ bèn chạy đi cầu cạnh tà thần ngẫu tượng ngoại giáo, bằng cách đi xem tướng, xem chỉ tay, xem số tử vi, đi cầu cơ, chiêu hồn, chiêm tinh, bói quẻ, hay dùng bùa ngải, đặt tượng ông địa, thần tài, ngay trong nhà hay ở cửa tiệm của họ…
Chưa kể tội quái gở hơn nữa là có vài tín hữu còn bán mình cho ma quỉ [5] để làm thầy pháp, thầy bói, thầy xem tướng số mà kiếm ăn.
Họ không biết là Thiên Chúa đã cấm làm tất cả những việc nói trên, vì coi những việc ấy là ghê tởm và nghịch mắt Chúa. Đây chỉ xin trích dẫn vài câu :
“Khi vào đất mà ĐỨC CHÚA …ban cho anh em, thì anh em đừng học đòi những thói ghê tởm của các dân tộc ấy: giữa anh em, … không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em. Anh em phải sống trọn hảo với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em.
“Các dân tộc anh em sắp trục xuất ấy thì nghe những thầy chiêm tinh, thầy bói, còn anh em thì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, không cho làm như vậy.” (Đnl 18.9-12)
“Các ngươi không được đến với các người ngồi đồng ngồi bóng và không được hỏi ý kiến chúng, kẻo vì chúng mà ra ô uế. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.” (Lv 19.31; 20.6,27)
@@@@@_BÀI 97_@@@@@
Và Giáo Hội Công giáo cũng đã đưa ra những kết án mạnh mẽ quyết liệt những việc ma thuật, mê tín dị đoan ấy. [6]
Những ai làm những việc đó đã phạm tội trọng nghịch điều răn thứ nhất : "Thờ phượng một Thiên Chúa trên hết mọi sự", mà trên kia đã trích dẫn (xem lại Đnl 6.4-5; Mt 22.37-40).
Và đừng nghĩ rằng làm những việc ấy là không sao ! Hãy nhớ lại lịch sử dân Israen ngày xưa, chính vì họ phạm những tội tầy trời ấy mà Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ đánh phạt khủng khiếp nước mất nhà tan, lưu đày viễn xứ ! Ngày nay, phạm những tội quái gở ấy có dám chắc là không bị mang họa ?
Hãy nghe mấy lời Thánh kinh này :
7 “Chúng nói rằng : “CHÚA đâu có thấy,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp chẳng để tâm !”
8 Này quân đần độn nhất trên đời !
Bao giờ mới nên khôn, hỡi đồ ngu xuẩn ?
9 Đấng từng gắn đôi tai, há lại không nghe ?
Đấng nặn thành cặp mắt, chẳng lẽ không thấy ?
10 Đấng sửa trị muôn dân, lẽ nào không phạt ?
Đấng dạy dỗ con người mà chẳng biết gì sao ?”
(Tv 94.7-10)
Ngoài việc bị hình phạt, những ai chạy theo các chuyện giả trá ấy còn bị Thiên Chúa coi là ngu dại, như lời Người phán dạy qua miệng tiên tri Isaia rằng :
"Chúng thật ngu dại… những kẻ cầu khẩn những thần không tài cứu độ…Ngoài Ta ra không có thần linh nào cả… Đấng Cứu Độ không đâu có trừ phi là Ta. Hãy quay lại với Ta để hòng được cứu thoát … vì chính Ta là Thiên Chúa, chứ không ai khác nữa" (Is 45.20-22).
Thánh Phêrô cũng tuyên bố trước Thượng Hội Đồng Do Thái một chân lý tương tự:
“Ngoài Đức Giêsu ra, không ai đem lại ơn cứu độ ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4.12)
Chúa bảo họ ngu dại, chẳng sai chút nào : Mất bao công sức, tiền của, chạy theo cầu cứu những kẻ phỉnh phờ gạt gẫm, mà có được gì đâu, nếu có được gì thì cũng là tình cờ may rủi, vì: “Đấng Cứu Độ không đâu có trừ phi là Ta.” Chưa hết, đã ngu dại mà còn nguy hại nữa. Cứ thử nghĩ mà xem, trong phạm vi thần thánh, ngoài Thiên Chúa, Đức Mẹ và các thánh, chỉ có loài ma quỉ, ta vừa nghe sứ ngôn Isaia nói rồi đó: “Ngoài Chúa ra không có thần linh nào cả”. Khi người ta không chạy đến cầu cứu với các Đấng tốt lành thánh thiện sẵn lòng thương giúp, mà đi cầu cứu các thầy pháp, thầy bói, thầy chiêm, tướng số v.v.. thì đúng là cầu cứu với ma quỉ, mà những kẻ đó là tay sai.
Lần kia một linh mục hỏi một người xưng tội “thường hay đi coi thày bói” rằng :
- Con có biết những thầy bói đó do ai sai đến không ? Có phải Thiên Chúa sai họ đến không ?
- Thưa không !
- Vậy Thiên Chúa không sai, thì ai sai họ đến ?
- Thưa : ma quỉ !
Đó thấy chưa ! Khi người ta chạy đến cầu cứu với họ chẳng phải là chạy đến cùng ma quỉ đã sai họ sao ?
Có điều khó hiểu là tại sao có những tín hữu thú nhận rằng biết những chuyện đó là giả trá mà họ lại cứ đâm đầu vào ? Phải chăng là họ bị bùa mê thuốc lú ? Đúng vậy, Thánh kinh viết :
Những tay sai của Satan có thể làm “đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, 10 và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ. 11 Vì thế Thiên Chúa gửi đến một sức mạnh mê hoặc làm cho chúng tin theo sự dối trá ; 12 như vậy, tất cả những kẻ không tin sự thật, nhưng ưa thích sự gian ác, thì sẽ bị kết án.” (2 Tx 2.9-12).
Mấy lời Thánh kinh này đã trả lời cho câu hỏi trên : Những tín hữu buông theo những sự dối trá, phỉnh gạt, đó là những kẻ “không có lòng yêu mến chân lý để được cứu rỗi”. Vì thế, họ bị một thứ “sức mạnh mê hoặc làm họ (mù quáng) tin theo sự dối trá” để “bị kết án”, “phải hư mất” đời đời.
Nhưng cũng phải nhận rằng nhiều khi các chuyện giả trá ấy lại khéo ngụy trang dưới lớp áo gọi là “Khoa học” huyền bí khiến nhiều người thật thà tin theo. Chẳng phải nhiều lần đã nghe có người bảo: Tử vi là chuyện khoa học đấy ư ! Tin vào khoa học thì sao lại có tội ?
Tội nằm ở chỗ không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Chúa, là Chủ của đời sống ta, không tin vào quan phòng an bài sắp đặt của Chúa cho cuộc đời ta, mà đi cầu cứu những quyền lực đen tối để biết trước về tương lai hậu vận, để nắm bắt và làm chủ vận mệnh mình hay của người khác.
Như thế thì dù tin vào khoa học, cũng là tội lỗi !
Huống chi những cái đó lại là bày đặt của ma quỉ, và của những tay sai của nó !
Và Thánh Phaolô đã lột mặt nạ chúng ra: “Có lạ gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng !” (2 Cr 11.14). Còn Đức Giêsu thì cảnh báo nặng lời hơn : “Hãy coi chừng… những kẻ đội lốt chiên (hiền lành), nhưng bên trong, là sói dữ tham mồi.” (Mt 7.15) hay ít ra là “tham tiền” của ta !
Vậy nếu chạy đến cầu cứu ma quỉ quả thật là chuyện vô cùng nguy hại, nhưng vì không thấy nguy hại xảy ra nhãn tiền nên không sợ, chỉ còn cách là nghe Lời Thánh kinh dạy cho biết rằng ma quỉ vốn ghen ghét loài người :
“vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian.”
(Kn 2.24),
đúng vậy, hãy nhớ lại cảnh nó xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội, và bởi đó phải bị đuổi ra khỏi cảnh địa đàng phúc lộc, và phải chết, cả dòng giống con cháu ông bà cũng chết lây (St 3.1-19; Rm 5.12). Nó độc ác đến mức ấy thì thử hỏi làm sao nó lại cứu giúp ta? Nó chỉ muốn giết hại, phá hủy, tiêu diệt. Vì vậy Kinh Thánh phải khuyên bảo : “Anh em hãy tỉnh thức, vì quỷ dữ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5.8).
Nhưng nó rất tinh khôn, nó luôn đem đến những lợi lộc để nhử mồi, cũng giống như khi đi câu, người câu cá giấu lưỡi câu bén nhọn bằng một mồi thơm ngon bên ngoài, con cá nào tưởng bở, đớp vào, là chết.
Đây cũng vậy, ma quỉ có thể dùng thầy bói, thầy bùa, thầy ngải v.v… làm lóa mắt ta bởi vài phép lạ, hoặc nhử mồi bằng cách hứa cho ta được vài lợi lộc vật chất như lòng ta mong muốn, nhưng đó chỉ là những phép lạ giả, lợi lộc phù vân, rồi sau này ma quỉ sẽ bòn rút lại cách này cách khác cho bằng hết, và tình trạng của người tin theo nó sau cùng sẽ khốn đốn hơn trước. Kinh nghiệm của nhiều người sa vào tròng phỉnh phờ gạt gẫm ấy của ma quỉ, đã thú nhận sự thật đau đớn đó, nên Chúa bảo ngu dại là vì vậy.
@@@@@_BÀI 98_@@@@@
- Tóm tắt :
Chung qui chỉ vì không tuân giữ những lời mình đã cam kết trong Giao Ước, mà bao nhiêu năm Rước Lễ chẳng được ơn ích gì, chẳng thấy sinh hoa trái tốt lành, cũng chẳng thay đổi cách sống tội lỗi cũ ! Thường nghe nhiều người than vãn như vậy : “Tôi đi Lễ, Rước Lễ đều đều mà sao chẳng thấy được gì?” Tại sao ư ? Họ thầm nghĩ là tại Chúa không thương tình, không đoái hoài, mà không nghĩ chính là tại mình. Tại vì đã bội ước quên thề, thế là Giao Ước đã bị hủy bỏ, và theo đúng qui luật của họp đồng, Thiên Chúa không còn bị ràng buộc bởi lời cam kết của Người nữa, tức là không ban các ơn phúc Người hứa ban cho ta nữa khi ta Rước Lễ.
Vậy nếu ai muốn được các phúc lộc Thiên Chúa hứa, thì phải tuân giữ các điều khoản của Giao Ước, cụ thể là giữ các điều luật Chúa truyền dạy, từ bỏ mọi tội lỗi, cách riêng phải tuyệt đối triệt tiêu tội tin vơ thờ quấy, mê tín dị đoan nói trên, bằng không, trong tình trạng bội ước như thế cứ lên Rước Lễ, chẳng những không thấy sinh ích lợi thiêng liêng gì cho mình, mà không chừng còn mắc tội phạm thánh, xúc phạm nặng nề tới Mình Máu Thánh Chúa, và biết đâu còn kéo đến trên mình những hình phạt nữa. Thánh Phaolô ngăm đe tín hữu thành Côrintô:
"Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh (Mình Thánh Chúa) và uống Chén (Máu Thánh Chúa) này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết. Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử… " (1 Cr 11.28-32)
Hãy nhìn vào gương của dân Israen :
"Tất cả (dân Israen ra khỏi nước Ai Cập)… đều được ở dưới cột mây (che chở), tất cả đều vượt qua Biển Đỏ (ráo chân an lành)…. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng (manna từ trời rơi xuống), tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá … (tắt một lời, họ được hưởng biết bao phúc lộc). Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc […] vì thờ ngẫu tượng ;… vì đã gian dâm cho nên nội một ngày, hai mươi ba ngàn người đã ngã gục ;… vì đã thử thách Thiên Chúa nên đã bị rắn cắn chết ; … vì đã lẩm bẩm kêu trách, nên đã chết bởi tay Thần Tru Diệt…
Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này." (1 Cr 10.1-11)
Không học được bài học đó, lại cứ theo thói quen lên Rước Lễ... rồi cứ ngây ngô tự hỏi là tại sao không thấy hiệu quả gì?
Nhưng may thay ! Thiên Chúa giàu lòng thương xót và nhân hậu, Người biết con người yếu đuối, nên Người sẵn lòng tha thứ và cho hồi phục, nếu con người biết hối cải quay trở lại cùng Người. Ta hãy nghe ông Môsê nói với dân Israen:
"Vậy khi tất cả những điều (tai họa) ấy xảy đến cho anh em, […] anh em sẽ để tâm suy niệm những điều ấy, […] ; anh em sẽ trở về cùng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, … sẽ nghe tiếng Người, hết lòng hết dạ, … ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ đổi vận mạng anh em, sẽ chạnh lòng thương…” (Đnl 30.1-6)
Đối với tín hữu chúng ta ngày nay cũng vậy, Thiên Chúa biết ta yếu đuối hay sa ngã, nên Người không hủy bỏ Giao Ước tức khắc sau mỗi lần ta phạm tội và vi phạm Giao Ước, song đã lập ra Bí tích Xá giải để tha tội, tha vạ cho ta. Nhưng đáng tiếc, ta lại hiểu việc Hội thánh bảo phải đi xưng tội trước khi Rước Lễ một cách quá đơn điệu và tiêu cực, nghĩa là chỉ coi việc đi xưng tội như một thủ tục để có thể lên Rước Lễ…, vì không được Rước lễ thì áy náy, xấu hổ hay sốt ruột, bởi không được như mọi người…, chứ không quan tâm đến mặt tích cực và tầm quan trọng của việc xá tội, là xóa bỏ những vi phạm các điều khoản của Giao Ước, khiến ta không được hưởng các phúc lộc của Chúa.
Chúng ta cũng thường đi xưng tội theo thói quen, rồi sau đó vẫn sống y như cũ, không quyết tâm từ bỏ tội lỗi. Như thế là không đúng. Xưng tội cách đúng mức, là không phải chỉ vào tòa cáo giải để trút tội cho linh mục, xong rồi ra về lại tiếp tục phạm tội như trước…, nhưng phải ý thức rằng vào tòa giải tội là vào gặp Chúa Giêsu, thì khi ra khỏi tòa cáo giải, chúng ta không còn có thể sống như cũ được nữa, phải trở nên con người mới không nhiều thì ít.
Các thánh và các Kitô hữu chân chính… đã hiểu và đã nỗ lực thi hành việc giữ các Điều Răn, Huấn Lệnh và Lệnh Truyền của Thiên Chúa, và nếu trót lỡ phạm tội, họ đã thống hối thật lòng, để qua phép Xá giải họ được hoàn toàn thanh sạch và nên con người mới, nhờ thế họ nếm hưởng được các phúc lộc từ việc Rước Mình Máu Thánh Chúa, và họ đã được hạnh phúc biết bao. Ta hãy theo gương các ngài để được phúc như các ngài !
*
Điều 2/ THA THIẾT CẦU XIN
Việc cầu xin này không cần nói, ai cũng biết phải làm thế nào, chỉ lưu ý chúng ta đừng chỉ cầu nguyện bằng môi miệng như thường quen, mà phải cầu nguyện bằng con tim, vì Thiên Chúa không nghe lời miệng ta nói, chỉ nghe tiếng con tim của ta thôi.
Để cầu nguyện, không kể những kinh thường quen, thì Kinh Lạy Cha là Kinh tuyệt vời nhất, có thể nói Chúa Giêsu đã dạy chúng ta một bản kinh tóm tắt và cô đọng tất cả những gì loài người có thể nguyện ước và cầu xin.
Nói thế không có ý bảo chúng ta đừng đọc kinh nào khác, chỉ đọc Kinh Lạy Cha mà thôi, nhưng có ý muốn đề cao sự tuyệt tác của Kinh này. Có thể nói Kinh này gồm tóm tất cả mọi Kinh, không có kinh nào nói những gì hơn hay ngoài những điều của Kinh này. Vì thế Chúa Giêsu chỉ dạy có một Kinh này cho các môn đệ Người mà thôi thì đã đủ. Tìm trong suốt cả cuốn Tin Mừng, không thấy Chúa Giêsu dạy thêm một kinh nào khác.
@@@@@_BÀI 99_@@@@@
Vậy nếu chúng ta biết khai triển nội dung phong phú của Kinh nguyện này, thì sẽ thấy những điều nói trên này là đúng.
Đây chúng ta hãy xem :
Ba câu đầu là ba lời nguyện ước dâng lên Chúa Cha. Đó là những điều Chúa Cha ưa thích, quan tâm và mong muốn nhất, mà Chúa Giêsu tiết lộ cho chúng ta được biết (xem Ga 1.18 ; 15.15), và chúng ta sẽ nguyện ước cho những điều ấy được thành sự để Chúa Cha được vui lòng thỏa dạ :
+ Nào là nguyện cho Danh Cha cả sáng : ước mong cho Danh Cha (tức là bản thân Cha) sáng rực lên trước mắt mọi người, để họ được thấy tất cả những vẻ “trọn tốt trọn lành” của Cha mà nhìn nhận rằng : chẳng có thần nào khác ngoài một mình Cha xứng đáng là Thiên Chúa chân thật độc nhất. Và một khi đã nhìn nhận như thế, họ sẽ sấp mình xuống thờ lạy, yêu mến và phụng sự Người.
+ Rồi nguyện ước cho Nước Cha trị mau đến : tức là nguyện ước cho Nước tốt lành, công bình và bác ái, vì trên đó có Cha là Vua hiển trị, mau được thiết lập hoàn toàn trên thế giới này, thay thế cho các nước trần gian tồi tệ, tham nhũng, đồi truỵ, bất an, bạo lực và đang gạt bỏ Thiên Chúa ; nhất là tại nước T…
+Và nguyện cho Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời : là ước mong cho những ý muốn lớn hay nhỏ của Chúa Cha trên cả vũ trụ này, trên thế giới cũng như trên từng người.. đều được thành sự một cách toàn bích toàn mỹ dưới đất này cũng như đã thành sự trên trời.
Sau ba lời nguyện ước, đến bốn lời cầu xin : Xin có lương thực hằng ngày. Xin Cha tha thứ tội lỗi. Xin được gìn giữ khỏi sa chước cám dỗ của quỉ ma, thế gian và xác thịt. Xin được an toàn thoát khỏi mọi tai hoạ…
Chúng ta nên lưu ý cách riêng đến lời cầu xin đầu tiên, vì nhiều tín hữu đọc câu này : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày” mà chỉ nghĩ là xin cơm ăn áo mặc cho phần xác, chứ không hiểu là xin cả lương thực thiêng liêng cần dùng để nuôi và bổ dưỡng linh hồn, là :
Bánh Lời Chúa,
Bánh Thánh Thể Mình Máu Thánh Chúa
và các Ơn Huệ Thánh Thần.
Tại sao ? Tại vì họ quên lời Đức Giêsu phán dạy :
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4.4).
Con người có hai phần xác và hồn, phần xác sống nhờ lương thực vật chất nuôi dưỡng, nhưng phần hồn đâu có thể nuôi bằng lương thực vật chất, cho dù đó là tư tưởng hay tri thức – vì trước mắt Thiên Chúa, tư tưởng và tri thức của ta cũng chỉ thuộc về vật chất, tuy chúng ta coi chúng là phi vật chất – mà phải bằng lương thực thần linh, thuần túy thiêng liêng từ Thiên Chúa ban cho.
Chính vì ý ấy mà trong Kinh Lạy Cha, chúng ta xin: “Cha ban cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày của chúng con…” [7], nghĩa là xin ban lương thực riêng của chúng con, là Lời Chúa, Mình Máu Thánh Chúa và Ơn Huệ Thánh Thần, chứ không phải lương thực chung của mọi người là cơm ăn áo mặc mà thôi.
Thánh Cyprianô († 258) đã hiểu và giảng dạy rằng : “Chúa Kitô là Bánh Sự Sống, và bánh đó không dành cho hết mọi người đâu, bánh đó là của riêng chúng ta. Vì cũng như chúng ta nói Lạy Cha (của) chúng con, bởi vì Người là Cha riêng của những ai biết và tin vào Người, [8] thì cũng vậy chúng ta nói xin Cha ban lương thực của chúng con, vì Chúa Kitô là Bánh của những ai thuộc về Thân Mình Ngài như chúng ta. Ta xin Cha cho ta Bánh ấy hằng ngày…” (Bài Kinh Sách, Mùa Thường Niên, Tuần 11, thứ năm).
Mặt khác cũng trong câu “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”, chúng ta ít lưu ý đến chữ “hôm nay”, có ý nói, hôm nào xin lương thực cho hôm ấy, như vậy là phải xin mỗi ngày: “Mỗi ngày / phải xin / mới được”, hôm nay xin lương thực mà ta cần dùng cho hôm nay, ngày mai lại xin lương thực mà ta cần dùng cho ngày mai. Ngày nào xin cho ngày ấy. Hôm nào không xin, rất có thể không có các lương thực thiêng liêng cho tâm hồn cho ngày hôm ấy, đang khi rất có thể hôm ấy ta vẫn có cơm ăn áo mặc vật chất đầy đủ. Không có của ăn thiêng liêng là Lời Chúa soi sáng tâm hồn, không có ánh sáng chỉ đàng dẫn lối, không có Bánh thiêng bổ sức tâm hồn, không có các ơn huệ Thánh Thần nâng đỡ…, hôm ấy ta dễ dàng lạc bước trong tối tăm, vấp ngã, phạm tội…
Lương thực vật chất thì dù không xin, Thiên Chúa vẫn ban cho vì “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”, Thiên Chúa đã tạo dựng nên các sinh vật, tất nhiên Người sẽ phải ban cho chúng của ăn thức uống, cũng như cha mẹ sinh con ra, tất nhiên có bổn phận nuôi nấng con cái. Cứ xem những con dã thú trong rừng, chúng đâu có cầu xin, thế mà Thiên Chúa vẫn để sẵn cho chúng đồ ăn thức uống chúng cần. Thánh vịnh gia ngày xưa đã ca ngợi sự quan phòng nuôi nấng săn sóc của Thiên Chúa đối với mọi loài mọi vật như thế :
“Chúa khơi nguồn : suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
[…] Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung hoành.
Tiếng sư tử gầm lên vang dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn.
[…] Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Ngài ban xuống, chúng lượm về,
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước.”
(Tv 104.10-28)
Đức Giêsu cũng đã nhắc nhở chúng ta :
“Hãy coi chim trời, chúng không gieo không gặt, không thu tích vào lẫm, và Cha trên trời nuôi nấng chúng"…“Hãy ngắm hoa huệ ngoài đồng chúng… không nhọc nhằn, không canh cửi, nhưng Ta bảo anh em : Salomôn trong tất cả vinh hoa đời ông cũng không ăn mặc sánh tày một đóa hoa đó…” (Mt 6.26-29).
Đúng vậy, những người ngoại giáo, những người không biết Thiên Chúa, những người vô tín, không hề cầu xin bao giờ, có khi còn chống nghịch Chúa, thế mà “Cha anh em, Đấng ở trên trời, cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác.” (Mt 5.45). Nói khác đi, Thiên Chúa không phân biệt đối xử, vẫn ban cho họ có các sự vật cần cho đời sống vật chất; có trí thông minh, thông thái…, chưa kể nhiều người còn nhờ tài trí khôn khéo mà làm giàu, có của ăn của để…
Nhưng các lương thực thiêng liêng thì nhất định là họ không có vì họ không cầu xin. Những lương thực thiêng liêng ấy, phải xin mới có được, mà còn phải mỗi ngày mỗi xin.
Biết bao người tín hữu, vì không cầu xin lương thực thiêng liêng, nên không được ăn bánh Lời Chúa, không được bánh Thánh Thể nuôi dưỡng, không có Ơn huệ Chúa Thánh Thần, cho nên phần xác thì no đầy, có khi còn phương phi béo tốt…, nhưng phần hồn thì héo úa, èo uột, bệnh hoạn… chất chứa đầy những dục vọng xấu xa, khiến họ luôn sa ngã vào tội lỗi …
Tóm Tắt :
Muốn xứng đáng lãnh được các phúc lộc vô cùng cao quí Chúa dành sẵn cho ta, cách riêng trong Phép Mình Máu Thánh Chúa, ta phải tuân giữ những điều khoản của giao ước ta đã cam kết :
“Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14.21)
và phải tha thiết cầu xin, mỗi ngày mỗi xin, vì Chúa Giêsu đã mách bảo cho ta :
“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá ? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn ? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao ?” (Mt 7.7-11)
@@@@@_BÀI 100_@@@@@
LỜI KẾT
DIỄN TỪ BÁNH HẰNG SỐNG (6.58)
Đức Giêsu tóm kết Diễn từ và xác quyết với người Do Thái bằng lời này :
58"Bánh này (Thịt Máu Tôi) là Bánh bởi trời xuống, không phải như (bánh manna) cha ông các ông đã ăn và đã chết, kẻ ăn Bánh (Hằng Sống) này sẽ sống muôn đời." (Ga 6.58)
Qua việc so sánh bánh Manna với Bánh hằng sống, Đức Giêsu một lần nữa (lần trước ở cc.49-50) lại nhấn mạnh một cách quyết liệt : một bên ăn mà vẫn chết, và bên kia ăn mà được sống muôn đời.
Muốn hiểu đầu đuôi gốc ngọn, hãy nhớ lại đoạn đầu của trình thuật (Ga 6.30-33): ở đó người Do Thái thách thức Chúa Giêsu xem có quyền năng bằng ông Môsê, là người đã cho tổ tiên họ ăn Manna bởi trời, hay không. Và Đức Giêsu đã phản bác lại : Manna của thời dân Do Thái lưu lạc ở hoang địa chỉ là thực phẩm vật chất rơi xuống từ không trung, chứ không phải từ trời, từ nơi Thiên Chúa xuống đâu. Nó chỉ là phép lạ Thiên Chúa làm, để nuôi dưỡng dân của Người tạm thời trong sa mạc hoang vắng có đủ sức tiến về Đất Hứa. Nó chỉ là hình ảnh tiên báo về Bánh Hằng Sống, mà Thiên Chúa Cha sẽ ban cho loài người về sau. Bản chất Manna chỉ là như thế thì dĩ nhiên ăn rồi vẫn phải chết, vì trong nó không mang sức sống của Thiên Chúa giúp người ta thắng tội và được sống. Bằng chứng là cha ông người Do Thái đã ngụy nghịch với Thiên Chúa trong sa mạc, nên vô số người đã phải chết, chết phần xác và chết cả phần hồn (xem 1 Cr 10.3-10 đã trích dẫn ; Dt 3.15-19).
Trái lại,
"Kẻ ăn Bánh (Hằng Sống) này sẽ sống muôn đời", vì Bánh này là Chúa Giêsu, từ trời xuống, có Sự Sống Thiên Chúa tràn đầy, có Viên Mãn Thần Tính của Thiên Chúa :
“Thật vậy, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện nơi Đức Giêsu, ngay trong thân xác, và trong Người, anh em được (hưởng no đầy) sung mãn…” (Cl 2.9)
SUY NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN
Nguyên chỉ nghĩ đến câu vừa nói, cũng đủ làm cho lòng ta ngất ngây hoan lạc : Rước Lễ là chúng ta lãnh nhận vào trong mình ta chính Chúa Giêsu, có tất cả sự viên mãn thần tính ngay cả trong thân xác Người, nghĩa là có tất cả những gì là Thiên Chúa vô lượng vô biên, toàn năng phép tắc vô cùng, thượng trí vô song, và tràn đầy yêu thương như biển rộng trời cao… không miệng lưỡi nào tả xiết !
Tạ ơn Chúa Giêsu vô cùng !
Lòng chúng con và miệng lưỡi chúng con không đủ sức tán dương ca ngợi và cám ơn thì xin Đức Mẹ, các Thiên Thần và các thánh trên trời tạ ơn Chúa thay cho chúng con.
Thế mà trước ân huệ vô cùng cực trọng ấy, có nhiều người trong chúng ta lại ăn ở giống như dân Do Thái trong hoang địa ngày xưa : Sau khi bị làm nô lệ vô cùng cực khổ trong nước Ai Cập, họ rên xiết than van cầu khấn Thiên Chúa cứu thoát ; đến lúc được Thiên Chúa nhậm lời và cứu thoát họ khỏi cảnh lầm than, nhưng phải đi trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, lẽ dĩ nhiên là thiếu thốn nhiều điều, lại đâm ra tiếc nhớ thức ăn thịt cá, rau quả, củ hành, củ tỏi… mà muốn quay trở lại chốn nô lệ khi trước. Thái độ vô ơn bạc bẽo của họ đã khiến Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ !
Chúng ta chê trách dân Do Thái vô ơn bội nghĩa cùng Thiên Chúa, mà không nhận ra rằng dân Do Thái là hình ảnh của chúng ta. Chẳng phải nhiều lần vì chút lợi nhỏ của thế gian, mà chúng ta sẵn sàng quay đầu trở lại thờ ngẫu tượng, tà thần như tổ tiên ngoại đạo chúng ta thời xưa : thờ ông địa, thần tài, tiền của, danh vọng, địa vị, … ?
Chẳng phải cũng như dân Do Thái, ta thường vô tâm kêu trách Chúa khi gặp gian nan thử thách ; vô ân bội nghĩa khi nhận được ơn Chúa ban mà chẳng biết tạ ơn ; vô ý thức khi gắn chặt đời mình vào của cải tạm bợ chóng qua…?
Chớ gì chúng ta biết gạt bỏ gương xấu của những phần tử bất hảo trong dân Do Thái, mà bắt chước những phần tử tốt lành của họ : Giữa những gian nan thử thách trong nơi hoang địa, những người này đã ra sức chống những nghịch cảnh, chiến đấu chống những kẻ thù, từ bỏ những cám dỗ sai lạc, kiên nhẫn chờ đợi, cho nên phải ăn Manna để có sức mà được vào “Đất Hứa chảy tràn sữa và mật”.
Chúng ta cũng vậy – đang trên đường lữ thứ trần gian –phải chịu khó, chịu khổ, đừng than thở trách móc, song hãy đến lãnh nhận Bánh Manna Hằng Sống, Thịt Máu Chúa Giêsu là thần lương nuôi dưỡng hồn xác chúng ta, vốn sức hèn thế yếu, hay lỗi phạm tội này, sa ngã trong tội kia…, để có sức mạnh thắng mọi chướng ngại, mọi cạm bẫy và cám dỗ nguy hại nơi thế gian, mà đạt tới Đất Hứa là Cõi Trời mới Đất mới, là Quê Hương Thiên Đàng, là Miền Hạnh Phúc Vĩnh Cửu cho những ai yêu mến, trung tín với Thiên Chúa cho đến cùng.
ššª››
PHẢN ỨNG CỦA THÍNH GIẢ CUỐI DIỄN TỪ BÁNH SỰ SỐNG (6.60-71)
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu về Người là Bánh từ trời xuống và việc ăn thịt uống máu Người để có sự sống, không những làm chói tai người Do Thái khiến họ phản đối dữ dội, (xem hình), mà còn gây khủng hoảng cả nơi những môn đệ Chúa nữa, và họ đã đưa ra những lời đả kích gay gắt :
"Lời chi mà sống sượng thế ? Ai nào có thể nghe nổi" (6.60).
Đáp lại, Chúa Giêsu khuyến cáo họ từ bỏ cách hiểu theo tính tự nhiên, và phải nhờ sự soi sáng của Thần Khí thì mới hiểu được, Người nói :
“Thần Khí mới tác sinh, xác thịt không có ích gì, vì lời Ta đã nói với anh em là Thần khí và là sự sống.” (6.63)
Người muốn bảo họ rằng : những “lời Người đã nói” về Bánh và Thịt Máu Người ban Sự Sống, tất cả đều là những thực tại siêu phàm, thuộc giới “Thần khí và sự sống” (tức là giới thần linh của Thiên Chúa) cho nên mới ban sự sống đích thật đời đời. Còn những gì thuộc giới "xác thịt không giúp ích gì", nghĩa là tất cả những gì thuộc lãnh vực tự nhiên phàm trần, dù đó là của ăn, sức lực hay tài trí con người đều nghèo nàn bất lực, không những không thể ban sự sống đích thật, mà cũng không có khả năng làm cho người ta hiểu được ý nghĩa mầu nhiệm sâu thẳm của những thực tại siêu phàm kia.
Vậy phải cầu viện đến Thần Khí, "Thần Khí mới tác sinh", mới làm cho sống, mới làm cho hiểu.
Cả chúng ta nữa cũng phải vâng nghe lời Chúa nói đây ! Vì có chắc chúng ta đã hiểu và đã sống những thực tại siêu phàm của Bánh ban Sự sống và Phép Thánh Thể chưa ?
Rồi Người bảo họ :
"Giá mà anh em thấy Con Người lên nơi Người đã ở truớc…" (6.62).
Câu này Đức Giêsu muốn dùng để giải tỏa sự vấp phạm gây khủng hoảng nơi môn đệ, song lại là một câu bỏ lửng… nên rất tối nghĩa, chúng ta chỉ tạm đoán ý nghĩa có thể là thế này :
Vì sao họ bị “sốc”? Vì họ cho là họ biết rõ mười mươi Đức Giêsu là “con ông Giuse” (6.42) tức là Người cũng có gốc gác tầm thường nhân loại, mà nay lại dám cuồng ngôn tuyên bố là “từ trời xuống” để ban Bánh Sự Sống muôn đời, và Bánh ấy là Thịt mình Người (6.38,51,58).
Để gỡ thắc mắc ấy, Người bảo: "Giá mà anh em trông thấy Con Người lên nơi Người đã ở truớc…” [9] thì lúc ấy anh em sẽ hiểu rằng : nếu Người có thể lên trời, vì đó là nơi Người đã ở trước, thì hẳn Người có thể từ trời mà xuống vì ai đã ở trên trời thì mới có thể từ đó xuống. Vậy Người đâu phải là “con ông Yuse” như họ vẫn nghĩ ! Nguồn gốc Người là ở trên cao đó.
Thế rồi, nếu Người từ trời xuống, tức là từ Thiên Chúa xuống, thì Người mới ban Sự Sống Thiên Chúa cho nhân loại được, vì Thiên Chúa là nguồn Sự Sống. Việc ban đó tuy được gọi là bánh từ trời (6.32-33) – để so sánh với manna, không phải là bánh thật từ trời xuống, mà chỉ là một thứ bột vật chất Thiên Chúa cho từ không trung rơi xuống, vì thế họ ăn mà vẫn phải chết (6.49,58) – song chính là Thịt Mình Đức Giêsu hiến tế vì sự sống của thế gian (6.51), ai ăn bánh Đức Giêsu ban đây sẽ không bao giờ phải chết nữa (6.50,58).
Tắt một lời, nếu ai nhờ "Thần Khí tác sinh", mà hiểu những lời Đức Giêsu nói về Bánh từ trời và Thịt Máu ban Sự Sống đời đời, toàn là Thần khí và là sự sống, thì sẽ không còn thấy chướng tai và bị vấp phạm nữa. [10]
@@@@@_BÀI 101_@@@@@
Nhưng Đức Giêsu biết : "Trong anh em có những người không tin" (6.64). Quả thật, có một số môn đệ (và những người Do Thái) không tin, họ không đoái hoài đến khuyến cáo của Đức Giêsu, là phải nhờ “Thần khí tác sinh” soi sáng giúp cho hiểu mầu nhiệm Bánh và Mình Máu thánh ban sự sống vĩnh cửu, cho nên với tài trí tự nhiên của “xác thịt không ích gì” (6.63), họ không có thể hiểu được điều huyền nhiệm đó, và tất nhiên họ không thể tin, không thể chấp nhận được lời tuyên bố của Người. Và từ đó, nhiều môn đệ đã bỏ không theo Người nữa (6.66).
Chúa Giêsu nói những lời trên để tháo gỡ vấp phạm của người Do Thái và khủng hoảng của nhóm môn đệ, thực ra cũng là để nói cho chúng ta :
Thời nay, không kể những người ngoài đạo, nơi nhiều Kitô hữu cũng vẫn còn gặp thấy sự khó tin và ngay cả cứng tin trước mầu nhiệm Thánh Thể, vì có lẽ họ chưa được Thần khí tác sinh giúp họ chấp nhận. Vậy nên thông cảm với họ hơn là lên án. Đối với họ, chỉ biết dựa vào tài trí tự nhiên, thì điều Đức Giêsu nói đây quả là một chuyện hết sức khó hiểu, khó tin : Làm sao Đấng Lời tạo dựng vũ trụ và muôn loài muôn vật, bây giờ vì cớ gì lại hiến Thịt Máu mình thành tấm bánh chén rượu cho loài người ăn uống ?
Nói gì đâu xa, cả những Kitô hữu bình thường vẫn lên Rước Lễ theo thói quen, nếu không xin “Thần khí tác sinh” soi sáng cho thấu hiểu mầu nhiệm Mình Máu thánh Chúa Giêsu ban sự sống, thì việc họ lên Rước Lễ theo thói quen khiến Mình Máu thánh Chúa không sinh ích lợi gì mấy cho tâm hồn họ. Thật là uổng biết bao ! May mà họ không dám phản đối hay bỏ Chúa như nhóm mấy môn đệ nói trên.
Không phải tất cả môn đệ đều bỏ Chúa, còn có nhóm Tông đồ, đứng đầu là Phêrô, không biết đã hiểu được phần nào chưa, nhưng ít nhất đã tin và tuyên xưng lòng tín nhiệm vào Chúa :
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (6.68-69).
Chúng ta cũng hãy cùng với Phêrô, tuyên xưng lòng tin và tín nhiệm của mình nơi Chúa Giêsu, dù ta được hiểu hay chưa được hiểu cho đủ huyền nhiệm Mình Máu Thánh Chúa. Lòng tin cậy và tín nhiệm thay thế tất cả. Vì :
“Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ?”
wwwVwww
NGUYỆN ƯỚC
Ước mong chớ gì các Kitô-hữu, chịu khó đọc và học Thánh Kinh Lời Chúa, hay ít ra học giáo lý đến nơi đến chốn, nhất là ước mong chớ gì các linh mục giảng dạy thấu đáo về phép Thánh Thể, cách riêng về Thánh Lễ, để mọi người được ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc dự Thánh Lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa !
Vì ý thức nên họ sẽ đón nhận được :
+ Những phúc lộc từ Mình Máu Thánh Chúa là :
1- Có sự sống Thiên Chúa nơi mình ;
2- Được sống muôn đời và được sống lại ngày sau hết ;
3- Được Chúa ở lại trong ta và ta ở lại trong Chúa;
4- Và sống nhờ Chúa !
Họ sẽ sung sướng nhìn biết rằng, mỗi khi được mời đến dự tiệc cưới của Chiên Thiên Chúa và rước lấy Bánh Hằng Sống, là vinh dự nhận được “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện nơi Chúa Giêsu ngay trong thể xác Người” (Cl 2.9); là được hạnh phúc nhận lấy Sự Sống và Sức Mạnh của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, Người đã vì yêu thương mà trở nên Lương Thực cho linh hồn chúng ta, để nhờ Người, chúng ta cũng sẽ được sống mãi như Người và cùng với Người, trong một cõi sống đầy ánh sáng hạnh phúc vô cùng vô tận.
Họ cũng sẽ đón nhận được :
+ Những đặc sủng và 7 ân huệ quí giá của Chúa Thánh Thần :
- Đặc sủng đức tin lay chuyển những tấm lòng cứng như đá ; đặc sủng chữa lành bệnh hoạn tật nguyền ; đặc sủng làm phép lạ; đặc sủng nói tiên tri và dạy dỗ ; đặc sủng nói các thứ tiếng lạ ; đặc sủng phục vụ, v.v…
- Và 7 ơn huệ : Ơn Khôn Ngoan, Ơn Thông Hiểu, Ơn Lo Liệu, Ơn Sức Mạnh. Ơn Suy Biết, Ơn Đạo Đức, Ơn Kính Sợ Thiên Chúa.
Sau hết, họ cũng nếm được cả :
+ Những hoa quả của Thần Khí :
Khi họ bác ái thì được bình an, khi hiền hòa thì được hoan lạc, khi có lòng nhân hậu thì cũng biết nhẫn nhục, khi biết tiết độ làm chủ mình, thì cũng có lòng từ tâm và sự trung tín. Nếm hưởng những hoa trái ấy trong đời mình, Kitô hữu sẽ sống trong vui tươi, lạc quan, đắc thắng… Bao nhiêu gia đình trở nên tổ ấm hạnh phúc …Xã hội cũng bình an… Thế giới bớt hận thù, chiến tranh…
LỜI NGUYỆN CUỐI
Nhờ Đức Mẹ Maria bầu cử, nguyện xin Thiên Chúa ban cho Kitô-hữu chúng con các Ơn huệ của Thánh Thần, để chúng con không còn sống theo tính xác thịt, phá vỡ Giao Ước chúng con đã cam kết trong Phép Rửa Tội, nhưng luôn giữ mình thanh sạch, xa tránh tội lỗi làm mất lòng Cha Trên Trời, vì biết rằng :
"Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê."
(Ga 5.24)
Thật là phúc lộc khi nhận biết được điều này, nhờ đó chúng con có ý thức mà sống theo Thần Khí luôn luôn gieo hạt tốt trong mảnh vườn đời của chúng con :
"Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai gieo vào tính xác thịt mình, thì sẽ gặt được sự hư nát từ xác thịt (vốn chỉ có hư nát). Còn ai gieo vào Thần Khí, thì sẽ gặt được Sự Sống Đời Đời từ Thần Khí (vốn là Nguồn Sự sống)." (Gl 6.7-8)
Ghi nhanh các bài học Lớp Thánh Kinh
của Lm. Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR,
do Têrêsa Kim Loan thực hiện.
[1] Như vậy ở đây đã xin cả 7 ơn Chúa Thánh Thần (sẽ nói dưới đây).
[2] Mời đọc : “Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai” và “Đức Giêsu đang sống”, của Cha Emilianô Tardif, HMTuấn phiên dịch.
[3] Mời đọc lại những trang đã viết về đề tài này, trên kia, từ tr.241 trở đi. Cũng xem thêm tập nhỏ : Vui sướng nguyện Kinh Lạy Cha (Lm. Ph.HMTuấn).
[4] Có Sự sống Thiên Chúa trong mình – được sống lại ngày sau hết – Chúa ở lại trong ta, ta trong Chúa – sống nhờ Thần khí Chúa.
[5] Trong những hội kín như Tam Điểm, hội thờ Satan… để được quyền lực, danh tiếng, giàu có…
[6] Ở đây, không tiện kể ra, mời đọc ở quyển “Rửa tội âm hồn nhập xác được không?” (của L.m. Hoàng Minh Tuấn).
[7] Bản Kinh Lạy Cha tiếng Việt, chỗ này : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” thiếu chữ “của chúng con”, có lẽ vì muốn hiểu ngầm hay là vì bỏ đi thì nghe mới êm tai, đang khi chữ ấy đều có trong bản gốc Hi Lạp : “Ton arton hêmôn ton epiousion dos hêmin sêmeron” ; trong bản La Tinh : “Panem nostrum quodianum da nobis hodie”, và trong các bản dịch ngoại ngữ khác, ví dụ Bible de Jérusalem, và TOB (bản dịch đại kết) : “Donne-nous aujourd'hui notre pain quotidien”.…
[8] Tuy Người là Thiên Chúa chung của mọi người không phân biệt tôn giáo hay địa vị, chủng tộc v.v…(Rm 3.29-30)
[9] Trích dẫn thêm vài câu Thánh kinh để rõ hơn : “Đức Giê-su đáp lời ông Ni-cô-đê-mô : “… Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” (Ga 3.12-13) ;
“Có lời Thánh kinh nói : Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù nhân, Người đã ban ân huệ cho loài người. Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất ? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn.” (Ep 4.8-10) ;
Đức Giê-su bảo : “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.” (Ga 20.17).
[10] Cũng mời xem chú thích w) và x) của bản dịch Thánh Kinh Đại Kết (T.O.B) về Ga 6.62-63.